Tài liệu Những luận điểm đóng góp của tư tưởng Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận chủ nghĩa Mac-Lênin: NHNhững luận điểm đóng góp của tư tưởng Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận chủ nghĩa Mac-Lênin.
Phần I Tìm hiểu sơ lược về tư tưởng Hồ Chí Minh
và nguồn gốc ra đời tư tưởng Hồ Chí Minh
--Trước khi tìm hiểu về những luận điểm tư tưởng Hồ Chí Minh ta tìm hiểu sơ qua về tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh .
I.Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì ?
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi và phong phú, hết lòng vì dân tộc vì đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản tinh thần hết sức sâu sắc, cao cả, có ý nghĩa chỉ đạo lâu dài sự nghiệp cách mạng nước ta. Tổng hợp những giá trị tinh thần đó là tư tưởng Hồ Chí Minh.
Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ Ix của Đảng đã khẳng định:
“ Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mac-Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta kế thừa và phát triển các giá trị truyề...
18 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1354 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những luận điểm đóng góp của tư tưởng Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận chủ nghĩa Mac-Lênin, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHNhững luận điểm đóng góp của tư tưởng Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận chủ nghĩa Mac-Lênin.
Phần I Tìm hiểu sơ lược về tư tưởng Hồ Chí Minh
và nguồn gốc ra đời tư tưởng Hồ Chí Minh
--Trước khi tìm hiểu về những luận điểm tư tưởng Hồ Chí Minh ta tìm hiểu sơ qua về tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh .
I.Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì ?
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi và phong phú, hết lòng vì dân tộc vì đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản tinh thần hết sức sâu sắc, cao cả, có ý nghĩa chỉ đạo lâu dài sự nghiệp cách mạng nước ta. Tổng hợp những giá trị tinh thần đó là tư tưởng Hồ Chí Minh.
Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ Ix của Đảng đã khẳng định:
“ Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mac-Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoánhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc giải phóng giai cấp, giải phóng con người về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hôi, kết hợp sớc mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kêt dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lương vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, niêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viênvừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân…”. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranhcủa nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thầnto lớn của Đảng và dân tộc ta.
Như vậy, khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh bao hàm nguồn gốc, những nội dung chủ yếu và thực tiễn vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
II. Điều kiện lịch sử, xã hội, nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Điều kiện lịch sử- xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh ra đời trong hoàn cảnh lịch sử – xã hội nước ta khá đặc biệt:
Từ văm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, các phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ bùng lên: Trương Định, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật… nhưng đều bị thất bại vì chưa có đường lối kháng chiến đúng đắn. Điều đó cho thấy sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trước nhiệm vụ lịch sử.
+ Bước sang đầu thế kỷ XX, với công cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp, cơ cấu giai cấp xã hội Việt Nam có sự chuyển biến và phân hoá mạnh mẽ. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản với sự xuất hiện các phong trào Đông du, Đông kinh nghĩa thục, Duy tân, Việt Nam Quang phục hội… nhưng rồi cũng bị dập tắt.
Sự khó khăn, bế tắc và thất bại của phong trào cứu nước đầu thế kỷ XX đã thôi thúc Hồ Chí Minh phải tìm ra con đường mới cứu dân, cứu nước.
* Quê hương và gia đình.
+ Nghệ An cũng như Kim Liên, quê hương của Hồ Chí Minh, là mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm, là quê hương của nhiều anh hùng nổi tiến như Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, các lãnh tụ yêu nước cận đại như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Vương Thúc Mậu, Nguyễn Sinh Quyến…
+ Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi với nhân dân. Cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Người là một nhà Nho, có lòng yêu nước, thương dân sâu sắc. Tấm gương lao động cần cù, ý chí kiên cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đặc biệt là tư tưởng thương dân, chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi cải cách chính trị- xã hội của Cụ đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành nhân cách của Nguyễn Tất Thành.
* Thời đại
+ Đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn tư bản độc quyền, chủ nghĩa đế quốc. Chúng đã xác lập sự thống trị trên phạm vi thế giới. Vì vậy, cuộc đấu cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc luc này không còn là hành động riêng rẽ của một nước này chống lại sự xâm lược và thống trị của một nước khácmà đã trở thành cuộc đấu tranh chung của các dân tộc thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản quốc tế.
+ Sau một thời gian dài bôn ba qua nhiều châu lục, nhiều quốc gia trên thế giới, với vốn hiểu biết phong phú, Nguyễn Tất Thành đã hiểu được bản chất của chủ nghĩa đế quốc, nắm được trình độ phát triển của nhiều nước thuộc địa cùng cảnh ngộ, nhất là nhiều năm lăn lộn trong phong trào lao động ở Pháp và cùng hoạt động với những nhà cách mạng từ các nước thuộc địa của Pháp. Người đã nhanh chóng đến được với phái tả của cách mạng Pháp, gia nhập Đảng Xã Hội Pháp- một chính đảng duy nhất của Pháp bênh vực các dân tộc thuộc địa. Người trở thành một chiến sĩ xã hội chu nghĩa.
+ Tháng 3- 1919, V.L.Lênin thành lập Quốc tế III. Tiếp theo là việc nhà nước Xôviết đánh bại cuộc chiến tranh can thiệp của 14 nước đế quốc và bọn bạch vệ phản cách mạng. Tiếng vang và ảnh hưởng của Cách mạng Tháng 10 lan rộng ra châu Âu và toàn thế giới đã tác động sâu sắc đến tư duy của Người về mục tiêu và con đường của cách mạng Việt Nam, nhất là khi Người được tiếp cận với Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Việc Nguyễn ái Quốc tham gia sáng lập Đảng Cộng Sản Pháp- tại Đại Hội Tua (12- 1920) đã đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mac-Lênin, từ người yêu nước thành người cộng sản.
2. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển dựa trên các cơ sở sau đây:
Tư tưởng và văn hoá truyền thống Việt Nam
Dân tộc Việt Nam trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã tạo lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những truyền thống tốt đẹp và cao quý.
+ Trước hết, chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đâu tranh để dựng nước và giữ nước, đó là chuẩn mực cao nhất, dòng chảy lưu xuyên suốt trưòng kỳ lịch sử Việt Nam.
+ Thứ hai, tinh thần đoàn kết cộng đồng, gắn kết cá nhân với gia đình, với làng với nước: là lòng nhân ái, khoan dung trong nghĩa đạo lý.
+Thứ ba, dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống lạc quan,yêu đời Cơ sở sự lạc quan, yêu đời đó là niềm tin vao sức mạnh của bản thân mình, dân tộc mình, niềm tin vao sự tất thắng của chân lý, chính nghĩa.
+ Thứ tư, dân tộc Việt Nam là một dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong sản xuất và chiến đấu; đồng thời cũng là dân tộc ham học hỏi, cầu tiến bộ, và không ngừng mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hoá của nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh tinh hoa văn hoá nhân loại, thể hiện tập trung trên những nét tiêu biểu sau:
+ Trước hết là tư tưởng Nho giáo. Trong Nho giáo có các yếu tố huy tâm, lạc hậu, phản động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời, lý tưởng về một xã hội bình trị, một thế giới đại đồng; đó là triết lý nhân sinh: tu nhân, dưỡng tính; đó là tư tưởng đề cao văn hoá, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học. Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo, lựa chọn những yếu tố tích cực, phù hợp để phục vụ nhiệm vụ cách mạng.
+ Thứ hai, Phật giáo. Phật giáo vào Việt Nam rất sớm và ảnh hưởng rất mạnh trong nhân dân, để lại nhiều dấu ấn trong văn hoá Việt Nam. Đó là tư tưởng vị tha, từ bi, cứu khổ, cứu nạn, thưong người như thể thương thân; đó là nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chămlo làm điều thiện; đó là tinh thần bình đẳng, chống lại mọi phân biệt đẳng cấp: đó là tư tưởng đề cao lao động, chống lười biếng; đó là cuộc sống gắn bó với nhân dân, với đất nước…
Ngoài những mặt tích cực trong tư tưởng phương Đông, phương Tây và cả chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn cũng được Hồ Chí Minh tìm thấy “những điều thích hợp với điều kiện nước ta”.
Trong những năm tháng bôn ba vừa kiếm sống vừa tham gia hoạt động cách mạng trên khắp 4 châu lục, Người đã tận mắt chứng kiến cuộc sống của nhân dân từ các nước tư bản phát triển như Mỹ, Anh, Pháp… đến các nước thuộc địa. Đó là những điều kiện thuận lợi để Người nhanh chóng chiếm lĩnh vốn kiến thức của thời đại, đặc biệt là truyền thống dân chủ và tiến bộ, cách làm việc dân chủ và sinh hoạt khoa học của nước Pháp.
Chủ nghĩa Mac-Lênin, nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là cơ sở hình thành thế giới quan và phương pháp luận của Hồ Chí Minh. Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mac-Lênin, Nguyễn ái Quốc đã hấp thụ và chuyển hoá được những nhân tố tích cực và tiến bộ của truyền thống dân tộc cũng như của tư tưởng- văn hoá nhân loại để tạo nên hệ thống tư tưởng của mình.
Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Nguyễn ái Quốc
- Trước hết, đó là tư tuy độc lập, tự chủ, sáng tạo cộng với đầu óc phê phán tĩnh tường, sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu các cuộc cách mạng tư sản hiện đại.
- Thứ hai, sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của thời đại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế để có thể tiếp cận với chủ nghĩa Mac-Lênin khoa học.
- Thứ ba, đó là tâm hồn của một nhà yêu nước, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước, thương dân, thương yêu những người cùng khổ, sẵn sàng chịu đựng những hy sinh cao nhất vì độc lập của Tổ quốc, vì tự do của đồng bào.
Chính những phẩm chất cá nhân cao đẹp này đã quyết định việc Nguyễn ái Quốc tiếp nhận, chọn lọc, chuyển hoá, phát triển những tinh hoa của dân tộc và thời đại tư tưởng đặc sắc của mình.
Phần II Những luận điểm đóng góp của tư tưởng Hồ Chí Minh
vào kho tàng lý luận chủ nghĩa Mac-Lênin.
Câu 4:Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc bao gồm những luận điểm nào?
Trả lời:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc có thể tóm tắt thành một hệ thống luận điểm sau đây:
-Một là, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của cách mạng vô sản.
Từ đầu những năm 20 thế kỉ XX, Nguyễn ái Quốc đã chỉ rõ: chủ nghĩ đế quốc là con đỉa hai vòi, một ngòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc, pải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạngvô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa như là “một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”; mặt khác, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
-Hai là, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Nguyễn ái Quốc đã sớm khẳng định: muốn giải phóng dân tộc thành công “trước hết phải có Đảng cách mệnh”, “Đảng có vững cánh mệnh mới thành công”, “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt” đó là chủ nghĩa Mac-Lênin.
-Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên cơ sở liên minh công- nông- trí thức.
Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng giải phóng dân tộc “là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một, hai người “, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, “sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”, nhưng trong sự tập hợp đó, phải nhớ “ công- nông là gốc cách mệnh”… “công- nông là người làm chủ cách mệnh”.
-Bốn là, cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Đây là một luận điểm mới và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Trong phong trào cộng sản Quốc tế lúc bấy giờ đã tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ngay từ năm 1924, Người đã sớm cho rằng cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước. Đây là một cống hiến rất quan trọng vào kho tàng lý luận Mac-Lênin, mà lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
-Năm là, cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợplực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang của nhân dân.
Ngay từ năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ, Nguyễn ái Quốc đã nói đến khả năng khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương. Theo Người, “Để có cơ thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương… Phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng…”
Đến tháng 5-1941, Hội nghị Trung ương 8 do Người làm chủ trì đã đưa ra nhận định: “Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang”.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, sáng tạo, bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
Câu hỏi 5: tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng giai cấp bao gồm những luận điểm nào?
Trả lời:
Trong khi đề cao mục tiêu giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ xa rời mục tiêu giải phóng giai cấp.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng giai cấp bao gồm những luận điểm sau:
-Hồ Chí Minh đã xem cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng voẻan trong phạm vi toàn thế giới, là một cái cánh của cách mạng vô sản.Khác với Mác, Ăngel và Lê-nin, Hồ Chí Minh không xem xét cách mạng giải phóng dân tộc phụ thuộc vào cách mạng vô sản chính quốc mà đặt hai cuộc cách mạng này ngang hàng nhau, có mối quan hệ hữu cơ và tác động qua lại lẫn nhau. Người còn cho rằng, cách mạng giải phóng dân tộc có khả năng, diều kiện nổ ra và giúp cho cách mạng vô sản ở chính quốc giành thắng lợi. Đây là điểm mấu chốt trong việc phát triển lý luận chủ nghĩa Mac-Lênin về vấn đề giải phóng giai cấp và cách mạng vô sản trong điều kiên lịch sử mới của chủ nghĩa đế quốc.
Hồ Chí Minh đã xuất phát từ tình hình thực tế ở các nước thuộc địa phương Đông lúc bấy giờ, trong đó có Việt Nam để xác định đúng đắn nhiệm vụ lúc này không phải là làm ngay mọt cách mạng vô sản, mà trước hết là phải đấu tranh giành lại độc lập, có độc lập dân tộc rồi mớ có địa bàn để làm cách mạng xã hôi chủ nghĩa. Người cho rằng trong diều kiện một nước thuộc địa thì giải phóng giai cấp gắn bó chặt chẽ với giải phóng dân tộc. Giải phóng dân tộc là động lực lớn mà người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, là một bước quan trọng để tiến tới giải phóng giai cấp. Cách mạng giải phóng dân tộc là điều kiện để tiến lên cách mạng xã hôi chủ nghĩa và góp phần thiết thực vào sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản trên thế giới.
-Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hôi vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mqh khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Câu hỏi 6: Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng con người?
Có thể nói tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng con người
Trả lời:
-Có thể nói, hạt nhân của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là giải phóng con người và mưu cầu hạnh phúc cho hết thảy mọi người trên trái đất. Giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp cũng là nhằm mục tiêu giải phóng con người. Người quan niệm, giải phóng dân tộc cũng nhằm để dân có tự do, hạnh phúc, “nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”1. Theo Người, xây dựng chủ nghĩa xã hội không chỉ là điều kiện bảo đảm nền độc lập dân tộc và giải phóng giai cấp khỏi áp bức, bóc lột mà còn chính vì “không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và đảm bảo cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa”2, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn, việc làm, được sống ấm no và sống cuộc đời hạnh phúc.
-Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội mang trong nó bản chất nhân văn và văn hoá; chủ nghĩa xã hội là giai đoạn phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản về mặt văn hoá và phát triển con người. Nói văn hoá cũng tức là nói đến con người – chủ thể văn hoá. Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng xây dựng con người, tình người mối quan hệ nhân văn giữa người với người. Người chú trọng nâng cao ý tưởng, đạo đức văn hoá, khoa học cho con người, vì theo người “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hôi, trước hết cần có những con người xã hôi chủ nghĩa”. Tư tưởng “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” của Hồ Chí Minh đã thể hiện sự quan tâm của Người đối với thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước như thế nào , khẳng định trách nhiệm của xã hội ra sao.
-Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh nguồn lực con người như là nhân tố quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng. Cũng chính vì xác định vai trò to lớn, quyết đảng viên phải vừa là nười lãnh đạo vừa là người đầy tớ của dân, Nhà nước là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Người cũng hết sức coi trọng vấn đề đại đoàn kết toàn dân, coi đó là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của mọi cuộc cách mạng. Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”.
Câu hỏi 7:Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người?
Trả lời:
-Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người được thể hiện trong con người Hồ Chí Minh tìm ra cho cách mạng Việt Nam, đó là con đường cách mạng vô sản- con đường cách mạng phát triển liên tục từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hôi chủ nghĩa, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Chỉ có đi theo con đường cách mạng vô sản mới giành được độc lập thực sự cho dân tộc, mới làm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, mới thực hiện được mục tiêu làm cho nước Việt Nam độc lập thật sự, nhân dân Việt Nam được hưởng hạnh phúc, tự do mọi người Việt Nam ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Con đường cách mạng đó là phù hợp với tiến bộ lịch sử, xu thế vận động của quá trình cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam. Đó chính là mối quan hệ nội tại của vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người của tư tưởng Hồ Chí Minh.
-Hồ Chí Minh rất am hiểu về mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc. Người đã cho rằng tất cả sinh lực của chủ nghĩa đế quốc đều lấy ở các xứ thuộc địa, từ đóNgười xác định tính tất yếu lịch sử của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, vai trò của thuộc địa với cách mạng vô sản và vận mệnh của chủ nghĩa đế quốc. Người xem cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít củacm vô sản trong phạm vi thế giới, là một trong những “cái cánh” của cách mạng vô sản. Người còn đặt cách mạng giải phóng dân tộc ngang hàng với cách mạng vô sản ở chính quốc; đồng thời còn cho rằng, cách mạng giải phóng dân tộc có khả năng, điều kiện nổ ra và thành công sớm hơn cách mạng vô sản ở chính quốc và qiúp cho cách mạng vô sản ở chính quốc giành thắng lợi.
-Hồ Chí Minh luôn coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, của cách mạng vô sản, đặt cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo của cách mạng thế giới nhưng không phải ngồi chờ mà phải chủ động đứng lên, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta, muốn người ta giúp mình, thì trước hết phải tự giúp lấy mình đã.
-Tư tưởng cách mạng không ngừng của Hồ Chí Minh, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội phản ánh mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp chính là giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, xây dựng một xã hội no đủ, hạnh phúc, tự do và thinh vượng.
PHAN III
Câu hỏi 8: tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc bao gồm những luận điểm cơ bản sau
Trả lời:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản được thể hiện trên những luận điểm cơ bản sau đây:
-Một là, độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất hả xâm phạm của các dân tộc.
Lịch sử Việt Nam là lịch xử không ngừng đấu tranh dựng nước và giữ nước. Tinh thần yêu nước luôn luôn đứng ở hành đầu trong bảng giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam. Đối với một người dân mất nước,cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Như Hồ Chí Minh đã nói: Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi dược tự do, Tổ quốc tôi được độc lập… Hồ Chí Minh là người đã đưa ra chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Đó không chỉ là lý tưởng mà còn làlẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh, là lý do chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng, nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
-Hai là, kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.
+Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất nước. Xuất phát từ vị trí của người dân thuộc địa mất nước từ truyền thống dân tộc Việt Nam, Nguyễn ái Quốc đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là một động lực lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để rơi vào tay giai cấp nào khác, phải nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp vô sản.
+Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng này vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Đến với Hồ Chí Minh chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
+Độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc.
Hồ Chí Minh đã khẳng định: quyền tự do, độc lập là quyền bất khả xâm phạm của các dân tộc, “dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Là một chiến sĩ cộng sản quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức. Chủ nghĩa yêu nước chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng ở Hồ Chí Minh.
Câu hỏi 9: tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là gì?
Với những luận điểm trên Hồ Chí Minh đã đưa ra những luận điểm áp dụng vào Việt Nam
-Quan niệm đặc trưng về bản chất xã hôi chủ nghĩa của Hồ Chí Minh bao gồm:
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do dân làm chủ, nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội phải có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thầncho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Chủ nghĩa xã hội cũng là một xã hội phát triển cao về văn hoá, đạo đức, trong đó người vời người là bè bạn, là đồng chí, là anh em, là con người được giải phóngkhỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, đượo tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình. Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, các dân tộc bình đẳng, miền núi tiến kịp miền xuôi. Cuối cùng chủ nghĩa xã hội là một công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng.
-Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin và từ tình hình thực tiễn của Việt Nam:
Trước hêt, Hồ Chí Minh đã ưu ý chúng ta cần nhận thức rõ tính quy luật chung và đặ điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước để nhận rõ đặc trưng tính chất của thời kỳ quá độ của Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó đặc điểm bao trùm to nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này thâu tóm đầy đủ những mâu thuẫn, khó khăn, phức tạp, chi phối toàn bộ tiến trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, từ đó phải tìm ra con đường vỡin hình thức, bước đi và cách làm phù hợp với đặc điểm Việt Nam.
Về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ, Người nói “Chúng ta phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hôi chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.
Về những nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ phải:
Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.
Nâng cao vai trò quản lý của nhà nước.
Phát huy tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị- xã hội.
Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng xã hôi chủ nghĩa.
Câu hỏi 10: Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là gì?
Trả lời:
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện trên mấy vấn đề chủ yếu sau đây:
-Một là độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc, “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Đó là, những chân lý bất di bất dịch của mọi thời đại.
-Hai là, để có độc lập tự do thật sự, không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản.
-Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản, là một trong những “cái cánh” của cách mạng vô sản. Gắn cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam với cách mạng thế giới, đưa dân tộc ta vào quỹ đạo của thời đại, đưa cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hôi chủ nghĩa. Đây là một sáng tạo lớn về con đường phát triển cách mạng ở các nước thuộc địa nửa phong kiến.
-Bốn là, giữ vững độc lập, tự chủ, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hôi chủ nghĩa , sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình. Người cho rằng: Muốn được giải phóng các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình,trông cậy vào lực lượng của chính bản thân mình. Đồng thời, Người cũng chỉ ra rằng: “cách mạng thuộc địa không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có khả năng giành thắng lợi trước” và “trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”. Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, một cống hiến rất quan trọng vàokho tàng lý luận Mac-Lênin và đã được thực tiễn cách mạng chứng minh.
-Năm là, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội phản ánh quan điểm cách mạng không ngừng, một quá trình vận động liên tục của lịch sử cách mạng Việt Nam, gồm hai giai đoạn, mỗi giai đoạn ứng với một niệm vụ nhất định vủa tiến trình phát triển.
Giai đoạn thứ nhất là tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành độc lập cho dân tộc, đem lại ruộng đất cho dân cày, xây dựng chế độ dân chủ mới, tạo tiền đề tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Giai đoạn thứ hai là tiến hành cách mạng xã hôi chủ nghĩa, biến Việt Nam thành một nước có lực lượng sản xuất hiện đại, văn hoá tiên tiến, nhân dân làm chủ.
Nhiệm vụ giai đoạn trước hoàn thành tạo tiền đề cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của giai đoạn sau và không ngừng phát triển theo một quy luật dẫn tới mục đích.
Câu hỏi 11: Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại bao gồm những luận điểm nào?
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại rất phong phú:
-Một là, Hồ Chí Minh bao giờ cũng đặt cách mạng Việt Nam, cũng như cách mạng của mỗi nước trong tình hình nhiệm vụ chung của cách mạng thế giới và tác động qua lại giữa chúng.
Hồ Chí Minh xác định cách mạng Việt Nam nằm trong phạm trù cách mạng vô sản, tức là thực hiện giải phóng dân tộc tạo tiền đề đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần cùng cách mạng thế giới đánh đổ chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Do vậy, cách mạng giải phóng dân tộc phải gắn với cách mạng vô sản, vấn đề thuộc địa trở thành vấn đề quốc tế.
Khi gắn cách mạng giải phóng dân tộc với c thế giới, Hồ Chí Minh vẫn nhấn mạnh mỗi dân tộc có những đặc điểm riêng về lịch sử, xã hội, chính trị, kinh tế, những đặc điểm riêng của phương Đông và phương Tây, để trên cơ sở đó vạch ra chiến lược đấu tranh cho thích hợp.
-Hai là, Hồ Chí Minh xác định vị trí, nhiệm vụ của cách mạng dân tộc với cách mạng thế giới.
H chỉ ra cách mạng thuộc địa là một “cái cánh” của cách mạng vô sản. Chỉ có sự liên hiệp giữa các lực lượng này mới đánh thắng được chủ nghĩa đế quốc. Trong sự đoàn kết đấu tranh này, sức mạnh của cách mạng giải phóng dân tộc có vị trí to lớn trong cách mạng thế giới. Điều mới và sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là Người đã chứng minh được bọn đế quốc không chỉ áp bức, bóc lột nhân dân các nước thuộc địa mà còn thống trị, bóc lột nhân dân lao động và vô sản nước mình, chống lại phong trào cách mạng thế giới. Cho nên, nếu không có sự kết hợp sức mạnh của mỗi dân tộc với sức mạnh của nhân dân thế giới thì không thể giành thắng lợi được.
Hồ Chí Minh đã thực hiện tài tình, sáng tạo về kết hợp cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản và phong trào đấu tranh của nhân dân lao động chống bóc lột trên thế giới trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn. Thắng lợi đó xác định vị trí cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới và tác động trở lại của sức mạnh thời đại đối với cách mạng Việt Nam.
-Ba là, Hồ Chí Minh xác định phải xây dựng tình hữu nghị và hợp tác, sự đoàn kết giữa các dân tộc và vó các nước.
Tiếp thu và phát triển tư tưởng tiên tiến của nhân loại, nhất là của chủ nghĩa Mac-Lênin vể tình thương, về hữu nghị, hợp tác và đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh nhận thức rằng: xây dựng tình hữu nghị và hợp tácgữa các dân tộc là sự đòi hỏi cấp thiết của mỗi dân tộc, của toàn thể nhân loại để đấu tranh cho độc lập, tự do và phát triển. Suốt cuộc đời, Hồ Chí Minh đã phấn đấu cho “tình hữu ái vô sản”. Nó được xây dựng trên cơ sở hợp tác toàn diện, chân thực, hai bên cùng có lợi, sự tôn trọng lẫn nhau giữa nhân dân tất cả các nước. Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý xây dựng tình hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng và các nước trong khu vực.
-Bốn là, Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong khi kết hợp sức mạnh thời đại phải chú ý dựa vào sức mình là chính.
Người chỉ ra, muốn người giúp mình thì trước hết mình phải tự giúp mình đã. Điều đó đòi hỏi, mỗi dân tộc phải xây dựng được lực lượng nội tại cho mình để tạo ra thế và lực mới. Khi có thế và lực thì mới có điều kiện để tiếp thu sự giúp đỡ và tranh thủ sức mạnh bên ngoài. Chỉ trên cơ sở như vậy, hợp tác quốc tế giữa các dân tộc mới thực hiện được.
Để hợp tác quốc tế có kết quả, theo Người cần phải:
Giữ vững độc lập tự chủ.
Giữ vững được định hướng chính trị của sự phát đất nước.
Chủ động, tỉnh táo, sáng suốt trong quan hệ quốc tế để phân biệt rõ đâu là bạn, đâu là thù.
Khi thế giới có nhiều biến đổi phức tạp như hiện nay, thì việc quán triệt và thực hiện các nguyên tắc, nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại càng cần thiết và có ý nghĩa to lớn.
IV. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc.
Câu hỏi 12: những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc là gì?
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc thể hiện tập trung trên những quan điểm cơ bản sau:
-Một là, đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực chủ yếu, là sức mạnh vĩ đại quyết định sự thành công của cách mạng.
Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Hồ Chí Minh là một tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt, là chiến lược đấu tranh với kẻ thù dân tộc và giai cấp trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Người đã sử dụng khoảng 2.000 lần cụm từ “đoàn kết”, “đại đoàn kết” trong các văn bản viết. Người luôn luôn nhận thức đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề sống còn, quyết định sự thành công của cách mạng.
Sau khi giành được độc lập dân tộc, tại nhiều hội nghị Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh sức mạnh của đoàn kết: “Đoàn kết sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”.
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành cônh, thành cônh, đại thành công!”.
-Hai là, đại đoàn kết toàn dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam.
Năm 1951, Hồ Chí Minh thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc nhân buổi ra mắt Đảng Lao Động Việt Nam: “Mục đích của Đảng Lao Động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Như vậy, đoàn kết toàn dân là một đường lối lãnh đạo của Đảng. Không dừng lại ở việc xác định đại đoàn kết là mục tiêu Chủ tịch Hồ Chí Minh còn khẳng định nhiệm vụ của toàn Đảng là giữ gìn sự đoàn kết. Trong Di chúc Người dặn lại chúng ta “đoàn kết là một truyền thống cực kì quý báu của Đảng va dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
-Ba là, đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
Dân tộc Việt Nam được hiểu là mỗi người dân Việt Nam đang sinh sống, làm ăn ở Việt Nam và những người Việt sinh sống, làm ăn ở nước ngoài có gốc gác là người Việt Nam,không phân biệt họ là dân tộc thiểu số hay đa số, họ theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo, không phân biệt giàu hay nghèo, họ là nam hay nữ, già hay trẻ. Đại đoàn kết toàn dân tộc có ý nghĩalà phải tập hợp được mọi người dân vào một mục tiêu chung. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân rộng rãi nhưng phải xác định lực lượng nào là nền tảng của khối đại đoàn kết ấy. Người chỉ rõ “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân, và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết”.
-Bốn là, đại đoàn kết dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
Tổ chức thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc chính là Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận là lơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân nước Việt trong nước và ngoài nước phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Tuỳ theo từng giai đoạn cách mạng, Mặt trận dân tộc thống nhất có tên gọi khác nhau: Hội phản đế Đồng minh (1930), Mặt trận dân chủ (1936), Mặt trận nhân dân phản đế (1939), Mặt trận Việt Minh (1941),Mặt trận Liên Việt (1946), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955), Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1960). Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn mọi người phải khắc phục đoàn kết xuôi chiều, hình thức, đoàn kết thiếu đấu tranh với những mặt chưa tốt. Người viết “Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”. Người cổ vũ mọi người vào Mặt trận Việt Minh: Dân ta phải nhớ chữ: “đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”.
-Năm là, Đảng Cộng Sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc.
Là tổ chức chính trị to lớn nhất, cách mạng nhất, Đảng lãnh đạo xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất ,đồng thời cũng là một thành viên của Mặt trận. Đảng lãnh đạo mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng đắn. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng địng “Đảng ta có chính sách Mặt trận dân tộc đúng đắn, cho nên đã phát huy được truyền thống đoàn kết và yêu nước rất vẻ vang của dân tộc ta.”
Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ .Đảng thể hiện sự lãnh đạo của mình trước hết cũng phải theo nguyên tắc của Mặt trận. Đảng phải dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hoá, khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, hết sức tránh gò ép, quan liêu, mệnh lệnh .
Muốn lãnh đạo mặt trận, lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng phải thực sự đoàn kết nhất trí. Sự đoàn kết của Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng sự đoàn kết toàn dân.
-Sáu là, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế, nghĩa là chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quỗc tế trong sáng của giai cấp công nhân.
Đại đoàn kết dân tộc phải đi đến đại đoàn kết quốc tế và là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế. Ngược lại đại đoàn kết quốc tế là một nhân tố hết sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Câu 13: Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân và của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Nhận thức sâu sắc truyền thống chính trị của dân tộc ta là “nước lấy dân làm gốc”, “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh càng thấy rõ vai trò, sức mạnh của nhân dân theo lý thuyết Macxít “cách mạng là sự nghiệp quần chúng” và vận dụng lý thuyết này thành tư tưởng:
“Dễ mười lần không dân cũng chịu
Khó trăm lần dân liệu cũng xong”
Trong tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh coi nhân dân là nhân dân là nhân vật trung tâm, nền tảng cho khối đại đoàn kết, là lực lượng quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Tin dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân là một nguyên tắc cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người khẳng định “trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” và “gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.
Sức mạnh của nhân dân còn thể hiện ở chỗ nhân dân là một trường học lớn của cán bộ cách mạng. Tháng 5 năm 1950, trong lần huấn thị về công tác huấn luyện học tập, Người nói: “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân, không học nhân dân là một thiếu sót rất lớn”.
-Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra những luận điểm về sức mạnh của đoàn kết, như: “đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”, “đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”, “đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta” đoàn kết là điểm mẹ: “ Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”. Đoàn kết làm kẻ thù thất bại: Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó chúng cũng thất bại. “Không có sức mạnh nào bằng sức mạnh đoàn kết toàn dân. Toàn dân đoàn kết cả miền xuôi, miền núi đoàn kết, thì ta nhất định thắng”.
Muốn có sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, Người căn dặn: “phải đoàn kết chặt chẽ”, “đoàn kết rộng rãi”, “đoàn kết thật thà”, phải yêu thương nhau xoá bỏ thành kiến giữa các dân tộc. Các dân tộc anh em chúng ta muốn tiến bộ, muốn phát triển văn hoá của mình thì chúng ta phải tẩy trừ những thành kiến giữa các dân tộc, phải đoàn kết, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em một nhà.
Đại đoàn kết là một nhu cầu, một đòi hỏi khách quan của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Năm 1956, trong Thư gửi đồng bào cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định niềm tin sắt đá, sức mạnh vô địch của đk: “Đại đoàn kết là một lực lượng tất thắng. Nhờ đại đoàn kết mà cách mạng đã thắng lợi, kháng chiến đã thành công. Nay chúng ta đại đoàn kết thì cuộc đấu tranh chính trị của chúng ta nhất định thắng lợi, nước nhà nhất định thống nhất”. Lời tiên đoán của Người đã trở thành hiện thực, đất nước ta đã thống nhất hoàn toàn với chiến thắng lịch sử 30- 4-1975.
Tư tưởng của đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cổ vũ, động viên, tập hợp hàng chục triệu nhân dân ta trong một mặt trận thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳc lịch và tư tưởng ấy đang được phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
V Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân
Câu14: Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ nói chung và về quyên làm chủ của nhân dân nói riêng là kết quả của sự nhận thức sâu sắc vể vai trò của nhân dân trong lịch sử, là kết quả của sự kết hợp giữa tư tưởng thân dân truyền thống ở phương Đông và quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng trong học thuyết Mác- Lênin. Kết hợpgiữa truyền thống và hiện đại, giữa lý luận và thực tiễn – Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng dân chủ lên một tầm cao mới vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nhân văn sâu sắc.
Về quyền làm chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ trên ba phương diện:
Thứ nhất: Nhân dân làm chủ những gì?
Thứ hai: Tại sao nhân dân có quyền làm chủ?
Thứ ba: Làm thế nào để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân?
– quyền làm chủ của nhân dân lao động – Người khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… chính quyền từ xã đến chính phủ Trung ương do dân cử ra… Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người giữ vai trò quyết định trên tất cả các lĩnh vực: Từ kinh tế, chính trị đến văn hoá, xã hội, từ những chuyện nhỏ có liên quan đến lợi ích của mỗi cá nhân đến những chuyện lớn như lựa chọn thể chế, lựa chọn người đứng đầu nhà nước. Người dân có quyền làm chủ bản thân, nghĩa là có quyền được bảo vệ về thân thể, được tự do đi lại, tự do hành nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập… trong khuôn khổ luật pháp cho phép. Người dân có quyền làm chủ tập thể, làm chủ địa phương, làm chủ cơ quan nơi mình sống và làm việc.
Người dân có quyền làm chủ đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội thônh qua bầu cử và bãi miễn. Đúng như Hồ Chí Minh nói: “Mọi quyền hạn đều của dân”. Cán bộ từ Trung ương đến cán bộ ở các cấp các ngành đều là “đầy tớ” của dân, do dân cử ra và do dân bãi miễn.
– Vì sao dân có quyền hạn to lớn như vậy? Người giải thích: dân là gốc của nước. Dân là người đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước do dân xây dựng lên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy, dân là chủ của nước.
Nhân dân đã cung cấp cho Đảng những con người ưu tú nhất. Lực lượng của Đảng có lớn mạnh được hay không là do dân. Nhân dân là người xây dựng, đồng thời cũng là người bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng. Dân như nước, cán bộ như cá. Cá không thể sinh sống nếu không có nước. Nhân dân là lực lượng biến chủ trương, đường lối của Đảng thành hiện thực. Do vậy, nếu không có dân, sự tồn tại của Đảng cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đối với chính phủ và các tổ chức quần chúng cũng vậy. Tóm lại, nhân dân là lực lượng dựng xây đất nước, là lực lượng hợp thành, nuôi dưỡng, bảo vệ các tổ chức chính trị, do vậy nhân dân có quyền làm chủ đất nước, làm chủ chế độ, làm chủ tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
– Làm thế nào để dân thực hiện quyền làm chủ của mình? Đây là vấn đề được Hồ Chí Minh hết sức quan tâm. Theo Hồ Chí Minh, từ xưa đến nay, nhân dân bao giờ cũng là lực lượng chính trong tất cả các xã hội, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng trước cách mạng Tháng Mười Nga, trước học thuyết Mác- Lênin, chưa có cuộc cách mạng nào giải phóng triệt để cho nhân dân, chưa có học thuyết nào đánh giá đúng đắn về nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, người dân chỉ thực sự trở thành người làm chủ khi họ nhận thức được rõ ràng đâu là quyền lợi họ được hưởng, đâu là nghĩa vụ họ phải thực hiện. Để thực hiện điều này, một mặt, bản thân người dân phải có ý chí vươn lên, mặt khác, các tổ chức đoàn thể phải giúp đỡ họ, động viên khuyến kích họ. “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” và nếu nhân dân không được giáo dục để thoát khỏi nạn dốt thì mãi mãi họ không thể thực hiện được vai trò làm chủ.
Người dân chỉ có thể thực hiện được quyền làm chủ khi có một cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của họ. Đảng phải lãnh đạo xây dựng được một Nhà nước của dân, do dân, vì dân; với hệ thống luật pháp, lấy việc bảo vệ quyền lợi của dân làm mục tiêu hàng đầu, xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Câu15: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước bao gồm những luận điểm sau:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước là một hệ thống các luận điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân,do dân, vì dân nhằm tập trung mọi quyền lực vào tay nhân dân, xây dựng một xã hội do nhân dân làm chủ.
Qua khảo sát thực tiễn các mô hình Nhà nước trên thế giới, trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mac-Lênin và đặc điểm xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng Nhà nước với các đặc trưng sau:
Thứ nhất, về tính chất Nhà nước. Đó là Nhà nước do nhân dân xây dựng nên nhằm thực hiện các quyền dân chủ cho nhân dân. Hay nói cách khác, đó là Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, nhân dân là người có quyền lực cao nhất. Nhân dân vừa là người xây dựng Nhà nước, vừa là người kiểm soát Nhà nước.
Hiện nay, Đảng ta đang tiến hành xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân với phương châm lấy dân làm gốc, thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chính là sự tiếp tục thực hiện tư tưởng về xây dựng Nhà nước do dân làm chủ của Hồ Chí Minh.
Thứ hai, về bản chất giai cấp của Nhà nước, Hồ Chí Minh khẳng định: Nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân.
Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thể hiện qua các khía cạnh sau:
Nhà nước ta chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, đội tiên phong của giai cấp công nhân. Đây là một nguyên tắc được Hồ Chí Minh nhấn mạnh. Đảng giữ vai trò cầm quyền. Nhà nước phải tuân thủ theo đường lối do Đảng đề ra. Do vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn khẳng định và bảo đảm quyền lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nhằm giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước.
Nhà nước ta mang tính nhân dân, đại diện cho ý chí của nhân dân, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân nhưng nòng cốt là khối liên minh công, nông và trí thức do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Nhà nước ta tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật.
Nhà nước thực hiện sự thống nhất quyền lực nhưng có sự phân công và phân cấp rõ ràng để tất cả mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
– Thứ ba, nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước, là xây dựng Nhà nước pháp quyền. Đó là Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng hiến pháp và pháp luật. Hồ Chí Minh xem pháp luật như một phương tiện để củng cố Nhà nước, duy trì trật tự xã hội. Giữa pháp luật và Nhà nước phải có mối quan hệ hữu dơ với nhau. Để tạo nên sựu ổn định của Nhà nước, làm cho bộ máy Nhà nước vận hành đúng quỹ đạo, phát huy được hiệu lực quản lý điều hành thì phải xây dựng được hệ thống luật pháp đúng đắn. Pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ, bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Mọi người dân đều có quyền tham gia xây dựng luật và đều công bằng trước pháp luật. Ai cũng có nghĩa vụ tuân thủ luật pháp. Các cơ quan Nhà nước, các cán bộ của Chính phủ phải làm gương trong việc thi hành pháp luật. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng lưu ý, không nên lạm dụng hình phạt. Người từng nói: “Không xử phạt là không đúng”, song “chút gì cũng dùng đến xử phạt là không nên”. Phải kết hợp hài hoà giữa thưởng và phạt, giữa giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế…
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới chứa đựng toàn bộ những tinh hoa của các mô hình Nhà nước đương đại và các giá trị của Nhà nước truyền thống. Nó vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nhân văn sâu sắc.
Câu 16: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân như thế nào?
+ Nhà nước của dân theo quan điểm của Hồ Chí Minh.
Nhà nước của dân là Nhà nước tập trung mọi quyền lực vào tay nhân dân. Điều 1, Hiến pháp năm 1946 do Hồ Chí Minh làm trưởng ban soạn thảo khẳng định: “Tất cả quyền bính trong nước là của đoàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Điều 32 của Hiến pháp 1946 cũng quy định: “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phán quyết”. Dân cũng có quyền bầu cử và ứng cử vào Quốc hội, đồng thời thông qua Quốc hội để bầu ra Chính phủ. Dân cũng có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu đó tỏ ra không xứng đáng.
“Nhà nước của dân là Nhà nước do dân làm chủ. Người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, nghĩa là người dân có quyền tự do sống và làm việc theo khả năng và sở thích của mình trong phạm vi pháp luật cho phép. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực, hình thành được các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của nhân dân. Trong Nhà nước dân chủ, dân là chủ còn cán bộ nhà nước, từ chức Chủ tịch nước trở xuống đề là “công bộc” của nhân dân. Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ không dược ỷ thế lộng quyền: “Cậy thế mình ở trong ban này ban nọ, rồi ngang tàng phóng túng, muốn sao được vậy, còn khinh dư luận, không ngĩ đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân”.
+ Nhà nước do dân. Đó là Nhà nước do dân dựng xây lên. Cán bộ trong các ban, ngành của Chính phủ do dân lựa chọn, bầu ra. Tài chính của Chính phủ do dân đóng góp. Đường lối lãnh đạo, cơ cấu tổ chức của Nhà nước do dân góp ý dựng xây. Các hoạt động của Nhà nước do dân kiểm soát, Hồ Chí Minh thường khẳng định: Tất cả các cơ quan Nhà nước là phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”.
+ Nhà nước vì dân. Đó là Nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân. Ngoài mục đích phục vụ nhân dân, Nhà nước ta không có mục đích nào khác. Sinh thời Hồ Chí Minh từng nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân.
Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo, - là vì mục đích đó.
Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh dược chính quyền, uỷ thác cho tôi gánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng – cũng vì mục đích đó”.
Trong Nhà nước vì dân, cán bộ từ Chủ tịch nước trở xuống đều là “công bộc” của dân. Bác thường căn dặn cán bộ: Tất cả những thứ chúng ta dùng hàng ngày đều do dân cung cấp. Do vậy phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”.
Tóm lại, nnhưng của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh là Nhà nước dân chủ. Trong đó, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra… Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đề ở nơi dân”.
+ Vì sao chúng ta lại xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân? Xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân là tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước, là mục tiêu xuyên suốt cuộc đời hoạt động và lãnh đạo cách mạng của Hồ Chí Minh. Ngay từ năm 1927 – trong cuốn Đường cách mệnh, Người đã chỉ rõ: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”.
+ Làm thế nào để xây dựng được một Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân?
Trước hết, phải giữ vứng bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước. Nhà nước phải đặt dưới lãnh đạo của Đảng - đội tiên phong của giai cấp công nhân. Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định: Chỉ có liên minh với giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, nhân dân lao động mới có thể tự giải phong mình vàxây dựng được một xã hội thực sự bình đẳng và tiến bộ.
Thứ hai, phải bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân trong việc lựa chọn và bầu ra Chính phủ thông qua Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Mọi công dân đều có quyền bầu cử để lựa chọn các đại biểu đại diện cho nguyện vọng và quyền lợi của mình. Mọi công dân đều có cơ hội tham gia vào các công việc của Nhà nước thông qua quyền ứng cử và các cuộc trưng cầu dân ý.
Thứ ba, phải bảo đảm cho dân có quyền kiểm soát chính phủ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Dân có quyền góp ý với Chính phủ, dân có quyền bãi miễn các đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu họ không hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, để thực hiện được điều này, đòi hỏi người dân phải có một trình độ nhất định. Vì vậy, cùng với việc trao quyền cho dân, cần phải có chính sách giáo dục nâng cao nhận thức cho dân.
Thứ tư, phải xây dựng một hệ thống luật pháp chặt chẽ và khoa học dựa trên nguyện vọng và quyền lợi của nhân dân, đông thời làm cho pháp luật có hiệu quả trong thực tế. Sự công bằng và trât tự xã hội chỉ có thể được thiết lập khi nó được bảo đảm bằng một hệ thống luật pháp nghiêm minh. Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”.
Thứ năm, phải xây dựng được đội ngữ cán bộ, từ Trung ương đến địa phương thực sự trong sạch, vững mạnh, đủ đức đủ tài, vừa bảo đảm tốt vải trò người lãnh đạo, quản lý vừa thực sự là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
VII tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Câu 20: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển kinh tế?
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển kinh tế được hình thành từ rất sớm. Tư duy về kinh tế của Người được phản ánh trong Bản án chế độ thực dân viết vào đầu những năm 20 thế kỷ XX. Sau cách mạng Tháng Tám, tư tưởng xây dựng và phát triểnkt hình thành ngày một rõ. Người luôn luôn đặt những vấn đề kinh tế trong mối quan hệ chặt chẽ với những vấn đề chính trị- xã hội. Theo Hồ Chí Minh “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Do vậy, ngay sau khi giành chíng quyền về tay nhân dân, Người đã kêu gọi nhân dân cả nước tích cực tăng gia sản xuất, quyết tâm diệt giặc dốt và chỉ rõ trách nhiệm “Nế dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi”.
+ Nông nghiệp, nông dân chiếm một vị trí quan trọng trong tư tưởng kinh tế của Hồ Chí Minh. Với một nước nông nghiệp, Người đưa ra cơ cấu kinh tế nông- công nghiệp; xem nông nghiệp là mặt trận hàng đầu bảo đảm an nin lương thực để công nghiệp hoá và là hậu phương vững chắc cho sự nghiệp cách mạng.
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nền kinh tế mà chúng ta xây dựng là một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học kĩ thuật tiên tiến. “Trên cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển, cách bóc lột theo chủ nghĩa tư bản được xoá bỏ dần, đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ngày càng được cải thiện”.
+ Nền kinh tế xã hôi chủ nghĩa phải được tạo lập trên cơ sở chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Ơ thơi kỳ quá độ, nên kinh tế đó còn tồn tại bốn hình thức sở hữu chính: “Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân.
Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
Sở hữu của người lao động riêng lẻ.
Một ít tư liêu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”, trong đó “kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu của toàn dân, nó lãnh đạo nền kinh tế quốc dân và Nhà nước phải đảm bảo cho nó phát triển ưu tiên”. Như vậy, Hồ Chí Minh là người sớm đưa ra chủ trương phát triển cơ câu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
+ Người nhấn mạnh: Nhiệm vụ quan trọng thứ nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và khẳng định tính tất yếu phải công nghiệp hoá: “Muốn đảm bảo đời sông sung sướng mãi mãi phải công nghiệp hóa chủ nghĩa xã hội”, “công nghiệp hoá xã hôi chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thực sự của nhân dân ta”. Người nói đến vai trò của công nghiệp nặng: “Để xây dựng thắng lợi xã hôi chủ nghĩa, chúng ta phải quyết tâm phát triển tốt công nghiệp nặng”.
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng đến công tác nghiên cứu và phổ biến khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất. Người chỉ rõ: “Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải thiện đời sông nhân dân… nhiệm vụ của khoa học, kỹ thuật là cực kỳ quan trọng, cho nên mọi ngành, mọi người đều phải tham gia công tác khoa học kỹ thuật”.
+ Coi vấn đề quản lý, hạch toán kinh tế, cho đó là chìa khoá phát triển kinh tế quốc dân, Người nói: “Quản lý một nước cũng như quản lý một doanh nghiệp: phải có lãi”, “ở xí nghiệp phải quản lý, mới biết ai làm tốt, ai làm vượt mức, ai không làm vượt mức”.
+ Hồ Chí Minh đề xuất chính sách mở cửa và hợp tác với các nước để thu hút ngoại lực và phát huy nội lực.
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã bước đầu đề cập đến vấn đề khoán trong sản xuất. Người nói: “Chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội, nó khuyến kíchngười công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khoán là ích chung và công bằng dưới chế độ ta hiện nay”.
Câu 21: Tư tưỏng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển văn hoá bao gồm những nội dung chủ yếu nào?
Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa về văn hoá với nghĩa rộng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài ngưòi mới sáng tạo và phát minh ra những ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Định nghĩa này đã chỉ ra nguồn gốc, động lực và cấu trúc văn hoá. Cũng từ định nghĩa này văn hoá được xác định là lĩnh vực của đời sống tinh thần, thuộc về kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, văn hoá có những nhiệm vụ chủ yếu như sau:
# Thứ nhất, bồi dưỡng con người có tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp.
# Thứ hai, nâng cao dân trí, nghĩa là đề cập tới chức năng giáo dục của văn hoá. Người chủ trương nâng cao dân trí, trước hết là toàn dân ta phải quyết tâm diệt bằng được “giặc dốt”, xoá nạn mù chữ nâng cao dần trình độ, “học để làm việc, làm người, làm cán bộ”, biến nước ta thành một nước văn hoá cao. Học phải đi đôi với hành, gắn với thực tiễn. Học ở mọi nơi mọi lúc; phải không ngừng nâng cao kiến thức chính trị, chuyên môn, tu dưỡng về chủ nghĩa Mac-Lênin từ đó vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh nước ta.
# Thứ ba, bồi sưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh, luôn hướng con người vươn tới chân, thiện, mỹ để không ngừng hoàn thiện bản thân.
+ Hồ Chí Minh xác định rõ văn hoá là động lực, là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng.
+ Tư tưởng văn hoá là một mặt trận, nghệ sĩ là người chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng, thể hiện một tư duy rất độc đáo, phản ánh cuộc đấu tranh phức tạp trên lĩnh vực tư tưởng- văn hoá, đòi hỏi sự bền bỉ, kiên cường và lòng dũng cảm của người hoạt động văn hoá phục vụ lý tưởng cách mạng, mục tiêu chính trị của Đảng và của dân tộc. Hồ Chí Minh có câu nói bất hủ:
“Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận
Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”.
+ Văn hoá phải phục vụ quần chúng nông dân, đó là quan điểm xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá. Người nhắc nhở các nhà văn hóa nhận thức đúng về vai trò của quần chúng, quần chúng là những người không phải chỉ sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội mà còn là những người sáng tác nữa; phải có cách viết phù hợp với trình độ đại đa số đồng bào, phải học cách nói của quần chúng. Khi cầm bút viết phải tự đặt ra: Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết như thế nào? Người kết luận “nghệ thuật phải gắn với cuộc sống”.
Sau khi giành chính quyền về tay nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một nền văn hoá mới Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng. Khi tiến hành cuộc cách mạng xã hôi chủ nghĩa, Người chỉ đạo xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có nội dung xã hôi chủ nghĩa và tính chất dân tộc. Người khẳng định “Con đường đúng đắn duy nhất là xây dựng một nền văn hoá nghệ thuật xã hôi chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức.”
+Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú y đến xây dựng đời sống văn hoá và nếp sống văn hoá. Tháng 4 năm 1946, Người ký Sắc lệnh thành lập Uỷ ban Trung ương vận động đời sống mới. Tháng 3 năm 1947, Người đă viết cuốn sách Đời sống mới, với bút danh Tân Sinh, nội dung cuốn sách nói về việc ăn, ở, mặc, đi lại, làm việc đối với cá nhân, gia đình, làng xóm.
“Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới”.
Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ. Thí dụ: Ta phải bỏ hết tính lười biếng, tham lam.
Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Thí dụ: Đơm cúng, cưới hỏi quá xa xỉ, ta phải giảm bớt đi.
Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm. Thí dụ: Ta phải tưong thân tương ái, tận trung với nước, tận hiếu với dân hơn khi trước.
Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm. Thí dụ: Ăn ở cho hợp vệ sinh, làm việc cho có ngăn nắp”.
Câu 22: Tư tưởng Hồ Chí Minh về không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ?
Với quan niệm văn hoá theo nghĩa rộng, Hồ Chí Minh chỉ rõ “trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá”. Hồ Chí Minh chủ ra mối quan hệ vật thiết giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, nghĩa là mối quan hệ giữa kinh tế và văn hoá và Người khẳng định kinh tế phải đi trước. Người viết: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hoá. Vì sao không nói phát triển văn hoá và kinh tế? Tục ngữ có câu: Có thực mới vực được đạo: vì thế kinh tế phải đi trước… Phát triển dân tộc và văn hoá để nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ta”. Theo Hồ Chí Minh, dưới chế độ thực dân và phong kiến, chính trị bị đàn áp, nhân dân ta bị nô lệ thì đời sống tinh thần của dân ta cũng bị nô lệ, bị áp bức cho nên không thể phát triển lành mạnh được.
Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, theo Hồ Chí Minh: “Nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của chúng ta hiện nay là phát triển sản xuất, đẻ nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân”.
Tháng 9 năm 1945, khi chính quyền dân chủ nhân dân non trẻ được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiệu triệu đồng bào cả nước ra sức: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Diệt giặc đói được đặt lên vị trí hàng đầu và Người cũng khẳng định, nước tự do độc lập mà để dân chết đói, chết rét thì nền tự do độc lập ấy chẳng có ý nghĩa gì. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đến đời sống vật chất của nhân dân và chỉ thị: “Chúng ta phải thực hiện ngay:
Làm cho dân có ăn.
Làm cho dân có mặc.
Làm cho dân có chỗ ở.
Làm cho dân được học hành”
Trong bốn vấn đề phải làm ngay thì ba vấn đề liên quan đến đời sống vật chất thiết thực của dân.
Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến lợi ích cá nhân, nhưng trên cơ sở giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Người viết: “Phải chú ý giải quyết các vấn đề dầu khó đến đau mặc lòng, những vấn đề quan hệ tới đời sống của dân”. Người thấy rõ động lực quan trọng của lợi ích cá nhân: “Kinh nghiệm của Đảng ta trong quá trình cách mạng đã chỉ rõ là nơi nào, lúc nào cán bộ ta giải quyết tốt lợi ích thiết thân của nông dân… thì nơi đó, lúc đó cách mạng đều tiến lên”.
Theo Hồ Chí Minh nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nghĩa là phải nâng cao ý thức giác ngộ cách mạng, độc lập dân tộc, kiên trì phấn đấu cho ý tưởng xã hôi chủ nghĩa, phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết dân tộc, ý thức tự lực tự cường “không có gì quý hơn độc lập tự do” của nhân dân.
Phải thực hiện công bằng xã hội. Người nhắc nhở chúng ta: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng, không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”. Công bằng không có nghĩa là cào bằng, bình quân chủ nghĩa, làm triệt tiêu mất động lực kinh tế- xã hội.
Phải phát triển dân trí, coi giáo duc là quốc sách. Người đòi hỏi “Đảng và Nhà nước phải nắm vững khoa học- kĩ thuật, mỗi đảng viên đều phải cố gắng học tập văn hoá, học tập khoa học và kỹ thuật” , “cán bộ phải có văn hoá làm gốc… nông dân phải biết văn hoá”.
VIII Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính chí công vô tư.
Câu 23: tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức bao gồm những nội dung chủ yếu nào?
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh là người nêu một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói, đạo đức là vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng.
+ Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, coi đó là cái gốc cùa cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết: “ Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc: “Công việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà không có đứclà người vô dụng nhưng có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
+ Theo Hồ Chí Minh, những chuẩn vực chung nhất của nền đạo đức cách mạng Việt Nam gồm những điểm sau:
Một là, trung với nước hiếu với dân.
Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác.
Từ khái niệm cũ “trung với vua, hiếu với cha mẹ” trong đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu với dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.
“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị- đạo đức cho mỗi con người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau.
Hai là, yêu thương con người.
Quan niệmcủa Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là môt trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột. Người viết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt họ ở miền xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già, trai hay gái… không phân biệt một ai, không trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người.
Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những ngưòi có sai lầm khuyết điểm. Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn chúng ta: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi người nảy nở như hoa mùa xuân và phấn xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, trừ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời”.
Trong di chúc, Người căn dặn Đảng: “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”, nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con người.
Ba là, cần, kiệm, liêm, chính chí công vô tư
Theo Hồ Chí Minh thì:
Cần tức là lao động cần cù, siêng năng: lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lưòi biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”.
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”, không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân”; “không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”. Phải “trong sạch, không tham lam”, “Không tham gia địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá”.
Chính, “nghiã là không tà, thẳng thắn, đứng đắn”. Đối với mình: không từ cao, tự đại luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn từ kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
Chí công vô tư, Người nói: “Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc”. “Khi làm bất cử việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”; phải “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề “Bốn phương vô sản để là anh em”; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc; là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội vì những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hưu nghị với tất cả các nước, các dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắnliền với chủ nghĩa yêu nước, nưn nữa phải là chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản để định hướng sự lãnh đạo của Đảng và việc rèn luyện của mỗi người.
- Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Cán bộ, đảng viên phải đầu tầu gương mẫu “miệng nói tay làm”, phải nêu tấm gương đạo đức cách mạng trước quần chúng; cán bộ, đảng viên đi trước, làng nước đi sau. Sống theo phương châm “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Cổ vũ “người tốt, việc tốt”, các điển hình tiêu biểu.
- Xây phải đi đôi với chống.
Xây dựng nền đạo đức cách mạng, giáo dục chuẩn mực đạo đức mới, khơi dậy ý thức tự giác, đạo đức lành mạnh ở mọi người, hướng mọi người vào cuộc đấu tranh cho sự trong sạch, lành mạnh về đạo đức. Nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân- nguồn gốc của mọi thứ tệ nạn, thứ giặc “nội xâm” phá từ trong ra.
- Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Người cũng khẳng định đạo đức không phải là thứ có sẵn trong mỗi người mà đạo đức là do con người tiếp thu được qua giáo dục và tạo thành nhờ bản thân tích cực tu dưỡng, bền bỉ rèn luyện trong môi trường sống và trong cuộc đấu tranh cách mạng. Người đưa ra lời khuyên rất dễ hiểu: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hắng ngày mà phát triển củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Câu 24: Tư tưởng Hồ Chí Minh và sự nghiệp đổi mới hiện nay?
Nâng cao đạo đức trong tình hình mới, đỏi hỏi Đảng va nhân dân ta quán triệt tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, ra sức bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức, vận dụng các nguyên tắc xây dựng đạo đức mà Người đã nêu ra.
Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã xác định xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức luôn luôn gắn với kinh tế. Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời hy sinh cho cách mạng để giành lấy độc lập và tự do là nhằm xoá bỏ áp bức, bóc lột, phát triển kinh tế đem lại đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, cho mỗi con người. Hồ Chí Minh luôn luôn chủ trương tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển mọi mặt của xã hội; phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá, đạo đức, con người. Tinh thần nay đã được thể hiện trong câu nói bất hủ của Hồ Chí Minh “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hôi chủ nghĩa”.
Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước tiwps tục cổ động phonh trào thi đua yêu nước trong thời kỳ đổi mới, biểu dương các tập thể, cá nhân xuất sắc, dấy lên phong trào “người tốt việc tốt”, nêu gương sáng đạo đức cách mạng để mọi người tôn vinh và noi theo.
Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng, bên cạnh việc xây dựng những phẩm chất đạo đức: Trung với nước hiếu với dân, thương người, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, tinh thần quốc tế trong sáng nêu trong di sản của Người, chúng ta còn phải đấu tranh quyết liệt chống các tệ nạn xã hội nảy sinh trong nền kinh tế thị trường đang làm phương hại đến nền đạo đức cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã sớm nhận ra sự nguy hiểm của bệnh “cá nhân”, đó là nguyên nhân đẻ ra các tệ nạn tiêu cực ảnh hưởng nghiêm trọng đến chế độ.
Ngay từ năm 1952, Người đã nêu rõ những tệ nạn cần phải chống gồm ba loại chính là tham ô, lãng phí, quan liêu. Người coi những tệ nạn đó là tội ác, là kẻ thù khá nguy hiểm của nhân dân, là bạn đồng minh của thực dân, phong kiến, là thứ “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, phá từ trong phá ra. Người đã chỉ rõ tội lỗi của những kẻ tham ô, lãng phí, quan liêu cũng nặng như tội lỗi “Việt gian, mật thám”. Người cho rằng: “Việc tranh đấu với kẻ địch ở tiền tuyến bằng súng, bằng gươm còn dễ, nhưng việc đấu tranh đấu với kẻ địch trong người, trong nội bộ, trong tinh thần, là một khó khăn, đau xót”.
Cuộc sống đang đòi hỏi phải trong sạch Đảng và làm lành mạnh đời sống đạo đức của xã hội. Hai mặt đó phải tiến hành song song. Phả khắc phục các nguyên nhân đã để cho các tệ nạn tiêu cực; càng phải khắc phục nguyên nhân đã để cho các tệ nạn tiêu cực phát triển. Trong cuộc đấu tranh này, phải lấy việc xây dựng Đảng làm nhiệm vụ then chốt, như đã được nêu ra trong nhiều nghị quyết của Đảng. Chúng ta càng thâm thía lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm niêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vẫn còn giữ nguyên tính thời sự, soi sáng cho Đảng và nhân dân ta hoàn thành sự nghiệp vẻ vang, xây dựng nền đạo đức Việt Nam ngang tầm với những yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.
Câu3: ý nghĩa của việc học tập và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh ?
Việc học tập và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất to lớn, bởi vì:
+ Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mac-Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành trên nền tảng thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mac-Lênin. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mac-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, phù hợp với lịch sử và văn hoá Việt Nam; xuất phát từ đất nước và con người Việt Nam nhằm giải đáp những yêu cầu lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, phải nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mac-Lênin đồng thời phải đẩy mạnh nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Thứ hai, cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã vững bước tiến lên giành được những thắng lợi lịch sử có ý nghĩa thời đại. Trong quá trình đổi mới, mở cửa, hội nhập, hợp tác liên quốc gia, khu vực, các thế lực thù địch cũng lợi dụng để ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình” nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Làm thế nào để không chệch hướng, làm thế nào để bảo vệ được độc lập, chủ quyền dân tộc? Chỉ có nắm vững cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thì chúng ta mới đổi mới, hội nhập vững vàng, tự tin và chủ động.
+ Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh là mẫu mực của tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo. Hồ Chí Minh là con người của độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo. Người luôn luôn xuất phát từ thực tiễn, hết sức tránh lặp lại những lối cũ, đường mòn, không ngừng đổi mới, tìm ra câu trả lời mới cho thực tiễn không ngừng biến đổi. Đó là nét đặc sắc nhất của tinh thần và phong cách Hồ Chí Minh.
Ngày nay, thế giới đang diễn biến theo xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá. Để tốt những vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn đổi mới thì phải nắm cái tinh thần khoa học và cách mạng, tính biện chứng của chủ nghĩa Mac-Lênin, tính độc lập, tự chủ, đổi mới và không ngừng sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, biết gắn lý luận với thực tiễn, lời nói và việc làm, thực sự cải biến hiện thực đất nước.
Tóm lại, nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh là để thấm nhuầm sâu sắc hệ thống quan điểm, phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh để kiên định mục tiêu, lý tưởng, nâng cao lòng yêu nước, tinh thần phục vụ nhân dân, nâng cao đạo đức cách mạng, giương cao ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đến thắng lợi.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- De cuong tu tuong HCM.Doc