Những nhân tố quyết định thắng lợi trong công tác giáo dưỡng ở các trường học sinh miền Nam trên hậu phương miền Bắc thời kỳ 1955 – 1975

Tài liệu Những nhân tố quyết định thắng lợi trong công tác giáo dưỡng ở các trường học sinh miền Nam trên hậu phương miền Bắc thời kỳ 1955 – 1975: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 64 (4/2019) No. 64 (4/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 62 NHỮNG NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI TRONG CÔNG TÁC GIÁO DƯỠNG Ở CÁC TRƯỜNG HỌC SINH MIỀN NAM TRÊN HẬU PHƯƠNG MIỀN BẮC THỜI KỲ 1955 – 1975 Decisive factors in educational success in the schools for Southern students on the rear of North Vietnam period 1955 – 1975 TS. Phan Thị Xuân Yến Trường Đại học Sài Gòn Tóm tắt Công tác giáo dưỡng ở các trường học sinh miền Nam trên hậu phương miền Bắc được đặt ra ngay khi hoàn thành việc chuyển quân tập kết theo Hiệp định Giơnevơ. Sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, Chính phủ và sự chăm sóc đặc biệt của Bác Hồ là nhân tố quyết định thắng lợi trong công tác giáo dưỡng của hệ thống trường đặc biệt này. Để chuyển các nhân tố quyết định ấy thành động lực của hoạt động giáo dưỡng, cùng với việc tổ chức thành...

pdf8 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 412 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những nhân tố quyết định thắng lợi trong công tác giáo dưỡng ở các trường học sinh miền Nam trên hậu phương miền Bắc thời kỳ 1955 – 1975, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 64 (4/2019) No. 64 (4/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 62 NHỮNG NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI TRONG CÔNG TÁC GIÁO DƯỠNG Ở CÁC TRƯỜNG HỌC SINH MIỀN NAM TRÊN HẬU PHƯƠNG MIỀN BẮC THỜI KỲ 1955 – 1975 Decisive factors in educational success in the schools for Southern students on the rear of North Vietnam period 1955 – 1975 TS. Phan Thị Xuân Yến Trường Đại học Sài Gòn Tóm tắt Công tác giáo dưỡng ở các trường học sinh miền Nam trên hậu phương miền Bắc được đặt ra ngay khi hoàn thành việc chuyển quân tập kết theo Hiệp định Giơnevơ. Sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, Chính phủ và sự chăm sóc đặc biệt của Bác Hồ là nhân tố quyết định thắng lợi trong công tác giáo dưỡng của hệ thống trường đặc biệt này. Để chuyển các nhân tố quyết định ấy thành động lực của hoạt động giáo dưỡng, cùng với việc tổ chức thành công những mô hình giáo dưỡng, còn cần đến những nỗ lực chỉ đạo thực tiễn của ngành giáo dục và đội ngũ những người thầy tận tâm vì học sinh – con em thân yêu. Đó cũng là bài học thiết thực cho công tác giáo dục hiện nay. Từ khóa: giáo dưỡng, hậu phương miền Bắc, mô hình giáo dục, trường học sinh miền Nam Abstract The education work in the schools for southern students on the rear of North Vietnam was set up right after the completion of the transfer of troops under the Geneva Agreement. The concerns of the Party and Government leaders and the special cares of Uncle Ho were the decisive factors in the educational success of this special school system. In order to turn these decisive factors into the driving force of educational activities, together with the successful organization of educational models, there were practical guidance efforts of the education sector and the teachers devoted to students and children. It is also a practical lesson for the current educational work. Keywords: education, rear of Northern Vietnam, educational model, schools for Southern students 1. Đặt vấn đề Trường học sinh miền Nam là loại trường nội trú đặc biệt, loại hình nhà trường mà trong đó học sinh được chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục tập trung tại trường, hoàn toàn bằng sự đầu tư của nhà nước và đóng góp của nhân dân. Việc “bao cấp” như thế không chỉ do chính sách đối với miền Nam trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, mà còn thể hiện một quyết tâm đầu tư cho giáo dục ở một bộ phận đặc biệt – học sinh miền Nam. Trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn, cả nước tập trung cho chiến tranh, vẫn có thể dành cho học sinh sự chăm sóc nuôi dưỡng theo hình thức nội trú; Trung ương Đảng, Chính phủ, Bác Hồ Email: xuanyenphan64@gmail.com PHAN THỊ XUÂN YẾN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 63 và lãnh đạo các cấp các ngành vẫn có thể quan tâm chăm sóc đến việc chăm lo đào tạo thế hệ kế tục sự nghiệp cách mạng. 2. Nội dung 2.1. Chủ trương và sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp của Đảng, Bác Hồ về giáo dục học sinh miền Namsau chuyển quân tập kết Cuộc chuyển quân tập kết theo Hiệp định Giơ-ne-vơ được tiến hành từ tháng 9/1954, cho đến ngày 16/5/1955, toàn bộ lực lượng cách mạng miền Nam tập kết ra miền Bắc là 182.046 người, gồm quân đội (kể cả tình nguyện quân ở Miên và Lào) là 82.519 người; cán bộ dân chính, đồng bào, học sinh là 99.527 người. Số học sinh miền Nam tập kết là 12.089 em, trong đó có 7.000 học sinh liên khu V, gần 5.000 học sinh ở Nam bộ và 300 học sinh ở Bình Trị Thiên. Ngoài số học sinh tập kết còn có 421 em ở Liên khu V tự túc ra Bắc; 216 em ở Nam bộ vượt giới tuyến ra Bắc. (Bộ Giáo dục, 1995, tr.2) Thành phần học sinh miền Nam đa số là con em cán bộ, chiến sỹ, con em gia đình có công với đất nước, bộ đội miền Nam, một số theo cha mẹ đi tập kết, một số xin ra Bắc học tập theo tiêu chuẩn tự túc (Liên khu V). Bên cạnh đó còn có một số tự động ra Bắc không bằng đường tập kết (vượt tuyến), một số không có tiêu chuẩn nhưng theo các đồng chí bộ đội ra, một số là con em đồng bào hồi hương xin ra Bắc... Trong năm học 1955-1956 và 1956-1957, có thêm 1.623 học sinh miền Nam và trên 850 học sinh đang gửi học rải rác ở các tỉnh. (Bộ Giáo dục, 1957, tr.2) Học sinh miền Nam học ở các trường Nam Định, Thái Nguyên, Hà Nội là 4.077 em, trong đó có 134 em học vỡ lòng, 3.192 em học cấp I, II; 670 em học cấp III. Trong số này có một số học sinh được tổ chức ăn ở tại ký túc xá, số còn lại là ở nhờ nhà đồng bào địa phương. (Bộ giáo dục, 1958, p.3) Ngay từ khi triển khai công việc tập kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở phải dẫn các cháu ra Bắc học tập, vì chỉ có ở miền Bắc mới có điều kiện cho các cháu học hành nên người. Bác dặn đồng chí Hoàng Quốc Việt: “nhắc nhở các cấp, các ngành quân, dân, chính ở miền Nam thực hiện nghiêm túc và chuẩn bị chu đáo việc đưa thiếu nhi, học sinh miền Nam tập kết theo đúng tiêu chuẩn, chính sách, khẩn trương và đảm bảo an toàn” (Nhiều tác giả, 2000, tr.15). Người chỉ đạo đồng chí Nguyễn Văn Tạo (Bộ trưởng Bộ Lao Động, Trưởng ban Đón tiếp lực lượng tập kết tại Sầm Sơn (Thanh Hóa): “Chú là người miền Nam, chú hiểu tâm tư tình cảm cũng như sự cần thiết trong sinh hoạt, đời sống của các cô, các chú trong đó ra, cả cụ lớn tuổi cũng như các cháu thiếu nhi. Vậy chú phải thay mặt Đảng, Chính phủ tiếp đón thế nào để tỏ được sự yêu thương, lo lắng, thắm tình của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào miền Nam ruột thịt như chú biết, ở miền Nam không có cái rét cắt thịt như ở miền Bắc đâu, phải có đầy đủ quần áo ấm và chăn bông cho tất cả, có khăn quàng cổ cho cụ già, xà phòng và chăn bông cho các cô có con mọn”. (Ban Thống nhất Trung ương, 1956, p.13) Bác đề nghị Trung ương, Chính phủ và các địa phương “cần phải đào tạo và bồi dưỡng thế hệ cán bộ kế cận phục vụ cách mạng miền Nam nói riêng và cho cách mạng Việt Nam nói chung. Đào tạo học sinh miền Nam không những do yêu cầu trước mắt của cách mạng miền Nam mà còn là lợi ích lâu dài cho Tổ quốc, của dân tộc Việt Nam” (Hồ Chí Minh, 1976, tr.20). SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019) 64 Theo đó các trường học sinh miền Nam thực hiện chiến lược “hạt giống đỏ” với nhiệm vụ nuôi và dạy học sinh theo mục tiêu: “Trong việc giáo dục và học tập phải chú trọng các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất đào tạo thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa hồng, vừa chuyên, học phải đi đôi với hành, giáo dục phải gắn liền với xã hội” (Hồ Chí Minh, 2000, tr.10). Ngày 31/8/1960, trong thư gửi cán bộ giáo dục, học sinh, sinh viên các trường và các lớp bổ túc văn hóa, Bác nhắc nhở: “Giáo dục phải phục vụ đường lối chính trị của Đảng và Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân, phải phối hợp nhà trường - xã hội - gia đình”. (Hồ Chí Minh, 1972, tr.561) 2.2. Chỉ đạo thực tiễn của ngành giáo dục đối với học sinh miền Nam Hệ thống trường học sinh miền Nam trên đất Bắc được ra đời bao gồm ba cấp học I, II, III và đã trở thành một bộ phận đặc biệt trong hệ thống giáo dục quốc dân, đặt dưới sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Bộ Giáo dục và sự phối hợp của nhiều bộ, ngành TW và các địa phương. Hệ thống trường học sinh miền Nam được hình thành và phát triển trên miền Bắc hậu phương, trong hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), gồm nhiều quy mô và loại hình thích hợp với từng đối tượng, từng giai đoạn, có những yêu cầu và nhiệm vụ, chức năng cụ thể khác nhau, có những hoạt động và hiệu quả phong phú. Ngoài ra, còn xây dựng một số trường đặc thù cho các đối tượng đặc biệt, ở đó có nhiều con em miền Nam theo học, như: trường Bổ túc công nông cho người lớn tuổi hoặc quá tuổi; trường cho con em đồng bào Hoa; trường cho học sinh vượt tuyến; trường Dân tộc Trung ương cho học sinh người dân tộc.v.v. Bộ Giáo dục lo phần chuyên môn nghiệp vụ, các trường học sinh miền Nam đóng ở đâu thì chính quyền ở đó, từ cấp tỉnh đến địa phương đều có trách nhiệm chăm lo hoạt động của nhà trường theo thẩm quyền và khả năng của mình, với tinh thần Bắc – Nam một nhà, thương yêu như ruột thịt. Các Bộ, ngành có liên quan như: Bộ Tài chính, Bộ Y tế, Bộ Lương thực, Bộ Nội thương đều thành lập bộ phận chuyên trách lo công tác phục vụ cho miền Nam, trước hết là phục vụ các trường học sinh miền Nam đóng tại các địa phương trên miền Bắc. Ngày 17/9/1956 Thủ tướng Chính phủ ra thông tư số 4116-A7 về tiêu chuẩn thu nhận con cán bộ, công nhân viên vào trường học sinh miền Nam nội trú: - Con cán bộ công nhân viên miền Nam thuộc các ngành quân, dân, chính đảng, không kể cấp bậc nào, cha hoặc mẹ có tiêu chuẩn tập kết thì được thu nhận. - Cán bộ miền Nam được điều động ra công tác miền Bắc trong thời kỳ kháng chiến, gia đình vợ con vẫn ở trong Nam, lúc hòa bình lập lại vợ con mới ra miền Bắc thì con cũng được thu nhận. - Cán bộ có con ở lại miền Bắc nhưng hoạt động ở miền Nam trong thời kỳ kháng chiến hoặc đã hy sinh về nhiệm vụ ở miền Nam hoặc công tác ở xa thì con cũng được thu nhận. - Đối với cán bộ có 3, 4 cháu thì chỉ nhận 1, 2 cháu vì trường còn chật chội, số còn lại sẽ được chiếu cố bằng học bổng rồi qua năm sau sẽ thu nhận. Chế độ chính sách đối với con em miền Nam là một trong những biểu hiện PHAN THỊ XUÂN YẾN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 65 sinh động của sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với cách mạng miền Nam, cần thiết và chính đáng, không chỉ có ý nghĩa chính trị, mà còn thể hiện tình cảm và trách nhiệm của nhân dân miền Bắc đã được hòa bình tự do, đối với đồng bào miền Nam đang phải chịu ách áp bức của chế độ Mỹ-Diệm. Bộ Giáo dục chỉ đạo cho các trường xây dựng bộ máy trực tiếp quản lý và tổ chức nuôi dạy học sinh với các chức năng rạch ròi và cụ thể. Bộ Giáo dục cùng các cơ quan ban ngành có liên quan, khẩn trương chuẩn bị những cơ sở, trường lớp cho các em, đồng thời nghiên cứu nắm cụ thể từng đối tượng, từng khu, từng miền, kịp thời tổ chức phân loại, quản lý các trường để tổ chức nuôi dạy và học tập cho học sinh miền Nam. 2.3. Những người thầy – cô tận tâm vì học sinh – con em thân yêu Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “không có thầy giáo thì không có giáo dục, phải xây dựng đội ngũ những người thầy giáo tốt, thầy giáo xứng đáng là “giáo”, phải thật thà yêu quý nghề mình, phải có chí khí cao thượng, phải tiên ưu hậu lạc phải yên tâm công tác, thật thà, đoàn kết, phải yêu thương các cháu như con em ruột thịt của mình, phải luôn ra sức thi đua công tác và học tập, thật thà, phê bình và tự phê bình để cùng nhau tiến bộ mãi” (Hồ Chí Minh, 1976, p.19). Người chỉ rõ: “Các thầy cô giáo có nhiệm vụ rất nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán bộ cho dân tộc. Vậy giáo dục còn nhằm mục đích phụng sự nhân dân Trường học của chúng ta là trường học của chế độ nhân dân, nhằm mục đích đào tạo những công dân và cán bộ tốt, những người chủ tương lai tốt của nước nhà”. (Hồ Chí Minh, 2000, tr.561-562) Trong thư gửi các cháu và các cán bộ các trường miền Nam ngày 1/6/1955, Bác căn dặn thầy, cô giáo và cán bộ công nhân viên “Nên yên tâm công tác. Phải hiểu rằng không có công tác gì vẻ vang bằng việc chăm nom bồi dưỡng cho các cháu là những người chủ tương lai của nước nhà. Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang ấy, các cô, các chú phải thật thà đoàn kết, nâng cao tinh thần trách nhiệm, không nên “đứng núi này trông núi nọ”, muốn thay đổi công tác, kèn cựa, địa vị. Phải thương yêu các cháu như con em ruột thịt của mình, không nên phân biệt bỉ thử các cháu vùng này hay vùng khác. Cháu nào cũng là con em đại gia đình ta, cũng là do Đảng và Chính phủ giao cho các cô, các chú phụ trách nuôi dạy. Trong công tác, trong học tập, các cô, các chú nên cố gắng thi đua, trao đổi kinh nghiệm, để cùng nhau tiến bộ không ngừng. Trong thời gian ở đây, gần Đảng, gần Chính phủ, gần Bác, các cháu và các cô, các chú nên hăng hái học tập và công tác: sao cho đến ngày nước nhà thống nhất, trở lại quê hương, các cháu và các cô, các chú đều là những người gương mẫu về tư tưởng, đạo đức, cũng như về mọi mặt khác” (Nhiều tác giả, 2004, tr.90-91). Việc chăm nuôi trong trường học sinh miền Nam rất đặc biệt và rất thành công. Đó là quá trình lấy tình thương và trách nhiệm để chăm sóc, nuôi dưỡng và truyền dạy cho học sinh tình thương và trách nhiệm trong quá trình rèn luyện, học tập, lao động để trưởng thành. Nhà trường đồng thời là gia đình, thầy, cô giáo là người chăm nuôi, dạy dỗ học sinh như con em ruột thịt của mình. Việc chăm sóc nuôi dưỡng học sinh miền Nam, nhất là các cháu bé còn ít tuổi có nhiều khó khăn vất vả, nhưng các SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019) 66 trường đã tìm mọi cách để thực hiện nhiệm vụ “ươm mầm” cho tốt. Một giáo viên trường học sinh miền Nam số 18 (Thái Bình) kể lại: “Trường đóng ở nhà dân, rải rác khắp các xóm làng thuộc xã Trực Nội. Tất cả thầy, cô, chú cùng các cháu sống ở nhà dân. Ở thôn Ký Con thuộc xã này có 3 xóm, mỗi xóm một lớp học, lớp nào cũng có đủ một phụ trách thiếu niên, một giáo viên và một bảo mẫu. Cả 3 lớp ăn chung một bếp do các cô cấp dưỡng người địa phương nấu. Công việc hàng ngày của chúng tôi là buổi sáng giao cho các cô giáo dạy các cháu học vần, buổi chiều sinh hoạt tập thể. Công việc tắm giặt cho các cháu hàng ngày do các chị bảo mẫu lo Cuối ngày, tất cả giáo viên, phụ trách thiếu niên cả 3 xóm họp nhau lại trao đổi kinh nghiệm. Tất cả các cháu đều còn quá nhỏ, lần đầu xa cha mẹ,lại sống tập thể, chúng tôi phải uốn nắn từng ly từng tý, từ cách ăn cách ở, cách giữ trật tự vệ sinh, đến việc làm quen với chữ. Có cháu lúc ngủ chỉ giành chỗ ngủ bên cô giáo, hoặc lúc đi ăn nếu không phải cái chén, đôi đũa của cháu thì nhất định không ăn; hoặc lúc bị ghẻ lở, nhất định không cho các cô bảo mẫu tắm Cứ thế ngày này qua ngày khác, chúng tôi đưa dần các cháu vào nề nếp” (Nhiều tác giả, 2000, tr.77). Hình ảnh trường học sinh miền Nam số 28 là một điển hình về nhà trường – gia đình -mỗi nhà ở, lớp học là một gia đình. “Bốn mươi, năm mươi em sống trong một dãy nhà là 40, 50 anh em ruột thịt. Thầy chủ nhiệm thường ở một phòng nhỏ đầu dãy nhà, vừa là thầy giáo, vừa là cha, là chị. Cả trường có nhiều gia đình mà các bạn gia đình khác là anh em cùng quê hương, cùng hòan cảnh. Lớp lớn thương lớp bé, sẵn sàng nhường nhịn, chăm sóc lẫn nhau. Các thầy cô giáo bộ môn và mọi cán bộ khác, kể cả các chị tiếp liệu, các cô cấp dưỡng đều là những chị ruột thịt đáng để các em tin cậy và yên tâm gửi gắm vui buồn của mình. Tất cả đều gắn bó với nhau trong tình thương và trách nhiệm. Các em tự thực hiện mọi nề nếp sinh hoạt, từ việc gấp gọn chăn màn, quét dọn sạch sẽ nhà ở, lớp học. Ngòai giờ học các em còn tự đào ao, đắp đường sá, trồng trọt, chăm sóc cây cối, tô điểm bồn hoa, cây cảnh với niềm khao khát làm cho trường mình, mái ấm của mình ngày càng khang trang, sạch đẹp hơn”(Nhiều tác giả, 2000, tr.169). Nhà trường là một mái nhà chung tràn ngập tình thương. Học sinh ăn, ở, học tại trường, kể cả những ngày lễ, tết, ngày hè. Thầy, cô giáo nuôi dạy làm việc suốt ngày, suốt năm; ngày lễ, tết càng bận rộn hơn. Một thầy giáo kể lại: “Hàng ngày bất kể nắng mưa, lạnh, nắng, các anh chị tiếp liệu, với chiếc xe đạp cọc cạch, đỡ 2 chiếc sọt to, từ sáng tinh mơ có mặt ở các chợ trên, chợ dưới tìm mua rau, quả thực phẩm. Những lúc thực phẩm khan hiếm, các anh chị len lỏi vào tận các thôn xóm, mua cho được con gà, quả bí trưa về mồ hơi, mồ kê ướt đẫm cả áo. Ngày hè, gặp cơn mưa rào, áo quần ướt sũng. Mùa đông, gặp cơn gió chướng, lạnh thấu xương, xe đạp không chạy, phải xuống đẩy, mồ hơi cũng thốt ra như tắm. Những năm giặc Mỹ cho máy bay bắn phá ác liệt các đầu mối giao thông, thì các anh chị đã phải ra đi từ lúc gà mới bắt đầu gáy và cho đến tối xẩm mới về đến trường. Dọc đường lắm lúc gặp máy bay giặc Mỹ gầm rú trên đầu, với đạn, bom trước mặt, sau lưng, cái sống, cái chết gần kề nhau trong gang tấc cũng không làm chùn bước chân các anh chị, chỉ vì một cái lẽ nghe ra thật đơn giản, nhưng có khi PHAN THỊ XUÂN YẾN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 67 phải trả bằng nước mắt và cả bằng máu: Tất cả vì học sinh thân yêu, tất cả vì miền Nam ruột thịt (Nhiều tác giả, 2000, tr.170). Hồi ký của thầy, trò trường học sinh miền Nam còn ghi rõ những hình ảnh cảm động về cách chăm nuôi: “Ðể đảm bảo ba bữa ăn cho học sinh các cô, các chị phải quần quật suốt ngày. Muốn có bữa ăn sáng thì sáng tinh mơ, khi gà mới bắt đầu gáy, các cô, các chị đã phải dậy nhóm lửa, đun nước, nấu nướng cho kịp các cháu ăn, kịp vào lớp học. Mùa đông, gió bấc, mưa phùn, học sinh còn đang cuộn mình trong chăn ấm thì các cô, các chị đã thức giấc vô bếp thổi xôi, hoặc rửa khoai sắn, tay chân lạnh cóng; bữa sáng xong lại chuẩn bị cho bữa trưa và bữa chiều. Hàng ngày các chị phải làm việc liên tục từ 4, 5 giờ sáng đến 7,8 giờ tối” (Nhiều tác giả, 2000, tr.171). Lại có ngày học sinh tham quan dã ngoại, “các chị, các cô phải thức dậy từ 2- 3 giờ sáng, nấu xôi, nấu cơm phục vụ cho bữa ăn sáng, lại còn nắm từng nắm một cho học sinh mang theo ăn trưa. Có khi bộ phận nuôi phải tay xách, nách mang, vai gánh lỉnh kỉnh nào nồi, soong, bát đĩa để đến nơi tổ chức nấu ăn. Khi đến nơi tham quan thì thầy trò vui chơi, ngắm cảnh, còn bộ phận nuôi thì đầu tắt mặt tối với cơm canh, nước nôi” (Nhiều tác giả, 2000, tr.172). Để được toàn tâm toàn ý phục vụ học sinh, các chị, các cô đã gần như gác lại một bên cuộc sống riêng tư của mình. “Có chị biết không thể chăm lo, chăm sóc được con cái của mình nên đã gửi con cái đi sơ tán với chồng. Có những chị chồng ốm, con đau cũng không về được để chăm sóc. Có những chị bước vào trường học sinh miền Nam ngay từ khi trường mới thành lập, tóc còn xanh mướt, phục vụ liên tục 20 năm, cho đến khi nhà trường hòan thành sứ mạng lịch sử, thì mái tóc đã lốm đốm bạc màu, tuổi xuân đã lặng lẽ trôi qua” (Nhiều tác giả, 2000, tr.257). Với cách chăm sóc nuôi dạy như thế và những người nuôi dạy như thế, chắc chắn sẽ tác động đến tâm tư tình cảm của học trò, hình thành nên những nếp nghĩ mới không thể vô cảm, không thiếu tình người và đạo đức nhân văn. Người học sinh luôn coi trường lớp là nhà, thầy cô giáo và các cán bộ nhân viên chăm nuôi là người cha, mẹ, cô, chú trong gia đình thân thương. Trên cơ sở đó thầy, cô giáo rèn luyện cho các em đạo đức cách mạng, lòng yêu quê hương đất nước, truyền thụ kiến thức văn hóa, khoa học, hướng cho các em lao động phục vụ xã hội, phục vụ cách mạng. Mỗi nhà trường học sinh miền Nam đều phải phấn đấu làm tốt 3 mặt công tác chủ yếu: nuôi – dạy – tổ chứccác hoạt động ngoài giờ lên lớp, đó là 3 mặt công tác thiết yếu, phải cân đối và đồng bộ, không thể nặng mặt này, nhẹ mặt kia. Nhiệm vụ quản lý và giáo dục học sinh phải là nhiệm vụ của tòan thể nhà trường. Tuy nhiên, hệ thống giáo dục và chất lượng giáo dục vận hành phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và đội ngũ cán bộ giảng dạy. Giáo viên giảng dạy ở các trường học sinh miền Nam bao gồm các thầy, cô giáo đã dạy trong các vùng giải phóng, các thầy, cô được đào tạo từ nước ngoài về, các thầy cô tập kết từ miền Nam ra và các thầy, cô được đào tạo tại miền Bắc để phục vụ các trường học sinh miền Nam. Dù các thầy, cô quê ở miền Nam hay miền Bắc, ngoài phần chuyên môn nghiệp vụ, phương pháp giảng dạy, còn nhiệt tình, tâm huyết với nghề, yêu thương, gắn bó, có trách nhiệm với học SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019) 68 trò của mình cũng như khả năng thích ứng với điều kiện nuôi dạy học sinh miền Nam. Ngoài việc dạy chữ, dạy văn hóa, các thầy, cô còn cùng với cán bộ nhân viên khác của trường nuôi dạy học sinh như con em ruột thịt của mình. Hãy nhìn những tấm gương người thầy ngày ấy: “Trường sơ tán trên 6 làng phải qua 6 đồi, đồi xa nhất trên 10 km. Thầy cô vẫn phục vụ với tinh thần “tất cả vì học sinh miền Nam thân yêu”, gánh vác dụng cụ nhà trường, nhà bếp đến từng khu để lo cho chúng tôi từng bữa ăn, giấc ngủ. Cháu nào đau ốm không đủ sức khỏe thì được khám chữa bệnh và chăm sóc tận tình, chu đáo Thầy cô giáo phải vượt đường đồi, đường làng, đường ruộng khấp khểnh, bất chấp cái nắng chang chang đến cháy da, cái rét đến tê buốt, cả những cơn mưa lớn, nhiều khi lũ lớn phải vác xe đạp lội qua suối, lại còn vượt bom đạn để đến với học sinh đúng giờ giảng. Ngồi giờ dạy, vào giờ tự học buổi tối của học sinh, thầy cô giáo đến từng lớp để đôn đốc, nhắc nhở, giảng giải tận tình những khúc mắc, giúp cho chúng tôi nắm vững chương trình học, có đủ khả năng giải bài tập khó. Giờ ngoại khóa, thầy trò cùng hoạt động nhiều môn thể thao, điền kinh. Trên sân trường luôn tràn ngập tiếng cười, tiếng nói” (Nhiều tác giả, 2000, tr.173). Cách dạy của nhiều giáo viên trường học sinh miền Nam là vừa nghiêm túc, vừa đi sâu vào kỹ thuật giảng dạy, phấn đấu dạy hay, dạy tốt chứ không dừng lại ở yêu cầu dạy đúng, dạy đủ. Mặc dù thương học sinh, nhưng luôn nghiêm túc, học sinh chưa hiểu thì học lại, thầy, cô dạy cho khi nào học sinh hiểu thì mới thôi. 3. Kết luận Bí quyết thành công của nhiều giáo viên trường học sinh miền Nam là tiến hành công tác giáo dục bằng tình thương yêu học sinh đi đôi với tinh thần trách nghiệm, lương tâm nghề nghiệp. Giáo viên đóng vai trò rất quan trọng không chỉ trong lĩnh vực giáo dục mà còn là cán bộ chính trị, cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ dân vận... Việc xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là một bộ phận quan trọng, nhất là đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục “vừa hồng, vừa chuyên”. Ngày nay, khi khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, quá trình đổi mới phương pháp giáo dục đang diễn ra trên quy mô toàn cầu, mục tiêu, nôi dung, chương trình đào tạo và phương pháp giáo dục luôn được cải tiến cho phù hợp với xu thế phát triển của xã hội. Việc xây dựng đội ngũ giáo viên và đội ngũ quản lý giáo dục có đủ trình độ, tâm huyết gắn bó với nghề cần phải đặt ra cho ngang tầm với nhiệm vụ mới. Hệ thống trường học sinh miền Nam trên đất Bắc đã để lại cho chúng ta nhiều bài học quý về việc hệ trọng này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Ban Thống nhất Trung ương (1954-1956). Tài liệu của Trung ương, Phủ Thủ tướng, ban và các Bộ về chính sách đối với cán bộ, đồng bào, học sinh miền Nam tập kết. Hà Nội: Cục lưu trữ TW Đảng. Ban liên lạc học sinh miền Nam (2004). Kỷ yếu hội thảo 50 năm thành lập các trường học sinh miền Nam trên đất Bắc. Bộ Giáo dục (1957). Chỉ thị về việc tổng kết năm học 1956 – 1957. Hà Nội: Trung tâm lưu trữ Quốc gia III. PHAN THỊ XUÂN YẾN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 69 Bộ Giáo dục (1958). Quy định một số vấn đề về tổ chức đội với thanh Thiếu niên Hoa kiều ở miền Bắc Việt Nam. Hà Nội: Trung tâm lưu trữ Quốc gia III. Bộ Giáo Dục (1955). Tổng kết công tác đón tiếp học sinh miền Nam. Hà Nội: Trung tâm lưu trữ Quốc gia III. Hồ Chí Minh (1976). Về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hà Nội: Nxb Sự thật, 3-19. Hồ Chí Minh (1972). Bàn về công tác giáo dục. Hà Nội: Nxb Giáo dục, 561. Hồ Chí Minh (2000). Toàn tập. Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia, (6,7). Nguyễn Văn Huyên (1995). Những bài nói và viết về giáo dục. Hà Nội: Nxb Giáo dục. Nhiều tác giả (1999). Trường học sinh miền Nam trên đất Bắc. Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia. Nhiều tác giả (2000). Học sinh miền Nam, ngày ấy, hôm nay. Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia, 10-180. Nhiều tác giả (2004). Nửa thế kỷ trường HSMN trên đất Bắc. Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia, 9-100. Ngày nhận bài: 11/3/2019 Biên tập xong: 15/4/2019 Duyệt đăng: 20/4/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf29_7697_2214934.pdf
Tài liệu liên quan