Những hạn chế của vua Càn Long trong thời kì cầm quyền (1735 – 1796)

Tài liệu Những hạn chế của vua Càn Long trong thời kì cầm quyền (1735 – 1796): TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 64 (4/2019) No. 64 (4/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 113 NHỮNG HẠN CHẾ CỦA VUA CÀN LONG TRONG THỜI KÌ CẦM QUYỀN (1735 – 1796) Limitations of the Qianlong Emperor during his reign (1735 – 1796) Nguyễn Thị Thơm Trường THPT chuyên Phan Bội Châu, Nghệ An Tóm tắt Càn Long là vị vua thứ 4 của nhà Thanh - triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Trong suốt hơn 60 năm trị vì, bên cạnh những công lao, Càn Long cũng phạm phải không ít những sai lầm, chính sách cai trị đất nước vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế: khống chế về văn hóa tư tưởng, phát động chiến tranh xâm lược phi nghĩa, tiến hành những chuyến tuần du tốn kém, thực hiện chính sách đóng cửa trong quan hệ với phương Tây và dung túng cho tên gian thần Hòa Thân. Những hạn chế trong chính sách cai trị đã để lại những hậu quả nặng nề...

pdf8 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 469 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những hạn chế của vua Càn Long trong thời kì cầm quyền (1735 – 1796), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 64 (4/2019) No. 64 (4/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 113 NHỮNG HẠN CHẾ CỦA VUA CÀN LONG TRONG THỜI KÌ CẦM QUYỀN (1735 – 1796) Limitations of the Qianlong Emperor during his reign (1735 – 1796) Nguyễn Thị Thơm Trường THPT chuyên Phan Bội Châu, Nghệ An Tóm tắt Càn Long là vị vua thứ 4 của nhà Thanh - triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Trong suốt hơn 60 năm trị vì, bên cạnh những công lao, Càn Long cũng phạm phải không ít những sai lầm, chính sách cai trị đất nước vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế: khống chế về văn hóa tư tưởng, phát động chiến tranh xâm lược phi nghĩa, tiến hành những chuyến tuần du tốn kém, thực hiện chính sách đóng cửa trong quan hệ với phương Tây và dung túng cho tên gian thần Hòa Thân. Những hạn chế trong chính sách cai trị đã để lại những hậu quả nặng nề cho lịch sử Trung Quốc. Đặc biệt, trong giai đoạn từ giữa thời kì Càn Long trở về sau, chế độ phong kiến Mãn Thanh ngày càng bộc lộ rõ sự khủng hoảng, thối nát và lạc hậu. Từ khóa: Càn Long, Quang Trung, Triều Thanh Abstract Qianlong is the fourth Emperor of the Qing Dynasty - the last feudal dynasty in Chinese history. During more than 60 years of reign, apart from the merits, Qianlong also committed many mistakes, policies to govern the country still had many limitations: restraining cultural ideology, mobilizing unjust invasion war, taking expensive cruises, implementing closure policy in relationship with the West, and tolerating the dishonest mandarin called Hešen. Restrictions in governing policy have left serious consequences for Chinese history. Esspecially, during the period from the middle of the Qianlong reign, the feudal Manchu regime was increasingly opposed to the crisis, corruption and backwardness. Keywords: Qianlong, Quang Trung, Qing Dynasty 1. Đặt vấn đề Trong lịch sử tồn tại của nhà Thanh, thời kì cầm quyền của ba vị vua Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, được xem là thời kì “Thịnh Thế”. Trong hơn 100 năm “Thịnh thế” đó, thời gian cai trị của Vua Càn Long đã chiếm 60 năm (1735 – 1796), đó là quãng thời gian được xem là thịnh trị nhất của Trung Quốc. Trong thời gian trị vì của mình, Càn Long đã thi hành nhiều chính sách tiến bộ, tạo ra bước phát triển nhất định về kinh tế - xã hội ở Trung Quốc. Về chính trị, Càn Long có công trong việc củng cố, phát triển sự thống nhất Trung Quốc với việc hoàn thành cải cách thể chế hành chính đối với vùng Tân Cương, Tây Tạng, tăng cường sự quản lí đối với các vùng này, tạo ra sự ổn định Email: thom20695@gmail.com SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019) 114 trong nội bộ Trung Quốc. Về kinh tế, Càn Long đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp. Mặt khác, ông cũng quan tâm đến phát triển thương mại. Về văn hóa, Càn Long đã có công trong việc tổ chức biên soạn bộ Tứ khố toàn thư – bộ sách lớn nhất trong triều đại nhà Thanh, cũng như trong lịch sử Trung Quốc. Bộ Tứ khố toàn thư trở thành điểm hội tụ của di sản văn hóa tư tưởng từ cổ đại đến cận đại Trung Quốc, làm cho rất nhiều sách cổ có giá trị được bảo tồn và lưu truyền. Về chế độ thi cử, tuyển chọn quan lại, Càn Long đặc biệt coi trọng việc tuyển chọn nhân tài qua thi cử. Để kiểm tra chất lượng quan lại trong triều, Càn Long quy định định kỳ ba năm tiến hành sát hạch quan lại một lần. Trong những năm đầu cầm quyền, ông đã cố gắng tìm cách hạn chế tình trạng quan lại tham ô, hối lộ. Bởi vậy, trong khoảng nửa đầu thời gian trị vì của Càn Long, nạn tham quan ô lại giảm đi đáng kể. Nhìn chung, khoảng 30 năm đầu, tình hình chính trị - xã hội Trung Quốc dần ổn định, kinh tế Trung Quốc khá phát triển. Những chính sách tiến bộ của Vua Càn Long đã đem lại sự chuyển biến rất lớn đối với tình hình chính trị, kinh tế - xã hội Trung Quốc: “Trong mười năm khi Hoằng Lịch lên ngôi vua, tình hình kinh tế, xã hội của Trung Quốc được phát triển khá ổn định, kho lẫm của triều đình đều đầy ắp, sự thịnh vượng còn hơn cả hai triều Hán, Đường và đã tiến đến đỉnh cao của thời thịnh thế Khang Càn” (Lưu Huy, 1999, tr. 864). Càn Long đã có công lao to lớn trong việc củng cố và phát triển đất nước, đưa nhà Thanh bước đỉnh cao của thời kì “thịnh thế”. Tuy nhiên, thời kì phát triển ổn định của triều đại Càn Long chỉ tồn tại vào khoảng nửa thời gian đầu. Giai đoạn nửa sau của thời kì Càn Long, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của nhà Thanh càng bộc lộ rõ sự khủng hoảng. Nguyên nhân chủ quan quyết định xuất phát từ những chính sách cai trị và thái độ của Càn Long. Càn Long đã thi hành một số chính sách sai lầm khiến cho tình hình nhà Thanh trở nên khủng hoảng, suy yếu. Đó chính là những hạn chế của Càn Long trong thời gian cầm quyền. 2. Nội dung 2.1. Thực hiện chính sách khống chế về văn hóa, tư tưởng Nhà Thanh là một vương triều ngoại tộc thống trị ở Trung Quốc gần ba thế kỉ (1644- 1911). Vì vậy, các ông vua nhà Thanh luôn cảnh giác, lo sợ người Hán đứng lên lật đổ triều đại của mình. Cũng như các ông vua khác, Càn Long luôn ý thức bảo vệ vương triều. Chính vì vậy, Càn Long đã thi hành chính sách áp bức văn hóa để bảo vệ, củng cố sự thống trị của triều đại. Chính sách áp bức văn hóa xuất phát từ việc lo sợ trí thức người Hán lợi dụng văn thơ để tuyên truyền những tư tưởng bài Mãn phục Hán. Chính vì lo sợ các tư tưởng, thế lực chống Thanh nổi dậy nên Càn Long đã thi hành chính sách áp bức văn hóa gay gắt, để lại những hậu quả nghiêm trọng đối với nền văn học, văn minh Trung Quốc. Việc làm này của Càn Long là hành động giam hãm tư tưởng, kiềm chế ngôn luận trong khắp cả nước. Nó khiến cho tình hình Trung Quốc ngột ngạt về mặt chính trị lẫn về mặt học thuật. Để củng cố nhà nước quân chủ chuyên chế, bóp chết mọi sự chống đối từ trong trứng nước, Càn Long đã tiến hành khống chế về văn hóa, tư tưởng cao độ. Hai biện pháp chủ yếu được Càn Long thực thi là NGUYỄN THỊ THƠM TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 115 mở rộng ngục văn tự và đốt sách, cấm sách khi biên soạn bộ Tứ khố toàn thư. Ngục văn tự hay nói cách khác là những vụ án văn học, dựa vào tác phẩm bằng chữ viết mà định tội tác giả. Đó là một cách thức của các vị hoàng đế Trung Hoa thường sử dụng để đàn áp những phần tử chống đối. Dưới thời nhà Thanh, ngục văn tự được xây dựng, mở rộng trở thành một biện pháp trấn áp tàn bạo nhằm khống chế một cách chặt chẽ hoạt động văn chương của những phần tử trí thức. Các trước tác của họ bị soi xét, bới lông tìm vết để tìm cách buộc tội tác giả, trấn áp một cách thẳng tay với các mức hình phạt tàn khốc như: tử hình, tru di tam tộc/cửu tộc.v.v. Triều đình không chỉ trừng trị những người biên soạn sách, mà cả những người xuất bản, công nhân xếp chữ cũng chịu tội liên đới. Trong thời kỳ Càn Long, ước tính đã xảy ra “khoảng một trăm ba mươi vụ án văn học” (Lưu Huy, 1999, tr. 915), chiếm tỷ lệ cao nhất trong các vua nhà Thanh. Trong 8 tập “Hồ sơ ngục văn tự đời Thanh” ghi chép 65 vụ án ngục văn tự nổi tiếng thì đã có 64 vụ án xảy ra dưới triều Càn Long. Chẳng những số lượng ngục văn tự đời Càn Long nhiều hơn các đời vua trước mà về mức độ hoang đường vô lý của nó so với các triều đại trước cũng khó mà so sánh được (Cát Kiếm Hùng, 2005, tr. 409). Thực chất, các vụ án văn học có nội dung tư tưởng chống đối nhà Thanh rất ít, hầu hết là những vụ án mang tính chất “bới lông tìm vết”, dựa vào lời văn mà suy luận rồi kết tội vu vơ, nên xảy ra không ít vụ án oan. Trong số hàng loạt vụ án văn chương này, điển hình là vụ án của Hồ Trung Tảo; “Nhất trụ lâu thi tập” của Từ Thuật Quỳ; “Hắc mẫu đơn thi” của Thẩm Đức Tiềm; “Ức Minh thi tập” của Cát Tường Linh; vụ án quyển tự điển “Tự quán” của Vương Tích Hầu.v.v. Ngục văn tự phát triển mạnh mẽ vào giai đoạn giữa thời kì trị vì của Càn Long với những án văn chương vô lý, bất công được xem là “Một thứ quái vật của chế độ chuyên chế phong kiến ở Trung Quốc, là hậu quả xấu xa của chính sách đàn áp dân tộc và chuyên chế văn hóa tàn bạo của vương triều Thanh đẻ ra. Đồng thời đây cũng là một trang sử đen tối và tanh máu của lịch sử Trung Quốc” (Cát Kiếm Hùng, 2005, tr. 410). Ngục văn tự được mở rộng đồng nghĩa với việc tự do sáng tác văn học dưới triều Càn Long ngày càng bị thu hẹp. Vì lo sợ án văn chương vạ vào thân nên bộ phận lớn trí thức không còn mặn mà với công việc sáng tác. Điều này làm cho nền văn học dưới triều Thanh trở nên im ắng, kém phát triển. Trong khi ngục văn tự đang được mở rộng, thì Càn Long lại chủ trương tập hợp các sách vở đã có trong lịch sử Trung Quốc để biên soạn bộ Tứ khố toàn thư. Khi biên soạn bộ sách đồ sộ này, Càn Long xuống chiếu tra xét sách cấm trong cả nước: “Hễ gặp những cuốn sách có từ ngữ phạm thượng cần phải trình tấu phân minh hoặc niêm phong dâng lên, tiêu hủy theo lệnh, hoặc tự thiêu hủy, thư mục trình lên sau” (Diệp Hách Na Lạp, 2000, tr. 135). Càn Long cho rà soát lại các sách từ cổ đến kim, những cuốn nào bị coi có nội dung “phản nghịch” đều bị tịch thu, thiêu hủy. Do đó, một lượng lớn sách cổ quý giá đã bị tiêu hủy. Nhà vua còn cho tiến hành trưng thu sách vở trên toàn quốc, sau đó điều tra sách cấm, rồi tiêu hủy. Trọng điểm phải giao nộp là các loại sách thơ văn viết về lịch sử cuối đời Minh, đầu đời Thanh. Nhà Thanh dùng đủ mọi cách để điều tra thu SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019) 116 gom sách cấm: dán bố cáo yêu cầu nộp sách cấm; phái người đi sâu vào nhân dân để tìm hiểu tường tận; thậm chí có nơi giao chỉ tiêu cho các quan lại truy tìm số lượng sách cấm, lấy đó làm căn cứ để được thăng hay giáng chức. Ban đầu, Càn Long chỉ chú trọng đến sách, nhưng về sau còn tịch thu, tiêu hủy cả những bản gỗ khắc in sách. Phương thức xử lý sách cấm có hai loại: một loại tiêu hủy toàn bộ (chiếm khoảng 3/5 số sách bị tiêu hủy), một loại là tiêu hủy từng phần. Tiêu hủy toàn bộ hay tiêu hủy từng phần đều gọi là cấm hủy, nó tùy thuộc vào mức độ “phản loạn” của từng cuốn sách. Cả hai phương thức ấy đều phải tấu lên xin nhà vua phê chuẩn. Các cuộc khám xét, tiêu hủy với số lượng lớn sách vở có quy mô toàn quốc kéo dài gần hai mươi năm. Thống kê cho thấy, sách bị tiêu hủy toàn bộ gồm 2.453 loại, sách bị tiêu hủy từng phần gồm 402 loại, số bản khắc để in sách bị tiêu hủy gồm 50 loại, số bản đá được khắc để in sách gồm 24 loại. Tuy nhiên, đó không phải là tổng số sách bị tiêu hủy bởi con số này lớn hơn nhiều: “Tổng số sách bị tiêu hủy ít nhất là khoảng mười vạn bộ (kể cả những quyển sách sao chép lại), riêng số lượng từng tập là bao nhiêu thì không sao tính xuể. Con số đó phải nhiều hơn gấp mười lần con số sách vở được giữ lại trong Tứ khố toàn thư” (Cát Kiếm Hùng, 2005, tr. 413). Ngoài những sách vở, bản khắc bị tiêu hủy, Càn Long còn tiến hành sửa đổi nội dung đối với một số sách lịch sử, chủ yếu là các sách vở được sáng tác cuối đời Minh, đầu thời Thanh. Như vậy, trong quá trình biên soạn bộ Tứ khố toàn thư, một số lượng lớn sách vở, bản khắc đã bị tiêu hủy, điều này gây tổn thất nghiêm trọng đến nền văn hóa Trung Quốc. Với việc biên soạn Tứ khố toàn thư, mục đích của Vua Càn Long đã được thực hiện. Bởi lẽ việc biên soạn bộ Tứ khố toàn thư không chỉ nhằm vào việc “sùng nho trọng đạo” theo như lời Càn Long nói mà còn nhằm thiêu hủy những sách mà nhà vua cho rằng mang tư tưởng chống lại vương triều Thanh. Nhưng dù là mục đích nào đi chăng nữa, có thể thấy mọi hành động của Càn Long đều xuất phát từ nhu cầu chuyên chế về mặt văn hóa. Có thể thấy “Hoàng đế Càn Long từ chỗ mở ngục văn tự tiến lên cấm sách, đốt sách, rồi lại từ chỗ đốt sách tiến lên khám xét, thu gom sách cấm và lại mở ngục văn tự. Quá trình đó trước sau đã kéo dài gần hai mươi năm. So với việc đốt sách chôn sống nho sinh của Tần Thủy Hoàng, trên thực tế chỉ có hơn chứ không hề thua kém” (Cát Kiếm Hùng, 2005, tr. 413). Những chính sách khủng bố về mặt văn hóa của Càn Long phản ánh một cách đầy đủ sự tàn bạo và hủ bại của giai cấp phong kiến thống trị. Ngục văn tự và việc cấm sách, tiêu hủy sách chính là hành động kìm kẹp tư tưởng văn hóa của nhân dân. Đây là những biện pháp mà vua Càn Long thực hiện để thể hiện sự chuyên chế về mặt văn hóa nhằm bảo vệ sự thống trị cho dòng họ. Đường lối cai trị về văn hóa của Càn Long đã dẫn đến hậu quả xấu đối với Trung Quốc. Nó làm cho đời sống chính trị - xã hội trở nên nặng nề, khiến nhân dân trở nên thờ ơ, lạnh nhạt với tình hình đất nước và đã kìm hãm sự phát triển của văn hóa Trung Quốc. 2.2. Tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa Trong thời gian trị vì, Càn Long đã NGUYỄN THỊ THƠM TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 117 tiến hành 10 chiến dịch quân sự lớn: chiến dịch trấn áp Lưỡng Kim Xuyên lần thứ nhất (1747 - 1749), lần thứ 2 (1771 - 1788); chiến dịch để mở rộng diện tích kiểm soát của nhà Thanh tại Trung Á vào năm 1755 và năm 1757; chiến dịch trấn áp các chiến binh Hồi giáo ở Tân Cương (1757 - 1759); chiến dịch trấn áp quân nổi dậy ở Đài Loan (1786 - 1788) và 4 chiến dịch xâm lược ngoại quốc tại Miến Điện (1765-1769), Việt Nam (1788 - 1789) và Nepal lần thứ nhất (1790), lần thứ 2 (1791 – 1793). Càn Long luôn tự hào về những chiến dịch quân sự và coi đó là “Thập toàn võ công”. Mặc dù trong đó có những chiến dịch bị thất bại thảm hại. Tiêu biểu cho thất bại của quân sự nhà Thanh dưới thời trị vì của Càn Long là sự thất bại trong hai cuộc chiến tranh xâm lược Miến Điện (1765 - 1769) và Đại Việt (1788 - 1789). Trước sự lớn mạnh của Miến Điện cùng với việc nước này đi xâm lược Xiêm La, năm 1776, lấy cớ Miến Điện xâm phạm biên giới, nhà Thanh tiến hành chiến tranh xâm lược. Cuộc chiến kéo dài đến năm 1769 với sự thất bại của nhà Thanh, được đánh dấu bằng việc kí hiệp ước Kaungton. Đối với Đại Việt, năm 1788, nhân việc Lê Chiêu Thống chạy sang cầu cứu quân Thanh giúp đỡ để đánh lại quân Tây Sơn, Càn Long liền sai Tôn Sĩ Nghị tổ chức chiến tranh xâm lược. Nhà Thanh điều động binh mã 4 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Qúy Châu tất cả gồm 29 vạn người chia làm 4 đạo tiến sang tiến đánh chiếm Đại Việt. Quân dân Đại Việt dưới sự lãnh đạo của vua Quang Trung tiến hành kháng chiến, đánh bại hoàn toàn quân xâm lược với chiến thắng vang dội ở trận Ngọc Hồi – Đống Đa vào trưa mồng 5 Tết kỉ Dậu (1789). Ngoài việc nhận lấy sự thất bại trong 2 cuộc chiến, triều đình Càn Long còn chịu hậu quả nặng nề về người và của“đã tiêu hao quân phí lên đến hàng nghìn, hàng vạn lượng bạc, tướng sĩ bị chết, bị thương lên đến mấy vạn người, tạo ra tổn thất nặng nề cho tất cả nhân dân Trung Quốc và cả hai nước Miến Điện, Việt Nam. Ngoại trừ thỏa mãn ước vọng “dương oai ra hải ngoại” của Hoằng Lịch, thỏa mãn tâm lý tự đại của nhà vua, thực không được một tí lợi nào” (Cát Kiếm Hùng, 2005, tr. 884). 2.3. Tiến hành những chuyến tuần du tốn kém Trong thời gian trị vì, bắt chước Khang Hy, Càn Long cũng tiến hành “đi tuần du Nam Bắc tới 25 lần, đặc biệt là có 6 lần đi Nam tuần” (Sương Ngọc, 2001, p. 500). Tuy nhiên các chuyến tuần du của Càn Long không phải đi để thị sát tình hình đất nước, đời sống dân chúng như các vị hoàng đế trước mà chủ yếu là để hưởng lạc, ăn chơi xa xỉ, do đó đã tiêu tốn rất nhiều tiền tiền bạc của quốc khố. Việc chuẩn bị cho mỗi chuyến tuần du của nhà vua mất nhiều công sức, thời gian và tiền bạc: “Mỗi lần vua tuần thú phương nam, trước đó một năm triều đình đã tiến hành chuẩn bị chu đáo, chỉ định quan lại phụ trách công việc trong hành dinh phải đảm nhận việc thăm dò đường đi, tu sửa các hành dinh. Trong cuộc tuần thú Giang Nam có tới trên 2.500 người. Trên đường đi, đường bộ dùng 6.000 con ngựa, xe lớn ước tính 400 chiếc, trưng dụng số phục dịch nhiều không biết bao nhiêu mà kể, đường thủy số thuyền dùng tới trên ngàn chiếc. Từ Bắc Kinh tới Hàng Châu cả đi lẫn về 6.000 dặm, ven đường xây dựng tới 30 hành cung” (Sương Ngọc, 2001, tr. 80-81). SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019) 118 Những cuộc tuần du của Càn Long đã để lại hậu quả nghiêm trọng đối với tình hình kinh tế - xã hội nhà Thanh. Ngoài việc tổn hao tiền của và sức dân, những chuyến tuần du còn khiến cho quan lại các địa phương dần nhiễm thói xấu ăn chơi xa xỉ. Các quan lại và nhà giàu địa phương vì muốn được lòng nhà vua đã tiêu phí số lượng lớn vàng bạc, đua nhau bày đủ những thứ trò xa xỉ, cung ứng cho nhà vua toàn những thứ cao sang nhất. Cùng với những cuộc chiến tranh, các cuộc tuần du của Càn Long đã để lại hậu quả to lớn đối với Trung Quốc, làm cho tình hình tài chính bị thâm hụt nghiêm trọng, đưa đất nước này bước vào thời kỳ suy thoái vào giai đoạn cuối vương triều Càn Long. 2.4. Thực hiện chính sách đóng cửa trong quan hệ với phương Tây Từ đầu thế kỉ XVI, người Bồ Đào Nha bắt đầu xâm nhập vào Trung Quốc và đến thế kỉ XVII, XVIII, sự xâm nhập của các nước phương Tây ngày càng tăng. Theo gót các lái buôn Phương Tây là các giáo sĩ đạo thiên Chúa. Họ sang phương Đông với mục đích ban đầu là truyền đạo. Từ thời nhà Minh các giáo sĩ đã đến Trung Quốc, vua Minh chấp nhận việc truyền đạo của các giáo sĩ. Đến thời nhà Thanh các giáo sĩ ở phương Tây vẫn được ưu ái. Một số giáo sĩ được làm trong triều đình. Lúc này, họ đến Trung Quốc không đơn giản là truyền đạo. Hoạt động của họ đã vượt xa so với khuôn khổ tôn giáo.Vì vậy, các quan lại nhà Thanh đã lên tiếng vạch trần bộ mặt của bọn giáo sĩ. Từ đó hoạt động của các giáo sĩ phương Tây bị quản lí nghiêm ngặt. Hoạt động của giáo sĩ đã dọn đường cho chủ nghĩa thực dân xâm nhập vào Trung Quốc. Sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân phương Tây đe dọa đến độc lập, chủ quyền của Trung Quốc, vì vậy nhà Thanh đã thi hành chính sách đóng cửa đất nước tương đối nghiêm ngặt. Thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng trong quan hệ với các nước phương Tây là đặc điểm nổi bật trong mối quan hệ đối ngoại của nhà Thanh nói chung và Càn Long nói riêng. Càn Long ra lệnh “chỉ cho thương nhân nước ngoài buôn bán ở Quảng Châu. Vua Càn Long còn ra lệnh cho các thương nhân ở Quảng Châu thành lập “Hãng công”. Theo đó các nhà buôn nước ngoài không được tự do buôn bán mà phải thông qua hãng. Người nước ngoài đến buôn bán phải ở “Hãng công” và làm theo sự chỉ đạo của hãng” (Đông A Sáng, 2007, tr. 42). Sự thành lập “Hãng công” làm cho các hoạt động trái phép của người phương Tây bị kìm chế. Chính sách “đóng cửa” đối với các nước phương Tây của nhà Thanh đã để lại những hậu quả to lớn. Thứ nhất, chính sách này đã gây trở ngại nghiêm trọng đến việc học hỏi những tư tưởng văn hóa và khoa học kĩ thuật tiên tiến trên thế giới. Từ thế kỉ XVI trở về trước, văn minh Trung Quốc không kém gì so với các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây. Nhưng bắt đầu từ thế kỉ XVII, XVIII, sau khi phá vỡ bức màn đen tối trung cổ, qua hàng loạt phong trào văn hóa hóa tư tưởng rồi đến phong trào cách mạng, các nước pương Tây đã có những bước phát triển trong mọi lĩnh vực, đưa loài người chuyển sang một nền văn minh mới: văn minh công nghiệp. Trong khi đó chính sách bế quan đã làm cho tuyệt đại đa số người Trung Quốc không hề biết đến những biến đổi đó. Giai cấp thống trị Trung Quốc thì còn tai hại hơn, họ tỏ ra hoàn toàn bàng quan, coi thường do sự tự cao mù quáng. Thứ hai, chính sách “đóng cửa” đã kìm NGUYỄN THỊ THƠM TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 119 hãm sự phát triển của nhân tố tư bản chủ nghĩa trong nền kinh tế Trung Quốc. Dưới thời Minh, mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa đã manh nha xuất hiện: các công trường thủ công, các trung tâm thủ công nghiệp mang tính chuyên môn hóa cộng với quy mô ngày càng lớn. Trong nông nghiệp đã xuất hiện kiểu làm ăn mới theo lối bao mua sản phẩm. Những mầm mống đó chẳng những không được phát triển mà ngày càng bị thui chột đi bởi chính sách bế quan. Tai hại hơn nữa đó là chính sách cấm người Trung Quốc vượt biển ra ngoài làm ăn. Vì chính sách này, nhà Thanh đã không có biện pháp bảo vệ người dân Hoa Kiều, khiến cho người Hoa ở các vùng biển ngoài Trung Quốc liên tục bị chèn ép và bị thảm sát. Cùng với chính sách bế quan là chính sách cấm biển, cấm người dân ra ngoài làm ăn và chính sách bỏ mặc người dân ở vùng biển ngoài Trung Quốc. Những chính sách này không chỉ thiệt thòi cho người dân Hoa Kiều ở vùng biển bên ngoài Trung Quốc mà trước mắt nhà Thanh đã đánh mất một nguồn lực không nhỏ có thể góp phần tăng cường sức mạnh quốc gia. Thứ ba, chính sách “đóng cửa” chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc Trung Quốc bị xâm lược. Việc thực hiện chính sách “bế quan” đã khiến cho tình hình Trung Quốc ngày càng trở nên lạc hậu, kém phát triển. Trong khi đó các nước phương Tây luôn tìm mọi cách phá vỡ chính sách “đóng cửa”, mở toang cánh cửa Trung Quốc. Rốt cuộc, cũng như hầu hết các nước phương Đông khác, Trung Quốc dần dần phải chịu khuất phục, trở thành một nước phong kiến nửa thuộc địa của các nước phương Tây. 2.5. Dung túng cho gian thần Hòa Thân Hòa Thân còn có tên gọi khác là Hòa Khôn, xuất thân trong một đại gia tộc người Mãn. Ông ta sinh năm 1750 (năm Càn Long thứ 15), mất ngày 22/2/1799. Lúc đầu, ông giữ chức Nghi Vệ, rồi Hiệu Uý trong Kim Loan điện ở hoàng cung. Tuy nhiên, về sau nhờ được Càn Long sủng ái, nên trong một thời gian ngắn ông đã nhanh chóng leo lên chức quan cao nhất triều đình là Văn Hoa Điện Đại Học Sĩ, được phong Nhất Đẳng Công thần. Trong suốt 24 năm giữ chức Quân Cơ đại thần, để củng cố địa vị của mình, Hòa Thân tìm đủ mọi cách lôi kéo bè đảng trong triều, thanh trừ những người ở phe đối lập khiến cho các quan lại trong triều ai muốn giữ được địa vị và bổng lộc, ai muốn được tiếp tục thăng quan tiến chức đều phải tìm cách hối lộ nịnh nọt ông ta. Hòa Thân được xem là trường hợp điển hình nhất cho nạn tham quan ô lại của quan lại dưới triều Thanh. Sau khi Càn Long qua đời, Hòa Thân bị Vua Gia Khánh bắt giam Hòa Thân và tịch thu toàn bộ tài sản. Ước tính toàn bộ gia sản của Hòa Thân lên đến tám ức lượng bạc trắng (mỗi ức là một trăm triệu). Lúc bấy giờ, hằng năm triều đình Mãn Thanh thu nhập chỉ có bảy nghìn vạn lượng, còn Hòa Thân trong hai mươi năm làm Nội Các đại thần đã tích lũy được một số tài sản bằng hơn một nửa số thu nhập của triều đình trong suốt hai mươi năm (Lưu Huy, 1999, tr. 933). Có thể nhận thấy, Hòa Thân là một tên tham quan điển hình nhất trong lịch sử tham quan ô lại của nhà Thanh cũng như trong lịch sử của Trung Quốc. Càn Long dung túng cho Hòa Thân là yếu tố tạo điều kiện cho nạn tham nhũng của quan lại phát triển. Đây cũng chính là cội nguồn của tệ nạn tham nhũng phát triển dưới triều Càn Long. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019) 120 3. Kết luận Càn Long rõ ràng là một nhân vật lịch sử nổi tiếng. Tuy nhiên, Càn Long không phải là một vị vua thập toàn, cũng không phải là một người đệ nhất về văn trị và võ công. Khi nhắc đến Càn Long không phải chỉ đơn thuần là những ý kiến ca ngợi như trước đây, mà cần có cái nhìn toàn diện. Trong thời gian trị vì, bên cạnh những thành tựu, Càn Long đã thi hành một số chính sách để lại những hậu quả nghiêm trọng đối với lịch sử Trung Quốc. Đây chính là những hạn chế trong thời gian cầm quyền của Càn Long. Những hạn chế này đã đánh dấu bước chuyển của Trung Quốc thời Thanh từ thịnh trị sang khủng hoảng, suy yếu. Nếu như Càn Long là người góp phần đưa nhà Thanh bước vào thời kì “100 năm thịnh thế” thì cũng chính là người tạo nên những mâu thuẫn, khủng hoảng chính trị - xã hội về sau. TÀI LIỆU THAM KHẢO Cát Kiếm Hùng. (2005). Bước thịnh suy của các triều đại phong kiến. Hà Nội: Nxb Văn hóa thông tin, (1), 409-884. Diệp Hách Na Lạp. Đỗ Hồng (dịch). (2000). Càn Long đại đế tập 4. Hà Nội: Nxb Hội nhà văn, (1), 135. Lưu Huy (chủ biên). (1999). Những mẫu chuyện lịch sử nổi tiếng Trung Quốc - 10 đại hoàng đế Trung Quốc. TP Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ, (1), 864-933. Sương Ngọc. (2001). Càn Long bí ẩn. Hà Nội: Nxb Hội nhà văn, (1), 80-500. Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Huy Qúy. (2012). Lịch sử Trung Quốc. Hà Nội: Nxb Giáo dục, (4). Đông A Sáng (dịch). (2007). Gian thần Trung Hoa Hòa Thân. Hà Nội: Nxb Giáo dục, (2), 42. Hồ Đức Thành. (1948). Sử lược Trung Hoa gần đây (1644-1948). Hà Nội: Nxb Bộ Quốc gia Giáo dục. Đỗ Thị Kim Thùy. (2006). Bước đầu tìm hiểu về tình hình văn hóa Trung Quốc dưới triều Thanh. Hà Nội: Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Sư phạm Hà Nội. Tiêu Lê. Phạm Quang Huy (dịch). (2000). Những ông vua nổi tiếng Trung Quốc tập 3. Đà Nẵng: Nxb Đà Nẵng, (1), 686. Ngày nhận bài: 15/3/2019 Biên tập xong: 15/4/2019 Duyệt đăng: 20/4/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf38_2294_2214943.pdf
Tài liệu liên quan