Tài liệu Những nhân tố ảnh hưởng đến lối sống của người việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay - Đinh Thị Giang: Tập 183, số 07, 2018
Tập 183, Số 07, 2018
Tạp chí Khoa học và Công nghệ
CHUYấN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ
Mục lục Trang
Hoàng Thị Phương Nga - Mụ hỡnh du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3
Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lúng trong truyện về đề tài giỏo dục của Văn Thành Lờ 9
Ngụ Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Võn - Vài nột về cỏc phương thức thể hiện tỡnh vợ chồng trong văn
học trung đại Việt Nam 15
Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - í thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thụng
qua những nhõn vật nữ trong tập truyện Khụng ai qua sụng 21
Đặng Thị Thựy, Nguyễn Diệu Thương - Lụ gớch của cỏc hiện tượng “phi lụ gớch” trong ca dao, tục ngữ
người Việt 27
Đinh Thị Giang - Những nhõn tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33
Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phỳng 39
Nguyễn Thu Quỳnh, Vỡ Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thỏi ở ...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 669 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những nhân tố ảnh hưởng đến lối sống của người việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay - Đinh Thị Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tập 183, số 07, 2018
Tập 183, Số 07, 2018
T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ
CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ
Môc lôc Trang
Hoàng Thị Phương Nga - Mô hình du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3
Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lóng trong truyện về đề tài giáo dục của Văn Thành Lê 9
Ngô Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Vân - Vài nét về các phương thức thể hiện tình vợ chồng trong văn
học trung đại Việt Nam 15
Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - Ý thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thông
qua những nhân vật nữ trong tập truyện Không ai qua sông 21
Đặng Thị Thùy, Nguyễn Diệu Thương - Lô gích của các hiện tượng “phi lô gích” trong ca dao, tục ngữ
người Việt 27
Đinh Thị Giang - Những nhân tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33
Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phúng 39
Nguyễn Thu Quỳnh, Vì Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thái ở tỉnh Điện Biên 45
Nguyễn Thị Thu Oanh, Hoàng Thị Mỹ Hạnh - Vị thế, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam giai
đoạn 1945 - 1975 và một số bài học kinh nghiệm 51
Đỗ Hằng Nga, Phạm Quốc Tuấn - Việc thu thuế trong làng xã qua tư liệu hương ước cải lương tỉnh Thái Nguyên 57
Lê Văn Hiếu - Hiệu quả hoạt động của mô hình “ban tuyên vận” xã, phường, thị trấn và “tổ tuyên vận” thôn, bản, tổ
dân phố ở tỉnh Lào Cai trong giai đoạn hiện nay 63
Thái Hữu Linh, Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Thanh Hà - Vai trò của hậu phương Bắc Thái trong cuộc
tổng tiến công Mậu Thân năm 1968 69
Phạm Anh Nguyên - Sức hấp dẫn trong Hài đàm của Phan Khôi 73
Nguyễn Thị Hường, Nguyễn Thị Mão, Nguyễn Tuấn Anh - Nâng cao hiệu quả tổ chức các hoạt động ngoại
khoá trong dạy học môn giáo dục công dân ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Thái
Nguyên hiện nay 79
Nguyễn Văn Dũng, Đào Ngọc Anh - Thực trạng thể chất của sinh viên không chuyên thể dục thể thao Trường
Đại hoc Sư phạm – Đại học Thái Nguyên 85
Trần Bảo Ngọc, Lê Ngọc Uyển, Bùi Thanh Thủy và cs - Thực trạng xếp loại tốt nghiệp sinh viên diện cử
tuyển ở trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên giai đoạn 2013-2017 91
Nguyễn Thúc Cảnh - Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho
học sinh trung học phổ thông 97
Hà Thị Kim Linh, Chu Thị Bích Huệ - Giáo dục kiến thức pháp luật cho phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở huyện
Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên 105
Nguyễn Thị Thanh Hồng, Nguyễn Thị Khánh Ly, Vũ Kiều Hạnh - Tăng cường sự tham gia của sinh viên
vào các hoạt động học tiếng Anh trong lớp học đông nhiều trình độ của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học
Y Dược – Đại học Thái Nguyên 111
Phạm Thị Huyền, Vũ Thị Thủy - Vận dụng phong cách nêu gương theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng
phong cách làm việc đối với cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay 117
Đàm Quang Hưng - Thiết kế bài học khoa học lớp 4, lớp 5 theo hướng tìm tòi thực nghiệm 123
Hoàng Thị Thu Hoài - Những khó khăn trong việc dạy và học từ vựng tiếng Anh chuyên cho sinh viên chuyên
ngành điều dưỡng, trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên và một số giải pháp đề xuất 129
Journal of Science and Technology
183(07)
N¨m 2018
Nguyễn Lan Hương, Văn Thị Quỳnh Hoa - Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng nói tiếng Anh của sinh
viên năm thứ nhất trường Đại học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 135
Vũ Kiều Hạnh - Những yếu tố quyết định đến mức độ đọc hiểu của sinh viên năm thứ hai tại trường Đại học
Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 141
Nguyễn Thị Quế, Hoàng Thị Nhung - Hỏi đúng để tự học và học tập cộng tác thành công – hướng tới xây
dựng người học ngoại ngữ độc lập trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế 147
Ngô Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Hoài Thu - Ứng dụng các phương pháp giảng dạy tích cực nhằm nâng cao chất
lượng dạy – học tiếng Việt cho học viên quốc tế tại Học viện Kỹ thuật Quân sự 153
Dương Văn Tân - Đánh giá hiệu quả áp dụng trò chơi vận động trong phát triển thể lực chung cho sinh viên
trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – Đại học Thái Nguyên 159
Bùi Thị Hương Giang - Nâng cao năng lực giao tiếp giao văn hóa trong dạy và học ngoại ngữ 165
Trần Hoàng Tinh, Nông La Duy, Phạm Văn Tuân - Xây dựng trung đội tự quản trong quản lý giáo dục tính
kỷ luật cho sinh viên tại trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh trong giai đoạn hiện nay 171
Trần Thị Yến, Khổng Thị Thanh Huyền - Sử dụng hình thức đọc chuyên sâu để nâng cao khả năng viết học
thuật cho sinh viên chuyên ngành tiếng Anh 177
Đỗ Thị Hồng Hạnh, Hoàng Mai Phương - Đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Chợ Mới,
tỉnh Bắc Kạn 183
Trần Thùy Linh, Trần Lương Đức, Nguyễn Thị Thùy Trang - Cách tiếp cận của pháp luật cạnh tranh liên
minh châu Âu về hành vi lạm dụng mang tính trục lợi 189
Nguyễn Thị Thanh Hà, Phạm Việt Hương - Xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số kinh tế phù hợp để đánh giá quản
lý rừng bền vững ở huyện Định Hóa 195
Đinh Thị Hoài - Truyền thông marketing sản phẩm và dịch vụ thông tin - thư viện tại Trung tâm Học liệu Đại
học Thái Nguyên 201
Nguyễn Thị Thanh Xuân - Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng sử dụng dịch vụ
khách sạn tại Thanh Hóa, Việt Nam 207
Dương Thị Tình - Đóng góp của xuất khẩu hàng hóa tới tăng trưởng kinh tế của tỉnh Yên Bái 213
Lê Minh Hải, Trần Viết Khanh - Phân tích tổ chức không gian lãnh thổ du lịch tỉnh Thái Nguyên 219
Hà Văn Vương - Vận dụng lý thuyết Ecgônômi trong tổ chức môi trường làm việc tại văn phòng chi nhánh may
Sông Công II - Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG 227
Mai Anh Linh, Nguyễn Thị Minh Anh - Đánh giá chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng: nghiên
cứu thực nghiệm tại siêu thị Lan Chi, Thái Nguyên 233
Đinh Hồng Linh, Nguyễn Thu Nga, Nguyễn Thu Hằng - Sử dụng hàm Loga siêu việt để đánh giá hiệu quả
kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam 239
Đinh Thị Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 33 - 38
33
NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LỐI SỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT
Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ HIỆN NAY
Đinh Thị Giang*
Trường Đại học Y Dược – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Bài báo chỉ ra sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
và đạo đức truyền thống đến lối sống của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ hiện nay. Các yếu tố
trên, bên cạnh ảnh hưởng tích cực là góp phần hình thành lối sống năng động, sáng tạo, lối sống
công nghiệpthì cũng có ảnh hưởng tiêu cực đó là hình thành lối sống thiên về vật chất hơn việc
rèn luyện, hoàn thiện nhân cách, đạo đức, lối sống buông thả, thực dụng
Từ khóa: Lối sống, người Việt, đồng bằng Bắc Bộ, hoạt động của con người, ảnh hưởng.
ĐẶT VẤN ĐỀ *
Người Việt là cách gọi ngắn gọn của cụm từ
"Người Việt Nam" - những người sống định
cư lâu dài trên lãnh thổ Việt Nam, hoặc để chỉ
lên một khái niệm trừu tượng về tinh thần và
nhân cách của dân tộc Việt.
Theo Niên giám thống kê năm 2013, đồng bằng
Bắc Bộ hiện nay bao gồm 11 tỉnh và thành phố:
Hà Nội, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hải Dương,
Quảng Ninh, Hải Phòng, Hưng yên, Thái Bình,
Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định [1,tr.18].
Từ định nghĩa này cho phép suy luận khái
niệm: Người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện
nay là tất cả những người hiện đang sinh sống
trên địa bàn các tỉnh, thành phố thuộc vùng
đồng bằng Bắc Bộ gồm: Hà Nội, Bắc Ninh,
Vĩnh Phúc, Hải Dương, Quảng Ninh, Hải
Phòng, Hưng yên, Thái Bình, Hà Nam, Ninh
Bình, Nam Định.
Lối sống là toàn bộ hoạt động của con người.
Hoạt động của con người theo phương diện
chung nhất gồm có hoạt động vật chất và hoạt
động tinh thần. Các hoạt động này luôn chịu
ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố như nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, quá
trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế và đạo
đức truyền thống. Các yếu tố này ảnh hưởng
đến lối sống người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ
trên hai mặt tích cực và tiêu cực. Vì vậy,
* Tel: 0987128483; Email: giangdhytn@gmail.com
người Việt ở ĐBBB cần phải sáng suốt tiếp
nhận những giá trị tiến bộ để xây dựng lối
sống lành mạnh cho bản thân mình.
Lối sống bao gồm nhiều yếu tố cấu thành
như: cách thức lao động, làm ăn, kinh
doanh..., các phong tục tập quán, cách thức
giao tiếp, ứng xử với nhau, quan niệm về đạo
đức và nhân cách
Đặc trưng của lối sống của người Việt ở
ĐBBB khi chưa chịu ảnh hưởng của kinh tế
thị trường và quá trình toàn cầu hóa, hội nhập
quốc tế đó là chủ nghĩa yêu nước; tính cố
kết cộng đồng gắn liền với tình làng nghĩa
xóm, tinh thần đoàn kết tương trợ trong quan
hệ gia đình, dòng họ, làng xã; tinh thần bao
dung nhân ái, quý trọng con người, lối sống
người Việt là còn mang đậm nét tâm lý của
người sản xuất nhỏ- tâm lý tiểu nông, tự cấp
tự túc, đóng cửa, cục bộ và bảo thủ. Để khắc
phục hạn chế và phát huy lối sống truyền
thồng của người Việt ở ĐBBB cần thiết phải
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, hội
nhập quốc tế.
Về mặt phương pháp luận, quán triệt ý nghĩa
chủ đạo của phép biện chứng mácxít, coi nó
như yếu tố soi sáng cho tất cả những phương
thức tiếp cận khác như nghiên cứu liên ngành,
văn hóa học trong quá trình phân tích các
nhân tố ảnh hưởng đến lối sống của người
Việt ở ĐBBB hiện nay.
Đinh Thị Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 33 - 38
34
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Ảnh hưởng của kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý và điều tiết của Nhà
nước. Nội dung cơ bản của định hướng
XHCN trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam là phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, nhiều hình thức sở hữu trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo nhằm mục tiêu
thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ
công bằng văn minh. Trong những năm qua,
việc phát triển kinh tế thị trường đã giúp
ĐBBB đã khơi dậy được các thế mạnh và thu
hút các nguồn lực phát triển cho vùng. Vì kinh
tế thị trường có vai trò kích thích sự tăng lên
của nhu cầu con người, tạo ra sự cạnh tranh
trong mọi lĩnh vực hoạt động và lấy thước đo
“năng suất - chất lượng - hiệu quả” làm tiêu
chí cơ bản nên nó góp phần hình thành lối sống
năng động, sáng tạo hướng đến hiệu quả kinh
tế của người Việt ở ĐBBB hiện nay.
Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu, kinh tế thị
trường còn tồn tại những hạn chế, cho sự phát
triển của vùng ĐBBB hiện nay cụ thể là: Thứ
nhất, hiện nay, do ảnh hưởng quy luật kinh tế
của nền kinh tế thị trường nên khoảng cách
giàu nghèo ngày càng chênh lệch lớn trong
đời sống người Việt ở vùng ĐBBB. Tuy vấn
đề xóa đói giảm nghèo đã được giải quyết và
đạt được những thành tựu nhất định song
khoảng cách này ở ĐBBB vẫn chưa được cải
thiện. Chính sự chênh lệch trong mức sống ở
ĐBBB hiện nay là nguyên nhân dẫn đến sự
chênh lệch về lối sống, về trình độ học vấn,
về đạo đức trong cộng đồng người Việt; Thứ
hai, do tác động của cơ chế thị trường - cơ
chế của sự trao đổi, mua bán hàng hóa và của
sự cạnh tranh khốc liệt nên dẫn tới hình thành
lối sống thiên về vật chất hơn việc rèn luyện,
hoàn thiện nhân cách, đạo đức; Thứ ba, kinh
tế thị trường góp phần làm tăng lên nhu cầu
của con người, để đạt được những nhu cầu đó,
một bộ phận con người sẵn sàng chà đạp lên
các giá trị chuẩn mực đạo đức, đưa các mối
quan hệ kể cả quan hệ tình cảm trong gia đình
và ngoài xã hội lên cán cân trao đổi “hiện
tượng suy thoái về đạo đức và lối sống đang
diễn ra mạnh mẽ. Cơ chế thị trường nuôi
dưỡng quan niệm sai lầm về sự tuyệt đối hóa
vật chất, tuyệt đối hóa đồng tiền. Quan niệm
đó đang chi phối mạnh mẽ lối sống của không
ít người trong xã hội, làm băng hoại các giá
trị đạo đức lành mạnh của con người Việt
Nam” [2, tr. 198].
Như vậy, nền kinh tế thị trường ảnh hưởng
đến lối sống người Việt ở ĐBBB hiện nay
đan xen cả yếu tố tích cực và tiêu cực. Khắc
phục ảnh hưởng tiêu cực, phát huy tính tích
cực của nền kinh tế thị trường và định hướng,
nâng cao lối sống cho người Việt ở ĐBBB
hiện nay, vấn đề đặt ra là phải có cơ chế,
chính sách, giải pháp thích hợp, đồng bộ.
Ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và đô thị hóa
Trong những năm gần đây, để đẩy mạnh tốc
độ phát triển kinh tế, ĐBBB đã và đang thực
hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình
chuyển biến căn bản, toàn diện các hoạt động
kinh tế xã hội trên cơ sở kết hợp sức lao động
với khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại
nhằm tạo ra năng suất lao động cao trong sản
xuất. Trong hơn 30 năm thực hiện quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ĐBBB đã đạt
được những thành tựu quan trọng. Việc hình
thành hơn 100 khu công nghiệp, khu chế xuất
và cụm công nghiệp cùng với tổng giá trị sản
xuất công nghiệp tăng nhanh (tương ứng là
67.569 tỷ đồng năm 1997 và 171.882 tỷ đồng
năm 2004) [3, tr.32] đã đưa ĐBBB trở thành
vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và xếp vị trí
thứ hai sau vùng Đông Nam Bộ.
Quá trình này có vai trò to lớn trong việc xây
dựng, phát triển lực lượng sản xuất hiện đại,
chuyển nền kinh tế nông nghiệp lên nền kinh
tế công nghiệp tiên tiến, đưa xã hội truyền
thống lên xã hội văn minh. Theo quan điểm
của Chủ nghĩa Mác – Lênin, sự phát triển của
lực lượng sản xuất quyết định sự thay đổi của
quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất tác động
Đinh Thị Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 33 - 38
35
trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất.Sự
phát triển của lực lượng sản xuất và sự thay
đổi của quan hệ sản xuất không chỉ tạo ra
năng suất, chất lượng, hiệu quả cao trong kinh
tế của vùng mà còn dẫn đến sự hình thành lối
sống mới - lối sống công nghiệp trong người
dân ĐBBB hiện nay.
Ngoài ra, cùng với quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, ĐBBB cũng tích cực đẩy mạnh
quá trình đô thị hóa. Quá trình này tạo ra các
chùm đô thị lớn nhất cả nước như Hà Nội,
Hải Phòng, Bắc NinhCác chùm đô thị này
góp phần phát huy được các thế mạnh, đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế -
xã hội, thu hút nguồn lực phát triển trong và
ngoài nước, tạo ra làn sóng di dân từ các vùng
khác về ĐBBB sinh sống. Bộ phận này, với
khả năng thích ứng linh hoạt, sáng tạo trong
sản xuất, kinh doanh và tổ chức cuộc sống
mới ở đô thị đã góp phần không nhỏ sự thay
đổi trong lối sống của người Việt ở ĐBBB
hiện nay.
Tuy nhiên, trong những năm qua, quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa ở
ĐBBB vừa tạo ra những yếu tố tích cực cho
sự phát triển nhưng cũng nảy sinh những vấn
đề hạn chế, tiêu cực làm ảnh hưởng không tốt
đến lối sống của người Việt của vùng. Sự mở
rộng của các khu đô thị, các khu công nghiệp
tất yếu kéo theo sự gia tăng của tình trạng thất
nghiệp của người nông dân, tình trạng ô
nhiễm môi trường và các tệ nạn xã hội như
ma túy, cờ bạc, mại dâm, trộm cướp Tình
trạng này có xu hướng ngày càng lan rộng,
ảnh hưởng không tốt đến môi trường sống, lối
sống của người Việt ở đây.
Ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế
Toàn cầu hóa và hội nhâp quốc tế là quá trình
phát triển tự do hóa thương mại trên phạm vi
toàn cầu.. Những năm gần đây, quá trình diễn
ra như một cơn lốc thu hút tất cả các nước
trên thế giới. Đây là một xu thế tất yếu, khách
quan, không một quốc gia nào có thể đứng
ngoài nếu không muốn bị tụt hậu. Theo tác
giả Thanh Lê, quá trình này vừa đem lại cho
tất cả các nước đặc biệt là các nước đang phát
triển những cơ hội lớn, nhưng mặt khác, nó
cũng đặt ra những thách thức đáng lo ngại [4,
tr.183]. Cơ hội phát triển của toàn cầu hóa là
tạo điều kiện cho các nước trong đó có Việt
Nam có thể áp dụng khoa học kỹ thuật tiên
tiến và cách thức tổ chức quản lý trong việc
phát triển kinh tế nhằm nâng cao đời sống và
thỏa mãn nhu cầu của con người; tạo ra môi
trường tốt cho con người phát huy năng lực
sáng tạo; giúp các dân tộc trên thế giới đoàn
kết với nhau cùng phát triển. ĐBBB là một
trong những vùng của Việt Nam cũng đã nắm
bất cơ hội này và chủ động, tích cực trong quá
trình hội nhập quốc tế. Trong hơn 30 năm đổi
mới và hội nhập quốc tế, vùng ĐBBB đã đạt
được những thành tựu to lớn. Tất cả các lĩnh
vực của lối sống đều có sự chuyển biến từ ý
thức, đạo đức đến hành vi ứng xử của con
người. Lối sống của người Việt trở nên phong
phú đa dạng hơn, ngoài những yếu tố truyền
thống còn có sự du nhập của văn hóa phương
Tây. Người Việt trong vùng bắt đầu coi trọng
triết lý “phi thương bất phú”, “thương trường
là chiến trường” và các vấn đề kinh tế, chính
trị, xã hội của quốc tế.
Ngoài việc phát triển kinh tế, quá trình hội
nhập cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các giá
trị mới của văn hóa nhân loại đi sâu vào
trong lối sống của người Việt ở ĐBBB hiện
nay. Trên cơ sở đó giúp cho người Việt của
vùng xác nhận lại các chân giá trị của đạo lý
truyền thống, để vừa tiếp nhận, vừa lọc bỏ
những yếu tố lạc hậu, không còn phù hợp,
thích ứng với thời đại mới, giúp nó củng cố
thêm vị trí trong lối sống của người Việt ở
ĐBBB hiện nay.
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đem lại
những cơ hội phát triển nhưng mặt khác nó
cũng đặt ra những thách thức không nhỏ như
bảo vệ nền độc lập tự chủ của các quốc gia,
nguy cơ tụt hậu về kinh tế, tình trạng thất
nghiệp, sự phân hóa giàu nghèo Tuy nhiên,
một trong những thách thức đáng lo ngại nhất
đó là sự phá vỡ những giá trị đạo lý truyền
thống của dân tộc. Sự phá vỡ này là cơ sở
hình thành lối sống thực dụng, lối sống buông
thả, lối sống ích kỷ Đây là nguyên nhân
Đinh Thị Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 33 - 38
36
dẫn đến những mâu thuẫn, xung đột trong
quan hệ gia đình, nhà trường và ngoài xã hội.
Do đó, vấn đề đặt ra làm thế nào để trong quá
trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, người
Việt ở ĐBBB không đánh mất những giá trị
của đạo đức truyền thống mà còn có thể giữ
gìn, kế thừa, phát huy và đổi mới những giá
trị đó, biến chúng thành sức mạnh tinh thần
của người dân, đưa ĐBBB trở thành một
vùng có chính trị ổn định, kinh tế và văn hóa
phát triển. Đây là một vấn đề cấp bách, đang
gây sự chú ý của nhiều cấp ngành, đặt ra cho
các nhà lãnh đạo, các nhà nghiên cứu phải
trăn trở suy nghĩ, tìm ra con đường phát triển
tối ưu nhất cho vùng ĐBBB hiện nay.
Ảnh hưởng của đạo đức truyền thống
Đạo đức truyền thống là sản phẩm của một
quá trình tiếp biến và có chiều sâu trong lịch
sử. Đạo đức truyền thống ăn sâu vào trong lối
sống của người Việt và thể hiện qua nếp sống
hàng ngày của họ. Do được giao thoa giữa các
quan niệm đạo đức trong Nho giáo, Phật giáo
cùng với phong tục tập quán tín ngưỡng bản
địa hình thành nên lối tư duy tổng hợp, biện
chứng trong lối sống của người Việt ở ĐBBB.
Chính đặc điểm này làm cho lối sống của
người Việt ở ĐBBB luôn được bồi đắp những
giá trị văn hóa đạo đức tốt đẹp trong suốt
chiều dài lịch sử. Cùng với thời gian, những
giá trị này trở nên ổn định và được lưu truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác, trở thành sức
mạnh, bản sắc trong nhân cách con người
vùng ĐBBB hiện nay.
Mặc dù, hiện nay có nhiều yếu tố khác nhau
tác động đến lối sống của người Việt ở ĐBBB
nhưng những giá trị tốt đẹp của đạo lý truyền
thống như yêu nước, hiếu thảo với bố mẹ, tôn
sư trọng đạo, uống nước nhớ nguồn... đã trở
thành trụ cột quan trọng trong nhận thức,
hành vi, thái độ và thể hiện bằng những hành
động cụ thể hàng ngày của họ. Người dân
luôn lấy đạo lý “thương người như thể thương
thân”, “nhiễu điều phủ lấy giá gương”, “bầu
ơi thương lấy bí cùng”, “lá lành đùm lá rách”,
“chị ngã em nâng”, “một lòng thờ mẹ kính
cha” làm lẽ sống của mình. Điều này được
thể hiện trước hết ở sự gắn kết giữa các thành
viên trong một gia đình, tiếp đến là tinh thần
tộc họ, cao hơn là tinh thần cộng đồng làng và
bao trùm lên tất cả là ý thức về đất nước, dân
tộc. Ngoài ra, ý thức về cội nguồn còn được
thể hiện trong việc thờ cúng tổ tiên. Tổ của
gia đình, của dòng họ, của cả làng và của cả
nước. Do đó, hàng năm, cứ đến ngày lễ, tết,
giỗ, kị, người Việt ở ĐBBB lại hương khói
tưởng nhớ đến những người đi trước đã có
công trong xây dựng làng xóm và đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh ảnh hưởng tích cực, đạo
đức truyền thống cũng còn những tác động
tiêu cực đến lối sống của người Việt ở ĐBBB
hiện nay. Một trong những hình thức thể hiện
của đạo đức truyền thống chính là trong các
loại hình tín ngưỡng tôn giáo. Ở ĐBBB hiện
nay các loại hình tín ngưỡng tôn giáo rất
phong phú đa dạng với rất nhiều lễ hội. Đó là
mảnh đất màu mỡ cho những hủ tục, mê tín
tồn tại và phát triển. Sự tác động quá mạnh
của đạo đức truyền thống đôi khi làm cản trở
quá trình tiếp biến những tư tưởng tiên tiến,
hiện đại, ảnh hưởng trực tiếp đến tư duy và
lối sống của người Việt. PGS.TS. Lê Như
Hoa cho rằng “Đất nước mở cửa chúng ta có
điều kiện tiếp thu những mặt tốt đẹp của lối
sống hiện đại trên thế giới song những yếu tố
xấu, phi văn hóa, không thích hợp với con
người Việt Nam của lối sống hiện đại từ bên
ngoài cũng đã nhập vào hủy hoại lối sống
truyền thống tốt đẹp của chúng ta. Một vấn đề
quan trọng đặt ra là phải giữ gìn bản sắc dân
tộc trong khi xây dựng lối sống hiện đại trên
đất nước ta” [5, tr. 62].
Như vậy, trong lối sống của người Việt ở
ĐBBB hiện nay chịu ảnh hưởng của rất nhiều
yếu tố. Những ảnh hưởng này có cả mặt tích
cực và mặt tiêu cực. Theo kết quả điều tra 149
trẻ phạm pháp đang học tập rèn luyện ở
trường phổ thông nội trú dạy nghề số 1 Hà
Nội có 94 % biết uống bia, hút thuốc lá, 100%
thích xem phim kích động bạo lực, 25% có
quan hệ yêu đương sớm, 72,48% đã biết sử
dụng ma túy, 100% nói năng thô tục [5,
tr.266]. Điều tra của Trung tâm nghiên cứu
khoa học phụ nữ ở Hà Nội: nhóm gái mại
dâm từ 15 tuổi trở xuống chiếm khoảng 2,5%,
trên 35 tuổi chiếm khoảng 6%, khoảng 52%
người thành phố, 48% người nông thôn, trong
Đinh Thị Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 33 - 38
37
đó những người không có nghề nghiệp là
18%, buôn bán là 12%, công nhân là 11%,
học sinh là 6% [5, tr.157].
Trước những ảnh hưởng tiêu cực đến lối
sống của người Việt ở ĐBBB, cần có những
giải pháp để khắc phục những tiêu cực và
phát huy những yếu tố tích cực trong việc
xây dựng lối sống mới xã hội chủ nghĩa.
Theo chúng tôi, trước hết, chính quyền ở
ĐBBB cần:
Thứ nhất, nâng cao đời sống vật chất chính
quyền địa phương cần chú trọng phát triển
nhiều hình thức kinh tế phù hợp với điều kiện
địa phương, tạo công ăn việc làm và nâng cao
thu nhập chính đáng cho người dân. Khuyến
khích làm giàu hợp pháp, góp phần tạo lực
đẩy cho tăng trưởng kinh tế và chống tham
nhũng. Củng cố bộ máy và thể chế pháp lý để
tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp
tư nhân, nhà nước và nước ngoài trong việc
tuyển chọn, đào tạo và sử dụng lao động.
Khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân phát
triển vì đây là một trong những khu vực có
khả năng tạo ra nhiều việc làm cho người lao
động. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát
triển nhiều ngành, nghề sản xuất tại các địa
phương (nhất là ở các vùng nông thôn) nhằm
thu hút lực lượng lao động tại chỗ đi đôi với
việc tạo điều kiện để người lao động có điều
kiện được đào tạo các ngành nghề phù hợp,
đồng thời thực hiện tốt chính sách di cư nội
địa, nhằm điều tiết hiệu quả lực lượng lao
động giữa các địa phương, từng bước góp
phần cân bằng cung cầu lao động.
Thứ hai, xây dựng môi trường gia đình, xã hội
lành mạnh. Ngoài việc phát triển kinh tế, chính
quyền địa phương trong vùng ĐBBB hiện nay
cần phải chú trọng xây dựng môi trường gia
đình văn hóa và xã hội lành mạnh. Tuy kinh tế
là nền tảng, song nếu chỉ tập trung phát triển
kinh tế mà không chăm lo đời sống tinh thần,
đảm bảo an sinh xã hội cho người dân, hiệu
quả đầu tư sẽ thấp hoặc tạo ra sự phát triển
thiếu bền vững và là điều kiện cho những nhận
thức và hành vi sai trái phát triển ảnh hưởng
đến lối sống của người Việt. Môi trường gia
đình văn hóa, xã hội lành mạnh là nền tảng
phát huy yếu tố tích cực của kinh tế thị trường
trong lối sống của người Việt.
Gia đình là nơi con người được sinh ra, được
nuôi dưỡng và trưởng thành về nhân cách đạo
đức, lối sống. Gia đình là trường học đầu tiên
của mỗi cá nhân và cha mẹ là người thày đầu
tiên dạy cho con người những đức tính, tình
cảm tốt đẹp theo truyền thống văn hóa của
dân tộc. Trong quá trình xã hội hóa, gia đình
là tác nhân đầu tiên xã hội hóa con người gây
dựng thế hệ tương lai của đất nước. Gia đình
trở thành chỗ dựa tình cảm và tinh thần của
mỗi thành viên, nơi con người có thể bộc lộ
bản chất và cá tính của mình đồng thời cũng
nhận được sự quan tâm khích lệ, đùm bọc của
cả cộng đồng đặc biệt này. Vì vậy, để xây
dựng lối sống của người Việt ở ĐBBB, đòi
hỏi phải xây dựng môi trường gia đình văn
hóa. Trong đó, cha mẹ phải gương mẫu và có
trách nhiệm với con cái. Gia đình là tế bào
của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã
hội tốt thì gia đình càng tốt.
Ngoài ra, xây dựng môi trường gia đình văn
hóa, cần xây dựng môi trường xã hội ổn định,
lành mạnh. Muốn vậy, chính quyền các tỉnh
của ĐBBB hiện nay thực hiện tốt chính sách
của Đảng và Nhà nước giữ gìn và phát triển
những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc và
tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân
loại, đẩy mạnh xây dựng nếp sống văn minh,
lành mạnh trong các hoạt động xã hội nhằm
khắc phục suy thoái về đạo đức, lối sống của
một bộ phận người dân trong vùng; hạn chế
dần và tiến tới loại bỏ các hiện tượng mê tín
dị đoan; đẩy mạnh phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” trong đó
có phong trào “Người tốt việc tốt”, “Uống
nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Xây
dựng gia đình văn hóa”...; thực hiện tốt cuộc
vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn Đảng, toàn
dân của vùng.
Đinh Thị Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 33 - 38
38
KẾT LUẬN
Trước những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực
của kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, hiện đại
hóa và công nghiệp hóa, người Việt ở ĐBBB
cần sáng suốt gạn lọc lấy những ưu điểm phù
hợp với truyền thống. Tiếp thu và bản địa hóa
những điểm tiến bộ của nước ngoài, đồng thời
cũng cần phải có bản lĩnh nhận biết những
tiêu cực của lối sống du nhập, để không bị
cuốn theo một cách mù quáng mà quên đi bản
sắc dân tộc. Tuy nhiên, chính quyền ĐBBB
cũng cần có những giải pháp để khắc phục
những hạn chế đó như nâng cao đời sống vật
chất, xây dựng môi trường gia đình, xã hội
lành mạnh, ổn định. Có như vậy mới loại bỏ
được tiêu cực, phát huy những yếu tố tích cực
cho việc xây dựng lối sống của người Việt
trong vùng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Tổng cục thống kê (2014), Niên giám thống kê
2013, Nxb Thống kê, Hà Nội.
2. Nguyễn Ngọc Hà (2010), Đặc điểm tư duy và
lối sống của con người Việt Nam và những vấn đề
đặt ra trước yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế,
Đề tài khoa học cấp nhà nước, Bộ Khoa học Công
nghệ, Mã số KX.03.07/0610.
3. Nguyễn Trọng Xuân (2006), Luận cứ khoa học
góp phần thực hiện điều chỉnh định hướng chiến
lước phát triển vùng ĐBBB theo nguyên lý bền
vững, Đề tài khoa học cấp bộ, Viện Kinh tế Việt
Nam, Viện khoa học Xã hội Việt Nam. Mã số
B2006-3.
4. Thanh Lê chủ biên (2001), Lối sống xã hội chủ
nghĩa và xu thế toàn cầu hóa, Nhà xuất bản Khoa
học xã hội.
5. Lê Như Hoa (2003), Bản sắc dân tộc trong lối
sống hiện đại, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin
Hà Nội.
SUMMARY
FACTORS AFFECTING CURRENT LIFESTYLE OF VIETNAMESE PEOPLE
IN THE NORTHERN DELTA
Dinh Thi Giang*
TNU - University of Medicine and Pharmacy
The article shows that the lifestyle of Vietnamese peoplein the Northern Delta has been affected by
both positive and negative aspects of the socialist-oriented market economy and the process of
industrialization, modernization, globalization and international integration and traditional ethics.
Besides, the positive effects contribute to forming an active, creative and industrial lifestyle, etc.,
negative affects of the above -mentioned factors are also to form more materialistic, corruptible
and practical lifestyle than training and improvement of personality and morality, etc.
Keywords: lifestyle, Vietnamese people, Northern Delta, human activities, ethics.
Ngày nhận bài: 19/3/2018; Ngày phản biện: 13/4/2018; Ngày duyệt đăng: 29/6/2018
* Tel: 0987128483; Email: giangdhytn@gmail.com
oµ soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ
SOCIAL SCIENCE – HUMANITIES – ECONOMICS
Content Page
Hoang Thi Phuong Nga - Literature tourism model “the old Vu Dai village” 3
Pham Thi Thu Hoai, Tran Thi Thanh - Slang in Van Thanh Le's stories about education problems 9
Ngo Thi Thanh Nga, Pham Thi Hong Van - A brief description of the modes of expressing conjugal
sentiments in the Vietnam medieval literature 15
Nguyen Thi Tham, Nguyen Minh Son - The opposite view of Nguyen Ngoc Tu to Vietnamese traditional
literature via the main female characters in Khong ai qua song 21
Dang Thi Thuy, Nguyen Dieu Thuong - The logic of “non logic” phenomenon in Vietnamese folk verses, proverbs 27
Dinh Thi Giang - Factors affecting current lifestyle of Vietnamese people in the northern delta 33
Nguyen Dieu Thuong, Nguyen Thi Lan Huong - Mechanisms creating implication in satirical jokes 39
Nguyen Thu Quynh, Vi Thi Hien - Household vocabulary of Thai language in Dien Bien province 45
Nguyen Thi Thu Oanh, Hoang Thi My Hanh - Position, role of the communist party of Vietnam in the period
1954 – 1975 and some lessons learned 51
Do Hang Nga, Pham Quoc Tuan - Collection of taxes in the villages through material of reformist village
convention in Thai Nguyen province 57
Le Van Hieu - The efficiency of the model "propaganda department" in communes, wards, township and
"commander" in villages, cities at the current period in Lao Cai province 63
Thai Huu Linh, Nguyen Thi Thu Hien, Nguyen Thi Thanh Ha - The role of the rear Bac Thai in the 1968
general offensive 69
Pham Anh Nguyen - The attraction in “Hai dam” of Phan Khoi 73
Nguyen Thi Huong, Nguyen Thi Mao, Nguyen Tuan Anh - Enhancing the efficiency of extracurrucular
activities in teaching civic education at high schools in thai nguyen city these days 79
Nguyen Van Dung, Dao Ngoc Anh - Physical status of non-sports students at Thai Nguyen University of Education 85
Tran Bao Ngoc, Le Ngoc Uyen, Bui Thanh Thuy et al - The reality of degree classification in non-
examination students at University of Medicine and Pharmacy – Thai Nguyen University in the period from
2013 to 2017 91
Nguyen Thuc Canh - The need for buiding an exercise system with practical content to teach mechanics
to high school 97
Ha Thi Kim Linh, Chu Thi Bich Hue - Educate legal knowledge for ethnic minority women in Vo Nhai
district, Thai Nguyen province 105
Nguyen Thi Thanh Hong, Nguyen Thi Khanh Ly, Vu Kieu Hanh - Improve students’ participation in
English learning activities in large mixed ability classes of the freshman students at Thai Nguyen University of
Medicine and Pharmacy 111
Pham Thi Huyen, Vu Thi Thuy - Manipulate exemplary style according to the President Ho Chi Minh’s
thought in building work style for key caders at present period 117
Dam Quang Hung - Science lesson planning for grade 4, 5 according to experimental research 123
Hoang Thi Thu Hoai - Difficulties in teaching and learning ESP vocabulary for nursing students at Thai
Nguyen Medical College and some solutions 129
Nguyen Lan Huong, Van Thi Quynh Hoa - Determinants affecting English speaking performance of the first-
year students at Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 135
Journal of Science and Technology
183(07)
N¨m 2018
Vu Kieu Hanh - Determinants to the reading comprehension performance level of the second- year students at
Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 141
Nguyen Thi Que, Hoang Thi Nhung - Asking the right question for successful self-studying and cooperative
learning - towards independent language learners in the context of ASEAN community and global integration 147
Ngo Thi Thu Ha, Nguyen Thi Hoai Thu - Apply interactive teaching methods to improve the quality of
teaching and learning Vietnamese to international students at Military Technical Academy 153
Duong Van Tan - An assessment of the effectiveness in application of games in general physical development
for students at Thai Nguyen University of Technology 159
Bui Thi Huong Giang - Improving intercultural communicative competence in foreign language teaching
and learning 165
Tran Hoang Tinh, Nong La Duy, Pham Van Tuan - Building self-managed platoon in disciplinary education
for students at the center for defense and security education in the current phase 171
Tran Thi Yen, Khong Thi Thanh Huyen - Improving academic writing performance for english majors
through intensive reading 177
Do Thi Hong Hanh, Hoang Mai Phuong - Vocational training for rural workers in Cho Moi district, Bac
Kan province 183
Tran Thuy Linh, Tran Luong Duc, Nguyen Thi Thuy Trang - European union competition law approach on
exploitative abuses 189
Nguyen Thi Thanh Ha, Pham Viet Huong - Setting up an appropriate set of economic criteria and indicators
for evaluating sustainable forest management in Dinh Hoa district 195
Dinh Thi Hoai - Marketing promotion for information - library product and service at the Learning Resource
Center of Thai Nguyen University 201
Nguyen Thi Thanh Xuan - Factors affecting customer satisfaction in hotels at Thanh Hoa province, Vietnam 207
Duong Thi Tinh - Contributions of goods export to the economic growth of Yen Bai province 213
Le Minh Hai, Tran Viet Khanh - Tourism space organization of Thai Nguyen province 219
Ha Van Vuong - Apply the ergonomics theory in working environment organization at the office of Song Cong
grarment branch II – TNG Investment and Trading Joint Stock Company 227
Mai Anh Linh, Nguyen Thi Minh Anh - Assessing service quality and customer satisfaction: an empirical
study at Lan Chi supermarket, Thai Nguyen city 233
Dinh Hong Linh, Nguyen Thu Nga, Nguyen Thu Hang - Applying logarithmic function to evaluate the
business efficiency of Vietnam banks 239
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 341_369_1_pb_1178_2127093.pdf