Những nhân tố tác động đến quá trình tái thiết nước Mỹ sau nội chiến (1863 - 1877)

Tài liệu Những nhân tố tác động đến quá trình tái thiết nước Mỹ sau nội chiến (1863 - 1877): JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0014 Social Science, 2018, Vol. 63, Iss. 1, pp. 95-103 This paper is available online at NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH TÁI THIẾT NƯỚC MỸ SAU NỘI CHIẾN (1863 - 1877) Nguyễn Thị Bích Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Tóm tắt. Trong lịch sử nước Mỹ, Tái thiết được xem là giai đoạn có sức hấp dẫn đặc biệt, đầy kịch tích và gây nhiều tranh cãi trong giới học giả. Được tiến hành trong vòng 14 năm ngắn ngủi (1863-1877) song những chính sách mà chính phủ Mỹ thực hiện trong giai đoạn này đã tác động lớn đến mọi mặt của đời sống xã hội và là nhân tố quan trọng giúp nước Mỹ vượt qua đống đổ nát, nhanh chóng vươn lên trở thành cường quốc hàng đầu thế giới đầu thế kỉ XX. Bài báo tập trung phân tích những nhân tố thúc đẩy nước Mỹ tiến hành quá trình Tái thiết bao gồm: những biến động trong bối cảnh quốc tế và khu vực, sự phát triển của nước Mỹ đầu thế kỉ XIX, hậu quả tàn khốc của cuộc Nội chiến (1861- 1865) và ...

pdf9 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 500 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những nhân tố tác động đến quá trình tái thiết nước Mỹ sau nội chiến (1863 - 1877), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0014 Social Science, 2018, Vol. 63, Iss. 1, pp. 95-103 This paper is available online at NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH TÁI THIẾT NƯỚC MỸ SAU NỘI CHIẾN (1863 - 1877) Nguyễn Thị Bích Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Tóm tắt. Trong lịch sử nước Mỹ, Tái thiết được xem là giai đoạn có sức hấp dẫn đặc biệt, đầy kịch tích và gây nhiều tranh cãi trong giới học giả. Được tiến hành trong vòng 14 năm ngắn ngủi (1863-1877) song những chính sách mà chính phủ Mỹ thực hiện trong giai đoạn này đã tác động lớn đến mọi mặt của đời sống xã hội và là nhân tố quan trọng giúp nước Mỹ vượt qua đống đổ nát, nhanh chóng vươn lên trở thành cường quốc hàng đầu thế giới đầu thế kỉ XX. Bài báo tập trung phân tích những nhân tố thúc đẩy nước Mỹ tiến hành quá trình Tái thiết bao gồm: những biến động trong bối cảnh quốc tế và khu vực, sự phát triển của nước Mỹ đầu thế kỉ XIX, hậu quả tàn khốc của cuộc Nội chiến (1861- 1865) và những yêu cầu cấp bách đặt ra. Từ khóa: Nội chiến Mỹ, li khai, hậu quả chiến tranh, Tái thiết. 1. Mở đầu Lịch sử là dòng chảy liên tục của những sự kiện đan kết nhau một cách liền mạch. Đất nước Hoa Kỳ nếu so với một số quốc gia lâu đời khác, sẽ không có nhiều sự kiện mang bề dày lịch sử nhưng lại xảy ra nhiều biến động lớn trong suốt quá trình lập quốc. Lịch sử Hợp chúng quốc hiện lên với tất cả bản sắc và nét đặc trưng của từng cộng đồng, trên từng cột mốc lịch sử thăng trầm, khi vinh quang rực rỡ, lúc suy sụp đau buồn của một quốc gia hùng mạnh. Một dân tộc được hình thành từ cuộc chiến tranh giành độc lập đầy vinh quang lại phải đối mặt với nguy cơ chia rẽ trong cuộc nội chiến đẫm máu nhất trong lịch sử. Nhưng cũng từ cuộc Chiến tranh li khai đó, một Liên bang Mỹ thống nhất thực sự về kinh tế, chính trị, văn hóa mới được định hình. Bởi vậy, lịch sử Mỹ nói chung và lịch sử Mỹ thời kì Tái thiết nói riêng đã trở thành "một hiện tượng cần được nghiên cứu, một thực nghiệm về tinh thần và chính trị cần được đánh giá" [2; tr.162]. Vấn đề này đã được phản ánh trong một số tác phẩm chuyên khảo như: Liên bang Mỹ - Đặc điểm xã hội – văn hóa [5], Lịch sử Hoa Kỳ giai đoạn lập quốc đến thế kỉ XIX của tác giả Nguyễn Thái Yên Hương. Các cuốn sách trung phân tích các vấn đề đặt ra cho Hoa Kỳ sau Nội chiến và những mục tiêu cơ bản của công cuộc Tái thiết; quá trình điều chỉnh và bổ sung nội dung Kế hoạch tái thiết qua các nhiệm kì Tổng thống cũng như những phức tạp nảy sinh của quá trình này. Đối với một số tạp chí chuyên ngành như Châu Mỹ ngày nay, Nghiên cứu lịch sử, Nghiên cứu châu Âu, đại đa số các bài viết đều chỉ đề cập gián tiếp đến chủ đề thông qua việc phân tích Ngày nhận bài: 15/9/2017. Ngày sửa bài: 11/10/2017. Ngày nhận đăng: 20/1/2017. Liên hệ: Nguyễn Thị Bích, e-mail: nguyenbich30.08@gmail.com. 95 Nguyễn Thị Bích những thành quả nước Mỹ đạt được về luật pháp, kinh tế, văn hóa... đầu thế kỉ XX sau khi quốc gia này bước ra khỏi đống đổ nát chiến tranh. Rất hiếm hoi mới có bài viết đề cập trực tiếp đến quá trình Tái thiết của nước Mỹ như Hòa giải dân tộc sau nội chiến của Hoa Kỳ - những điều nên suy ngẫm cho các xung đột dân tộc trên thế giới hiện nay của tác giả Đỗ Thị Diệu Ngọc (Châu Mỹ ngày nay, tr.28-34, số 5/2013).Theo tác giả bất kì cuộc chiến nào cũng cũng để lại đằng sau những hệ lụy mà nhân dân phải gánh chịu và những người lãnh đạo đất nước phải giải quyết. Sự khôi phục của đất nước nhanh hay chậm tùy thuộc vào các chiến lược, quyết sách đúng đắn của chính quyền đương nhiệm. Đất nước Hoa Kỳ trong và sau Nội chiến đã may mắn nằm trong sự lèo lái của Abraham Lincoln với những định hướng khôi phục đất nước dựa trên nền tảng là sự hòa giải dân tộc. So với các công trình ở Việt Nam thì các công trình ở nước ngoài, đặc biệt là các tác giả Mỹ nghiên cứu về quá trình Tái thiết rất dồi dào và phong phú. Tiêu biểu nhất trong nhóm này là hai công trình Lược sử nước Mỹ thời kì Tái thiết (1863-1877) [7] và cuốn Lịch sử mới của nước Mỹ (The New American History) do Eric Foner chủ biên. Trong tác phẩm của mình, Eric Foner đã đặt ra hàng loạt câu hỏi về thực chất công cuộc Tái thiết đất nước như: Điều kiện nào để tái hội nhập những bang liên minh miền Nam với Liên bang? Ai là người sẽ đưa ra những điều kiện này, Quốc hội hay Tổng thống? Hệ thống lao động nào sẽ dùng để thay thế những người nô lệ trong các đồn điền? Người da đen sẽ giữ vị trí như thế nào trong đời sống chính trị xã hội của miền Nam và đất nước?. Trọng tâm trong công trình của tác giả Eric Foner là người da đen – những người được ông miêu tả không chỉ là nạn nhân thụ động mà còn tham gia tích cực vào quá trình Tái thiết nước Mỹ. Ngoài ra, cuốn Lịch sử Hoa Kỳ - những vấn đề quá khứ [10] phân tích sâu sắc các sự kiện chủ yếu trong lịch sử nước Mỹ. Trong đó, tác giả đã đề cập đến hậu quả của cuộc Nội chiến và hệ thống các quan điểm về vấn đề Tái thiết đất nước của mỗi Đảng phái trong xã hội Mỹ lúc bấy giờ. Unger cũng chỉ ra rằng những di sản của cuộc Nội chiến và Tái thiết ảnh hưởng đến tận sau này. Nhìn chung, các công trình nêu trên đã đề cập ít nhiều đến các nhân tố thúc đẩy nước Mỹ tiến hành quá trình Tái thiết sau Nội chiến song mới chỉ mang tính khái quát. Việc phân tích một cách cụ thể, hệ thống, sâu sắc vấn đề trên vẫn còn bỏ ngỏ. Do đó, đây sẽ là nội dung để tác giả tập trung giải quyết. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Những biến động của bối cảnh quốc tế và khu vực Từ những năm 70 của thế kỉ XIX, cách mạng tư sản được hoàn thành dưới nhiều hình thức và nhiều mức độ khác nhau ở Tây Âu và Bắc Mỹ, Nhật Bản,... khẳng định sự thắng thế của hệ thống tư bản chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới. Nhờ xóa bỏ những trở ngại trong quá trình phát triển mà các nước đã chuyển sang cuộc cách mạng công nghiệp, tạo ra sự nhảy vọt của lực lượng sản xuất. Một số nước tư bản chủ yếu đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc. Tuy nhiên, do quy luật phát triển không đều và để đáp ứng tốc độ phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, các nước tư bản Âu Mỹ đẩy mạnh việc phân chia thị trường và thuộc địa, sự cạnh tranh giữa các quốc gia ngày càng quyết liệt. Vì thế: “Cuộc nội chiến Mỹ bùng nổ vào 1861 đã tác động mạnh đến các quan hệ quốc tế. Bọn tư sản tự do Tây Âu trước hết là tư sản Anh, đứng về phe chủ nô và kêu gọi can thiệp để bênh vực chế độ nô lệ ở miền Nam Hoa Kỳ” [4; tr.23]. Đây là yếu tố khách quan đòi hỏi nước Mỹ phải kết thúc nội chiến, đẩy mạnh tái thiết đất nước, củng cố sức mạnh để tránh nguy cơ can thiệp từ bên ngoài, đồng thời vươn lên đứng vào hàng ngũ các nước đế quốc trên thế giới. 96 Những nhân tố tác động đến quá trình tái thiết nước Mỹ sau nội chiến (1863 - 1877) Thế kỉ XIX cũng chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của phong trào xóa bỏ chế độ nô lệ trên thế giới. Cuộc cách mạng trong lĩnh vực kĩ thuật sản xuất này đã làm thay đổi bộ mặt của các nước tư bản. Máy móc chứng tỏ ưu thế vượt trội so với lao động thủ công. Yêu cầu về nguyên nhiên liệu cũng như thị trường tiêu thụ hàng hóa, nguồn lao động tự do đã khiến các nhà tư bản công nghiệp nhận ra phải chấm dứt việc buôn bán nô lệ và xóa bỏ chế độ nô lệ tại các thuộc địa cũng như ở chính quốc. Điều này đã làm thay đổi chính sách của các nước thực dân đối với chế độ nô lệ ở các nước thuộc địa. Đồng thời, dưới ánh sáng của trào lưu tư tưởng dân chủ, đặc biệt là tư tưởng “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” của cuộc đại cách mạng Pháp đã tác động lớn đến các tầng lớp nhân dân ở châu Âu trong việc lên án chế độ nô lệ. Trong giai đoạn này, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ ở Mỹ Latinh đã tác động trực tiếp đến cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ. Điển hình là cuộc khởi nghĩa ở Haiti do L’ouverture – một nô lệ da đen lãnh đạo, nghĩa quân đã đốt phá đồn điền của người da trắng và nhanh chóng khống chế được các vùng ở Haiti, sau đó đánh bại quân Pháp, quân Tây Ban Nha và sự can thiệp của Anh, buộc Anh phải ký điều ước với L’ouverture vào tháng 10/1798, thừa nhận nền độc lập của Haiti. Sau Haiti, một phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đã bùng nổ ở khu vực Mỹ Latinh đầu thế kỉ XIX. Các quốc gia lần lượt nổi dậy, tiến hành cách mạng và lật đổ sự thống trị của bọn thực dân Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. 17 quốc gia đã tuyên bố độc lập. Sau khi giành độc lập, các nước đều công bố hiến pháp, xây dựng nước cộng hòa và ban hành các đạo luật cấm buôn bán nô lệ và tiến hành giải phóng nô lệ (trừ Brazil). Như vậy, cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ trên thế giới, nhất là ở khu vực châu Mỹ diễn ra mạnh mẽ cùng với những ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng tiến bộ đã góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh của nô lệ và các giai tầng tiến bộ trong xã hội Mỹ nhằm tiến tới giải phóng người da đen. Đây vừa là nguyên nhân được đến cuộc Nội chiến, vừa là một trong những nhiệm vụ trọng tâm cần giải quyết của nước Mỹ thời kì Tái thiết. 2.2. Sự phát triển của nước Mỹ nửa đầu thế kỉ XIX Sau khi cuộc cách mạng tư sản Mỹ dành thắng lợi, nền kinh tế Mỹ nhanh chóng vươn lên phát triển mạnh mẽ. 2.2.1. Công nghiệp Về công nghiệp, nước Mỹ được thừa hưởng rất nhiều thành tựu về khoa học, kĩ thuật của châu Âu, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp Anh. Công nghiệp dệt, trong nửa đầu thế kỉ XIX, phát triển với tốc độ nhanh chóng. Năm 1805, công nghiệp dệt của Mỹ có 4500 ống suốt, đến trước cuộc “Chiến tranh li khai” đạt tới 5.200.000 ống suốt, tức là hơn 1.000 lần [9,tr. 184]. Vùng New England trở thành trung tâm của ngành công nghiệp dệt, chiếm 2/3 xí nghiệp sản xuất vải và len trên toàn nước Mỹ. Công nghiệp luyện kim và khai mỏ có sự tăng trưởng vượt bậc về mặt sản lượng. Sản xuất gang thép đã nhanh chóng tạo thế đứng vững chắc trong các ngành công nghiệp Mỹ. Từ năm 1850 đến năm 1860, sản lượng gang thép từ 600.000 tấn lên tới 988.000 tấn. Trung tâm công nghiệp luyện kim nằm ở tiểu bang Pensynvalnia. Sản lượng Anratxit khai thác tăng dần từ 2.000 tấn lên tới 10.984.000 tấn trong thời gian 1815 - 1860. Cũng trong thời gian này, khối lượng than đá cháy chậm tăng từ 253.000 tấn lên 9.057.000 tấn [10, tr. 309]. Việc phát hiện ra mỏ vàng ở California năm 1848 góp phần tạo sự kích thích cho nền kinh tế công nghiệp phát triển. Công nghiệp chế tạo máy đã trở thành một ngành đóng vai trò then chốt trong công nghiệp. Năm 1817, xuất hiện nhà máy chế tạo máy hơi nước. Đến giữa thế kỉ XIX, số nhà máy chế tạo máy 97 Nguyễn Thị Bích móc đã tăng lên đáng kể. Do nguyên liệu gỗ phong phú, nhu cầu vận chuyển đường biển và đường sông rất lớn nên ngành đóng tàu phát triển rất nhanh. Từ trước cách mạng, công nghiệp đóng tàu của Mỹ đã từng cung cấp cho ngành hàng hải của chính quốc. Đến lúc này, công nghiệp đóng tàu trước nhu cầu mới càng phát triển nhanh chóng. Đến năm 1862, riêng tàu buôn bán trên biển của Mỹ đạt trọng tải 2,4 triệu tấn [9; tr.185]. Ngoài ra, việc vận tải đường sông cũng trở thành nhu cầu bức thiết giữa miền Đông và miền Tây nước Mỹ, giữa vùng đất giàu có nội địa và vùng đất phát triển ở miền Đông. Sự phát triển công nghiệp đóng tàu chạy trên sông đặc biệt được chú ý từ đầu thế kỉ XIX. Tuyến đường sông Ohio và Mississippi trở thành một mạng vận chuyển huyết mạch đối với kinh tế nội địa. Tàu hơi nước đã cách mạng hóa lịch trình và chi phí cho vận chuyển và đi lại trong vùng sâu nội địa. Trước đây phải mất bốn tháng để chèo sào ngược dòng từ New Orleans đến Louisville thì năm 1819, tàu hơi nước đã giảm thời gian đi còn 17 ngày, vào năm 1853, thời gian chỉ còn 4,5 ngày. Phí vận chuyển trung bình từ 5 USD/100 cân Anh xuống chỉ còn 15 xu [10; tr.298]. Công nghiệp đường sắt phát triển với tốc độ rất nhanh và được xem là mạch vận chuyển nguyên liệu, hàng hóa công nghiệp trên một vùng đất rộng hàng triệu cây số vuông. Công ty Mỹ đầu tiên thực sự tham gia vào quá trình này là Baltimore và Ohio. Đến năm 1836, ở Mỹ đã xây dựng được 1000 dặm đường sắt nối liền 11 bang với nhau. Hệ thống giao thông được xây dựng trong thời kì này đã tăng thêm quyền lợi kinh tế cho các nhà tư bản và cũng cố liên minh chính trị trong nội bộ Liên bang. Đến năm 1860, nước Mỹ có thể tự hào với hơn 30.000 dặm đường sắt, có thể vận chuyển người và hàng hóa từ bờ biển Đại Tây Dương đến các vùng đất xa xôi ở miền Tây như St.Joseph, Missouri và từ Portland, Maine đến New Orleans. 2.2.2. Sự phát triển của xí nghiệp và hệ thống Ngân hàng Với đà tăng trưởng của các ngành công nghiệp dẫn đến số lượng các xí nghiệp với số vốn tư bản khoảng 1 tỉ $ chiếm tỉ lệ lớn. Theo ước tính, năm 1860, Mỹ có 140.433 xí nghiệp với số vốn khoảng 1 tỉ $, giá trị sản lượng hàng năm đạt gần 2 tỉ $ [9; tr.185]. Vào những năm trước Nội chiến, hệ thống ngân hàng Mỹ phát triển rất mạnh. Ngân hàng thương mại hiện đại đầu tiên của Mỹ là Ngân hàng Bắc Mỹ (Bank of North American), được Quốc hội Mỹ cấp phép vào năm 1781 đóng tại Philadelphia. Năm 1816, ngân hàng thứ hai của Mỹ được cấp phép thậm chí còn lớn hơn ngân hàng thứ nhất, với số vốn là 35 triệu USD. Đến năm 1820, có 300 ngân hàng nhà nước, đến năm 1834 con số này là 500, và đến năm 1860 đã lên đến gần 1.600 ngân hàng [10; tr.289]. Hệ thống ngân hàng này đã đáp ứng nhu cầu to lớn của nền kinh tế, cung cấp cho sự tăng nhanh về vốn mà không có lạm phát. 2.2.3. Về nông nghiệp Trước Nội chiến, lợi thế kinh tế chủ yếu của Mỹ là trong nông nghiệp. Sự phát triển của công nghiệp đã kéo theo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nền nông nghiệp Mỹ. Đặc điểm nổi bật của kinh tế nông nghiệp là sự phát triển theo“con đường kiểu Mỹ” như Lênin đã nhận xét. Ở miền Nam, kinh tế nông nghiệp hoàn toàn khác với miền Bắc. Trong đó cần phải nhấn mạnh đến sự ra đời của Vương quốc bông (Cotton Kingdom). Năm 1793, khi Eli Whitney phát minh ra một loại máy đơn giản có thể tách hạt dính ra khỏi những cây bông một cách kinh tế, năng suất bằng 50 người tách hạt bằng tay. Với phát minh hữu ích này, máy tách hạt bông và nền văn hóa sợi bông đã nhanh chóng lan ra khắp vùng Hạ Nam. Hàng ngàn chủ đồn điền, chủ nông trại da trắng và nô lệ nhập cư vào miền Tây Georgia, Florida, Alabama, Mississippi, Louisiana, Ankansas, và Đông Taxas đã phá đồng ruộng để trồng bông. Từ chỗ có khoảng 2 triệu pound vào năm 1793, sản lượng bông sợi ngắn đã tăng vọt đạt 80 triệu pound năm 1811. Đến năm 1859, nước Mỹ đã sản xuất 5 98 Những nhân tố tác động đến quá trình tái thiết nước Mỹ sau nội chiến (1863 - 1877) triệu thùng với 400 pound/thùng và trở thành nhà cung cấp chính sợi bông thô trên thế giới. Địa hạt của vua Bông được mở rộng từ Bắc Carolina trên bờ biển Đại Tây Dương với chiều dài 1.300 dặm hướng Tây về trung tâm Taxas và từ vịnh Mexico đến Tennessee [10; tr 294]. Đến giữa thế kỉ XIX, sản lượng bông của miền Nam nước Mỹ chiếm 80% sản lượng bông của toàn thế giới [7; tr.176]. Phần lớn bông thu hoạch phục vụ cho xuất khẩu sang thị trường châu Âu, trước hết cung cấp cho các nhà máy dệt Anh. Như vậy, chỉ trong thời gian chưa đầy một thế kỉ sau khi giành độc lập, đến giữa thế kỉ XIX, nền kinh tế của Mỹ đã phát triển vượt bậc. Bảng tổng hợp những thành tựu kinh tế Mỹ, 1815 – 1850 Nội dung 1815 1860 Tổng diện tích đất (đơn vị dặm vuông) 1.716.003 3.022.378 Tổng dân số 8.419.000 31.513.000 Nông thôn 93% (1820) 80% Thành thị 7% (1820) 80% Dân số từng miền Đông Bắc 0,4% (1820) 36,5 % Nam 30,4% (1820) 25,6 % Tây 19,2% (1820) 37,8 % Người nhập cư hàng năm 8.385 (1820) 153.640 Lực lượng lao động (từ 10 tuổi và lớn hơn) Lao động tự do 2.185.000 (1820) 8.770.000 Nô lệ 950.000 (1820) 2.340.000 GNP tính theo đầu người (1840 = 100) 67,6 (1820) 137,0 Thu nhập trung bình hàng tháng bao ăn của lao động trang trại (đơn vị USD) 9,45 (1818) 13,86 Đầu tư chính phủ vào dự án kênh đào (đơn vị USD) Dưới 50.000 1.200.000.000 Số dặm đường sắt đang được khai thác 23 (1830) 30,626 Ngân hàng do Nhà nước cấp phép 208 1.562 Ngoại tệ đang lưu thông (đơn vị USD) 67.100.000 435.407.000 Phát minh được cấp phép 173 4.589 Giá trị hàng xuất khẩu (đơn vị USD) 52.557.753 333.576.000 Giá trị hàng nhập khẩu (đơn vị USD) 85.356.680 367.760.000 Sợi bông xuất khẩu (đơn vị USD) 17.529.000 191.805.555 Sản lượng nông nghiệp thô (đơn vị USD) 338.000.000 1.579.000.000 Giá trị sản phẩm nhận được ở New Orleans thời thời thuộc địa (đơn vị USD) 9.749.253 (1815 - 16) 155.863.564 Sản lượng sợi bông ( đơn vị thùng) 209.000 3.841.000 Sản lượng gỗ xẻ (đơn vị feet từng tấm) 600.000.000 (1819) 8.000.000.000 Sản lượng than đá cháy chậm ( đơn vị tấn) 253.000 9.057.000 Anraxit Pensylvania (tính bằng tấn Mỹ) 2.000 10.984.000 Lô hàng gang (tính bằng tấn Anh) 20.000 (1820) 821.000 (Nguồn: Tài liệu thống kê lịch sử của Mỹ, Thời thuộc địa đến 1957; D.C.North, Sự tăng trưởng kinh tế của Mỹ, 1790 – 1860; và Paul A.David, “Sự tăng trưởng sản lượng thật ở Mỹ trước 1840”, Nhật báo Lịch sử kinh tế XXVII (1967) ) 99 Nguyễn Thị Bích 2.2.4. Về chính trị Với lãnh thổ chỉ vẻn vẹn mười ba bang lúc khởi thủy nằm ven bờ đại dương, với diện tích 888.685 dặm vuông, thế nhưng chỉ trong vòng chưa đầy một thế kỉ kể từ khi lập quốc, đến giữa thế kỉ XIX, bằng nhiều biện pháp ngoại giao khác nhau, chính phủ Mỹ đã làm chủ được những vùng lãnh thổ rộng lớn, trải dài từ Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương. Đến giữa thế kỉ XIX, lãnh thổ nước Mỹ có diện tích khoảng 7.800.000 kilômét vuông (tương ứng 3.012.746,23 dặm vuông), nghĩa là bằng 4/5 diện tích Âu châu nhưng chỉ với dân số bằng 1/20 “Cựu lục địa” [2; tr. 75]. Những vùng lãnh thổ với đất đai màu mỡ, khí hậu trong lành, rất thuận tiện cho việc phát triển nông nghiệp đã tạo điều kiện cho việc chuyên canh cây trồng đối với từng khu vực. Hàng loạt cây trồng khác nhau được canh tác tại miền Tây đất nước mang lại năng suất cao, góp phần biến Mỹ trở thành một trong những “kho lương thực” dồi dào bậc nhất thế giới, đồng thời đóng góp một tỷ trọng đáng kể trong nền kinh tế nước Mỹ. Phía dưới lòng đất của các lãnh thổ có trữ lượng khoáng sản dồi dào, như than đá ở Illinois và Kentucky, dầu lửa ở Texas, vàng ở California. Ngoài ra, còn phải kể đến các loại khác, như sắt, gang, kẽm, chì, crôm v.v. . . Sự dồi dào của các loại khoáng sản tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành công nghiệp khai khoáng phát triển nhanh chóng. Bên cạnh đó, việc đẩy biên giới quốc gia về phía Tây làm cho nước Mỹ có được nhiều hải cảng tốt tại bờ biển Thái Bình Dương, như: San Francisco, San Diego, Juan de Fuca. Điều này đã góp phần rút ngắn khoảng cách tuyến hải trình trên Thái Bình Dương, đến với thị trường phương Đông. Xét về địa lý – quân sự, những lãnh thổ có được sẽ tạo ra bước đệm cần thiết trong việc bành trướng Alaska, Samoa, Hawaii và Philippines trong nửa sau thế kỉ XIX. Những địa điểm này được xem là “những nhịp cầu trên một cây cầu” nối Mỹ với khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Việc có được vùng lãnh thổ rộng lớn phía Tây kéo theo quá trình di dân đến địa bàn này. Số lượng người đến định cư miền Tây ngày càng tăng theo thời gian. Vào năm đầu tiên của thế kỉ XIX, tức năm 1800, có khoảng 700.000 người, đến năm 1810, con số này là 1 triệu người. Một thập kỉ tiếp theo, tức năm 1820, là 2 triệu người. Năm 1830 là khoảng 3 triệu người [2; tr. 85]. Quá trình di dân đến miền Tây góp phần phân bố lại dân cư Mỹ ở các vùng lãnh thổ, xóa bỏ tình trạng quá tải về dân số ở các tiểu bang miền Đông. Cùng với đó, diện mạo của mỗi vùng lãnh thổ thay đổi với sự xuất hiện cơ sở hạ tầng hiện đại. Những vùng lãnh thổ đó giữ vai trò một chiếc van an toàn để giải quyết tình trạng bất ổn xã hội, đồng thời loại trừ những phần tử có tư tưởng bất mãn và chống đối ở miền Đông. Cùng với công cuộc bành trướng đất đai về phía Tây, ngay từ những năm đầu sau cách mạng, chủ nghĩa tư bản Mỹ đã mưu toan mở rộng sự thống trị của mình ra khu vực Mỹ latinh. Việc Học thuyết Monroe ra đời vào tháng 2/1823 đưa ra khẩu hiệu “châu Mỹ là của người châu Mỹ” mà thực chất là “châu Mỹ là của người Mỹ”. Đây được xem là bản Tuyên ngôn chống lại “thế giới cũ”, khẳng định sức mạnh vượt trội của cường quốc trẻ Hoa Kỳ. Những thành tựu kinh tế, chính trị, ngoại giao kể trên chính là nền tảng thuận lợi để chính quyền Liên bang tiến hành quá trình tái thiết và phục hồi đất nước. 2.3. Hệ quả chiến tranh và nhu cầu tái thiết đất nước Sau 4 năm nồi da xáo thịt (1861-1865), chính phủ Liên bang do miền Bắc đứng đầu phải đối diện với nhiều vấn đề. Tổng thống Abraham Lincon - Thủ lĩnh của cuộc nội chiến bị ám sát khi cuộc chiến vừa mới kết thúc. Người kế vị là Johnson không nhận được sự đồng tình lớn: “Sau ngày bầu cử quốc hội vào tháng 11 năm đó, các thủ lĩnh nổi loạn ở miền Nam, đua nhau kéo đến thủ đô Washington đông nghẹt. . . Đến kì họp quốc hội vào tháng 12, đảng Cộng hòa với địa vị đa số đã tỏ ra bất mãn với những nghị viên ở miền Nam đến dự phiên họp” [1; tr.87- 89]. 100 Những nhân tố tác động đến quá trình tái thiết nước Mỹ sau nội chiến (1863 - 1877) Kéo theo sự khó xử và thiếu ổn định về chính trị là tình trạng kiệt quệ của nền kinh tế: “Một vùng đất mênh mông ở miền Nam đã hoàn toàn đổ nát, vô số những nông trại đã trở thành hoang vu. Những thung lũng trước đây phì nhiêu, giàu có. Nhưng bây giờ, những con chim, những con quạ bay ngang bầu trời cũng không tìm thấy gì để ăn. Có những thành phố trước đây rất bề thế, như các thành phố Atlanta và Richmond, giờ đây chỉ còn là một đống gạch vụn” [1; tr.85]. Bất cứ chỗ nào quân đội hai miền Nam – Bắc từng giao chiến cũng để lại những dấu vết tàn phá dữ dội đến mức khiến người ta phải thốt lên: “Hiếm khi nào tôi được chứng kiến một đất nước đổ nát hoàn toàn như thế” [10; tr.525]. Tuy nhiên, tổn thất về người mới thực sự nghiêm trọng: Dân số đàn ông da trắng miền Nam năm 1860 là 2,5 triệu, có 250.000 người (khoảng 10%) đã chết hoặc bệnh tật vì chiến tranh. Hầu hết những người này đều còn trẻ, phần lớn họ là những thanh niên mạnh mẽ, sáng tạo, tháo vát. Trong số những người may mắn sống sót thì một số phải sống trong cảnh tàn phế. Các thể chế kinh tế miền Nam cũng sụp đổ hoàn toàn: Những cơ cấu ngân hàng vốn dựa vào những trái phiếu của Liên minh li khai nay dã trở nên vô giá trị. Tiền tiết kiệm cũng bị mất trắng do tiền tệ của các bang li khai bị mất giá nghiêm trọng. Tệ hại hơn, chế độ lao động của bang cũng hoàn toàn tan rã khi chế độ chiếm hữu nô lệ được xem là một thể chế kinh tế cũng như xã hội đã bị diệt vong, nhưng không ai biết được cái gì sẽ thay thế cho nó. Cuộc nội chiến và sự tiêu hủy chế độ nô lệ được coi như một trận động đất dữ dội, vĩnh viễn làm thay đổi bộ mặt đời sống miền Nam. Trong xã hội miền Nam không chỉ có mâu thuẫn giữa người da đen với người da trắng mà thực tế xã hội da trắng để lộ những rạn nứt sâu rộng trong lòng nó. Đầu thế kỉ XIX, toàn vùng được chia thành những khu vực kinh tế, chính trị rất khác biệt. Vành đai trồng trọt bao gồm những phần đất màu mỡ phương Nam đã giúp phát triển nông nghiệp hội nhập với thị trường thế giới bằng những nông sản như bông vải, lúa gạo, đường và thuốc lá. Vùng này chứa số đông những dân nô lệ cùng với những điền chủ giàu có là những người thống trị xã hội và chính trị miền Nam, nắm trong tay phần lớn của cải và tài nguyên kinh tế trong vùng. Trong khi một số dân da trắng miền Nam sinh sống ở những vùng sâu, vùng xa, hoặc vùng cao, là những chủ trang trại nhỏ và người chăn nuôi gia súc. Họ không có hoặc có rất ít nô lệ. Họ làm nông nghiệp, chủ yếu là đa canh để tự cung tự cấp về mặt lương thực. Khi cuộc chiến tranh xảy ra, tiểu điền chủ và người làm công phía Nam than phiền vì họ phải đóng góp quá nhiều cho cuộc chiến nhất là thuế trên hiện vật và đặc quyền dành cho sĩ quan quân đội tịch thu lương thực để nuôi quân. Điều này đã đẩy nhiều gia đình vào cảnh nghèo đói. Thêm vào đó, quyết định của Liên minh miền Nam đưa ra luật cưỡng bức tòng quân đầu năm 1862, cho phép người được gọi nhập ngũ có thể được thay thế bởi 20 nô lệ da đen. Điều này khiến những người da trắng nghèo trong xã hội miền Nam rất tức giận bởi các điền chủ giàu có luôn có sẵn các nô lệ để thay thế cho con em họ, và rằng đây là cuộc chiến tranh của nhà giàu nhưng người nghèo phải đánh nhau. Thực tế đó đã chứng minh, ở miền Nam lúc bấy giờ có một “cuộc nội chiến trong lòng cuộc nội chiến” [7; tr.22]. Chiến tranh đã tàn phá không chỉ về vật chất mà còn về cả tinh thần. Người dân hai miền đều nung nấu những nỗi oán hận sâu sắc. Sau cuộc chiến tranh vì độc lập chống lại “chính quyền chuyên chế ở Washington” và “thống trị miền Bắc” trong bốn năm, người da trắng miền Nam không khỏi có cảm giác sợ hãi, giận dữ và tuyệt vọng sâu sắc. Người miền Bắc cũng không dễ quên được những hy sinh và mất mát mà họ chịu đựng để tiêu diệt những gì mà họ xem là cuộc nổi loạn bất hợp pháp và tùy tiện, và cũng không dễ tha thứ cho “những kẻ tàn bạo” của Liên minh li khai như theo lời của John Sherman, một đảng viên Đảng Cộng hòa ở Ohio: “Chúng ta không nên chỉ quy cho các lãnh đạo cuộc nổi loạn của miền Nam là điều ô nhục, mà cả cuộc phiến loạn 101 Nguyễn Thị Bích phải mang dấu ấn của trại cải tạo, để ít nhất là thời kì này không ai đã tham gia vào còn dám thanh minh hay bào chữa cho việc nổi loạn nữa” [10; tr.526]. Thêm vào đó, việc giải phóng nô lệ mặc dù đã được tuyên bố nhưng vẫn tồn tại một xã hội bất bình đẳng, nhất là ở các tiểu bang miền Nam, trường hợp ở bang Lousiana là một ví dụ: “Chẳng những đám nô lệ da đen từ chối làm việc mà chúng còn dựng những giá treo cổ ở các khu, nói rằng được mệnh lệnh đuổi cổ chủ nhân khỏi đồn điền, treo cổ họ thì sẽ được tự do” [4, tr.15]. Như vậy, cả hai hệ thống xã hội, mỗi cái đều có chia rẽ nội bộ, cùng tồn tại và bước vào thời kì tái thiết, cùng gặp vô số khó khăn do cuộc chiến để lại. Sidney Bresse, một luật sư và là một chính trị gia ở bang Illinois đã nhận xét: “Tất cả mọi người Mỹ đều phải sống trong một thế giới mà cuộc nội chiến đã tạo thành” [7; tr.33]. 3. Kết luận Quá trình Tái thiết nước Mỹ được thực hiện trong một bối cảnh rất phức tạp. Ngoài di sản đáng chú ý nhất là Liên bang được bảo toàn, một nền kinh tế đang trên đà phát triển mạnh và nô lệ được giải phóng thì nước Mỹ cũng đang đứng trước rất nhiều thử thách: thiệt hại lớn về người và của ở cả hai miền, trong hai hệ thống xã hội mỗi cái đều có sự chia rẽ nội bộ, cùng tồn tại và bước vào thời kì Tái thiết với vô số khó khăn do cuộc nội chiến để lại. Thực tế đó đã đặt ra hàng loạt câu hỏi cần được giải quyết trong công cuộc Tái thiết như: Chính sách của chính quyền Liên bang đối với các tiểu bang miền Nam như thế nào? Địa vị pháp lý của họ ra sao? Miền Nam có thể tái gia nhập Liên bang hay không? Nếu có thì với những điều kiện như thế nào?. Có cần đặt ra yêu cầu với việc bổ sung trong Hiến pháp những quy định lại về vấn đề mối quan hệ quyền lực giữa chính phủ Trung ương và chính quyền tiểu bang? Tư cách công dân và vai trò của người da đen tự do. Thực tế này càng làm tăng tính phức tạp của quá trình và sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của giai đoạn Tái thiết. Lời cảm ơn: Bài báo được thực hiện từ nguồn kinh phí của đề tài khoa học cấp cơ sở, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Mã số 2018.15. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Thế Anh, 1969. Lịch sử Hoa Kỳ từ độc lập đến Chiến tranh Nam Bắc. Lửa thiêng. [2] Cơ quan thông tin Mỹ. Người dịch: Huỳnh Kim Oanh, Phạm Viêm Phương, 2006. Lược sử nước Mỹ. Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh [3] Vương Kính Chi, 2000. Lược sử nước Mỹ, Bản dịch của Phong Đảo. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. [4] Phạm Gia Hải, Phạm Hữu Lư, Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị, 1980. Lịch sử thế giới cận đại (1640 - 1870), Quyển 1, Tập 3, Phần 2. Nxb Giáo dục, Hà Nội. [5] Nguyễn Thái Yên Hương, 2005. Liên bang Mỹ - đặc điểm xã hội – văn hóa. Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, trang 217. [6] Nguyễn Thái Yên Hương, Tạ Minh Tuấn, 2011. Các vấn đề nghiên cứu về Hoa Kỳ. Nxb Giáo dục, Hà Nội. [7] Eric Foner, 2008. Lược sử nước Mỹ thời kì tái thiết 1863 - 1877, Bản dịch của Phạm Phi Hoành. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. [8] Richard B. Morris, 1967. Những tài liệu căn bản về lịch sử Hoa Kỳ. Việt Nam khảo dịch xã Sài Gòn. [9] Vũ Dương Ninh, Nguyễn Văn Hồng, 2002. Lịch sử thế giới cận đại. Nxb Giáo dục, Hà Nội. [10] Urwin Unger, 2009. Lịch sử Hoa Kỳ những vấn đề quá khứ. Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội. 102 Những nhân tố tác động đến quá trình tái thiết nước Mỹ sau nội chiến (1863 - 1877) ABSTRACT Factors affecting the process of American reconstruction (1863 - 1877) Nguyen Thi Bich Faculty of History, Hanoi National University of Education 2 In American history, Reconstruction is considered to be a particularly fascinating, dramatic and controversial stage in the academic. In the short 14 years (1863-1877), the policies implemented by the US government during this period have had a major impact on all aspects of social life and are an important factor in helping America outperform. through the rubble, quickly rose to become the world’s leading power in the early twentieth century. The article focuses on the factors that motivate the United States to undertake the Reconstruction process, including: changes in the international and regional context, the development of the United States in the early nineteenth century, the dire consequences of the Civil War (1861 - 1865) and the urgent requirements set out. Keywords: US Civil War, secession, war consequences, reconstruction. 103

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf5067_ntbich_5405_2123617.pdf