Tài liệu Những định hướng và thực tiễn dạy học Lịch sử ở Việt Nam: 1
Những định hướng và thực tiễn dạy học
Lịch sử ở Việt Nam
(Bài đăng trên tạp chí nghiên cứu giáo dục quốc tế của Pháp
với tiêu đề: Orientations et réalités de l'enseignement de
l'histore au Vietnam)
Hoàng Thanh Tú
Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội
144 Xuân Thuỷ, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Summary:
Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng sâu rộng, cuộc
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại với nhiều thành tựu đặc biệt là sự ra
đời và phát triển của internet, của phương tiện truyền thông, thế giới dường
như nhỏ lại, các đường biên giới quốc gia mờ đi, sự giao lưu, trao đổi kinh
nghiệm, ý tưởng trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Vì thế, giáo dục nói chung,
giáo dục lịch sử nói riêng của mỗi quốc gia đứng trước những cơ hội và thách
thức mới. Trong hoàn cảnh đó, câu hỏi Dạy học lịch sử vì mục đích gì và tại
sao? được đặt ra là rất cần thiết. Cùng nhìn nhận lại vấn đề này không chỉ
giúp đánh giá về một lời giải đáp chung: học lịch...
10 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 456 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những định hướng và thực tiễn dạy học Lịch sử ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Những định hướng và thực tiễn dạy học
Lịch sử ở Việt Nam
(Bài đăng trên tạp chí nghiên cứu giáo dục quốc tế của Pháp
với tiêu đề: Orientations et réalités de l'enseignement de
l'histore au Vietnam)
Hoàng Thanh Tú
Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội
144 Xuân Thuỷ, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Summary:
Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng sâu rộng, cuộc
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại với nhiều thành tựu đặc biệt là sự ra
đời và phát triển của internet, của phương tiện truyền thông, thế giới dường
như nhỏ lại, các đường biên giới quốc gia mờ đi, sự giao lưu, trao đổi kinh
nghiệm, ý tưởng trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Vì thế, giáo dục nói chung,
giáo dục lịch sử nói riêng của mỗi quốc gia đứng trước những cơ hội và thách
thức mới. Trong hoàn cảnh đó, câu hỏi Dạy học lịch sử vì mục đích gì và tại
sao? được đặt ra là rất cần thiết. Cùng nhìn nhận lại vấn đề này không chỉ
giúp đánh giá về một lời giải đáp chung: học lịch sử để hiểu quá khứ và chuẩn
bị tốt hơn cho cuộc sống tương lai, mà quan trọng hơn đó là tìm hiểu những
điểm khác biệt mang tính đặc trưng của mỗi quốc gia trên thế giới và Việt
Nam. Bài viết phân tích bối cảnh cùng những lí do cơ bản định hướng việc
dạy học lịch sử ở Việt Nam hiện nay; những thành tựu, hạn chế của thực tiễn
dạy học lịch sử ở các trường phổ thông Việt Nam và giải pháp căn bản cho
thực tại.
Từ khoá: dạy học lịch sử, định hướng, thực trạng, giải pháp
1. Bối cảnh và những định hướng cho việc dạy học Lịch sử ở Việt Nam
hiện nay
Toàn cầu hóa khiến cho thế giới ngày nay trở thành một thế giới luôn
2
thay đổi. Việt Nam cũng như các quốc gia khác luôn phải có chiến lược phát
triển kinh tế, văn hóa, giáo dục để "hòa nhập" song không "hòa tan". Trong
bối cảnh có những cơ hội được hòa nhập vào nền giáo dục chung của thế giới,
giáo dục Việt Nam có thể học tập, tiếp thu kinh nghiệm từ các nước phát triển
và cần vận dụng phù hợp thực tiễn Việt Nam. Do vậy, chủ trương đổi mới
phương pháp dạy học đã được xác định trong các Nghị quyết Trung ương 4
khóa VII (1-1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12-1996) và được
thể chế trong Luật Giáo dục nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(2005, sửa đổi 2009, 2010): "phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm của
từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng
thú học tập cho HS" (điều 28.2). Chủ trương đổi mới còn được cụ thể hóa
trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo và việc triển khai trong các
trường phổ thông những thập niên vừa qua đã mang lại những chuyển biến
mạnh mẽ, tác động tích cực đến chất lượng dạy học Lịch sử ở trường phổ
thông. Cùng với đổi mới phương pháp dạy học (PPDH), Bộ Giáo dục và Đào
tạo cũng triển khai đổi mới chương trình, sách giáo khoa (SGK) và kiểm tra
đánh giá (KTĐG) của giáo dục phổ thông. Theo đó, "Hội Khoa học Lịch sử
Việt Nam-một tổ chức xã hội nghề nghiệp có uy tín đã vào cuộc, phối hợp
chặt chẽ với Bộ Giáo dục và Đào tạo thúc đẩy hơn nữa công cuộc cải cách
dạy và học Lịch sử ở trường phổ thông"1. Việc tổ chức tập huấn cho GV hàng
năm của Bộ Giáo dục và Đào tạo, các hội thảo với sự tham gia của các nhà
khoa học đến từ các trường đại học, các diễn đàn trao đổi đã thể hiện rõ sự kết
nối của các tổ chức, cá nhân trong việc đề xuất những định hướng mới cho
việc dạy học Lịch sử ở các trường phổ thông.
Giáo dục Việt Nam có truyền thống lâu đời, trải qua các giai đoạn
chính như: thời phong kiến, thời kì thuộc Pháp (1858-1954), đấu tranh thống
nhất đất nước (1954-1975) và từ sau khi thống nhất đất nước đặc biệt là từ
năm 1986-bắt đầu sự nghiệp đổi mới đến nay. Các phong trào cải cách giáo
dục của chính quyền thuộc địa, những chủ trương giáo dục mới của Nguyễn
Ái Quốc và của Đảng trước năm 1945 đã làm cho giáo dục Việt Nam có một
1
3
số chuyển biến tích cực2. Trải qua quá trình xây dựng và phát triển nền giáo
dục mới từ sau khi Cách mạng tháng Tám (năm 1945) thành công đến thời kì
đổi mới, giáo dục lịch sử đã xây dựng những định hướng rõ ràng và tiếp tục
được kế thừa, phát huy trong bối cảnh hiện nay.
Trước tiên, đó là nhận thức về vị trí, vai trò của môn học. Trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhận thức rõ tầm quan
trọng của các môn khoa học xã hội và nhân văn nói chung, môn Lịch sử nói
riêng, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam khoá VIII (1997) khẳng định: “Coi trọng hơn nữa các môn khoa học xã
hội và nhân văn, nhất là Tiếng Việt, Lịch sử dân tộc”3. Có nhà nghiên cứu còn
khẳng định "riêng đối với Việt Nam, lịch sử càng giữ vai trò cực kỳ quan
trọng gắn liền với sự tồn vong của quốc gia – dân tộc... Thế hệ trẻ lớn lên qua
nền giáo dục phổ thông mà không yêu mến lịch sử dân tộc, không có một vốn
hiểu biết cần thiết về lịch sử và văn hoá dân tộc và nhân loại, không có một
niềm tự tin dân tộc, không kế thừa các truyền thống dân tộc, thì làm sao có
thể hoàn chỉnh được phẩm chất của người công dân Việt Nam. Từ đặc điểm
đó, môn Lịch sử càng phải đặt đúng vị thế và chức năng của nó trong hệ
thống giáo dục phổ thông”4.
Hiện tại, Lịch sử được coi là môn bắt buộc trong chương trình giáo dục
phổ thông và có những ưu thế riêng trong đào tạo con người vì:
Học Lịch sử, học sinh hiểu được quy luật phát triển của xã hội loài
người, cũng như tính tất yếu lịch sử của sự nghiệp giải phóng và phát triển
dân tộc. “Ôn cũ biết mới”, những hiểu biết về quá khứ sẽ giúp học sinh hiểu
hiện tại hơn, có niềm tin và hành động đúng đắn hơn. Lịch sử góp phần giáo
dục truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, một hành trang để thế hệ trẻ bước
vào cuộc sống. Học Lịch sử, học sinh còn được rèn luyện những phương pháp
tìm hiểu, khám phá lịch sử: nhận biết các loại tư liệu lịch sử và giá trị của
chúng; thu nhận, phân tích thông tin từ sử liệu để nhận thức đúng về lịch sử;
rèn luyện các thao tác tư duy như: phân tích, tổng hợp, khái quát, đánh giá;
rèn luyện năng lực tự học, tự tìm hiểu những vấn đề lịch sử - xã hội, tự định
2
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 40.
4
Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Phan Huy Lê: Làm sao nâng cao chất lượng giáo dục môn Lịch sử trong
trường phổ thông, Sđd, tr. 8.
4
hướng trong cuộc sống hiện tại.
Thứ hai, về mục đích chung, với vai trò quan trọng Lịch sử cùng với các
môn học khác góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục phổ thông: "giúp học
sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng
cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành
nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách
nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống
lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc..." (Điều 27 của Luật giáo
dục). Như vậy, mục đích và nhiệm vụ chủ yếu của môn học hướng đến việc
giáo dục phẩm chất và năng lực con người, giúp học sinh không chỉ có được
kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới; các kỹ năng
tư duy, thực hành mà còn được giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước,
truyền thống dân tộc, từ đó hình thành thái độ ứng xử đúng đắn trong đời
sống xã hội của học sinh. Mục tiêu của môn học được thể chế hóa trong
chương trình và là cơ sở lựa chọn nội dung dạy học.
Thứ ba, qua 3 lần cải cách giáo dục5, chương trình môn Lịch sử có những
điều chỉnh và chương trình hiện hành được thực hiện theo Nghị quyết số
40/2000/QH10 của Quốc hội về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Bộ
Giáo dục và Đào tạo tổ chức biên soạn chương trình và sách giáo khoa từ lớp
1 đến lớp 12 và chỉ đạo triển khai trên phạm vi toàn quốc (từ năm học 2002 –
2003 đến nay). Theo đó, học sinh bắt đầu được học Lịch sử như một môn học
riêng biệt từ lớp 4 (bậc tiểu học), Chương trình môn học ở tiểu học giới
thiệu khái quát về Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc nay. Ở bậc trung học
(THCS từ lớp 6 đến lớp 9, THPT từ lớp 10 đến lớp 12), phần Lịch sử thế
giới được học song song với Lịch sử Việt Nam và chia theo các giai đoạn:
nguyên thủy, cổ đại, trung đại và cận hiện đại. Hai phần này được trình bày
trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thể hiện lịch sử dân tộc phát triển
trong quá trình chung của lịch sử loài người, chịu tác động của lịch sử thế
giới nhưng cũng có những đặc trưng riêng, góp phần vào tiến trình lịch sử
thế giới. Với định hướng này yêu cầu giáo viên khi dạy học cần hướng dẫn
học sinh liên hệ, so sánh để thấy được ảnh hưởng của lịch sử thế giới đến
lịch sử dân tộc trong từng giai đoạn cụ thể. Chương trình môn học được
xây dựng theo nguyên tắc "đồng tâm" kết hợp với "tuyến tính thời gian"
5
Cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất: tháng 5/1950; lần thứ hai: tháng 3/1956; lần thứ 3: năm 1979
5
(trình bày các sự kiện, quá trình lịch sử có trước, sau theo thời gian) nên nội
dung kiến thức ở trung học cơ sở có lặp lại ở trung học phổ thông, tuy nhiên,
nội dung không lặp lại nguyên vẹn mà có sự khác biệt về yêu cầu trình độ
nhận thức lịch sử của học sinh. Học sinh phải dựa vào những kiến thức đã học
ở trung học cơ sở để hiểu sâu sắc hơn các sự kiện lịch sử, chứ không phải biết
nhiều sự kiện.
2. Bức tranh thực tiễn: thành tựu, hạn chế của dạy học lịch sử ở
các trường phổ thông
Để đánh giá về thực trạng dạy học Lịch sử ở các trường phổ thông ở
Việt Nam hiện nay, tác giả dựa trên thông tin từ các hội thảo, các sách chuyên
khảo, thông tin trên các trang web và cuộc khảo sát được tiến hành trên diện
rộng trong năm 2012 với 200 GV và 500 HS các trường thuộc 10 tỉnh, thành
phố: Thái Bình, Thanh Hóa, Phú Thọ, Hà Nội, Lạng Sơn, Nam Định, Bắc
Ninh, Hải Phòng, Bình Định và thành phố Hồ Chí Minh.
Tổng quan chung về dạy học Lịch sử ở các trường phổ thông ở Việt
Nam hiện nay cho thấy những thành tựu, hạn chế cơ bản như sau:
Thứ nhất, về nhận thức của GV và HS: Phần lớn GV Lịch sử ở trường
phổ thông là những người yêu nghề, nhận thức được tầm quan trọng của dạy
học theo hướng phát huy tính tích cực, độc lập nhận thức của học sinh. Do
vậy, họ biết vận dụng sáng tạo, linh hoạt các hình thức tổ chức, phương
pháp/phương tiện dạy học cũng như kiểm tra đánh giá. Các trường phổ thông
tổ chức nhiều hoạt động chuyên môn, sinh hoạt chuyên đề, hội giảng, thi GV
dạy giỏi, viết sáng kiến kinh nghiệm, thi HS giỏi... Những hoạt động chuyên
môn đó đã góp phần tác động tích cực đến hoạt động dạy học trong môn học.
Kết quả khảo sát cho thấy, GV (chiếm 79%) nhận thức đúng đắn về yêu cầu
của đổi mới như: cần sử dụng PPDH, phương tiện kĩ thuật hiện đại một cách
hiệu quả; tổ chức hoạt động nhận thức tích cực, độc lập của HS và kết hợp đổi
mới KTĐG. Tuy nhiên, "những biểu hiện tích cực trên chưa được diễn ra
thường xuyên mà chỉ tập trung ở một số trường chuyên, hay chỉ tập trung vào
các kỳ thi, hội thi giảng hoặc các đợt kiểm tra, thanh tra các cấp chứ chưa
thực sự chuyển biến trong từng ý thức của GV và cán bộ quản lý giáo dục"6.
Về quan niệm, hứng thú của HS với môn Lịch sử: Chỉ có 12,6% HS
chọn Lịch sử là môn học yêu thích của mình. Thực trạng HS chưa yêu thích
6
Đổi mới PPDHLS, tr.13
6
môn LS là do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó một phần là do cách
dạy của GV. Vì vậy, HS mong muốn được GV hướng dẫn ôn tập thường
xuyên (55% ý kiến), tổ chức giờ học Lịch sử sinh động hơn (53,7% ý kiến),
hướng dẫn phương pháp học phù hợp (50,7%) và hướng dẫn cách làm bài
(34,7% ý kiến) nhằm đạt kết quả học tập cao hơn. Số ít HS cho rằng Lịch sử
là môn có thể tự học được (chiếm 18,4%); là môn dễ học, dễ đạt điểm giỏi
(chiếm 9,4%); hoặc ngược lại các HS khác lại thấy đây là môn khó học, khó
đạt điểm giỏi (chiếm 19,6%). Sự khác biệt trong quan niệm của HS thể hiện
sự phân hóa về khả năng tự học của HS.
Thứ hai, về phương pháp dạy và học, GV thường chọn phương pháp
thuyết trình (70%) kết hợp sử dụng câu hỏi, bài tập (83%), hướng dẫn học
sinh phương pháp tự học (60%). Tuy nhiên, việc sử dụng tranh ảnh, bản đồ,
sơ đồ, bảng, biểu tổng kết; sử dụng máy tính, máy chiếu hỗ trợ trình chiếu
nhằm tăng tính trực quan cho bài dạy hay các hoạt động nhóm, dự án học tập
nhằm tăng tính tích cực, chủ động của HS lại chưa được GV lựa chọn triển
khai thường xuyên và hiệu quả. HS cũng cho rằng GV hiếm khi hoặc chưa
bao giờ tổ chức các hoạt động nhóm; sử dụng tranh ảnh, bản đồ, phim tư liệu
hay sơ đồ, bảng biểu tổng kết kiến thức trong các giờ học (chiếm tỉ lệ từ 30-
33%). Thậm chí có tới 54,4% ý kiến HS đánh giá GV hiếm khi hoặc chưa bao
giờ sử dụng máy tính, máy chiếu; 76,4% và 80,4% ý kiến khẳng định GV
hiếm khi hoặc chưa bao giờ tổ chức trò chơi hoặc dự án học tập cho HS tham
gia.
Về cách học, 11,2% HS quan niệm Lịch sử là môn học thuộc lòng,
đồng thời các em khẳng định học Lịch sử cần phải hiểu bản chất của các sự
kiện mới nhớ được (63,9% ý kiến). Như vậy, HS có nhận thức đúng về
phương pháp học tập và điều này cũng lí giải được vì sao HS mong muốn
được GV hướng dẫn cách học, cách làm bài hơn là dạy theo kiểu “đọc-chép”.
Thứ ba, về mức độ GV hỗ trợ, hướng dẫn HS trong quá trình học tập,
GV và HS khá đồng nhất khi cho rằng việc kiểm tra kiến thức, kĩ năng nền
của HS đã được tiến hành khi bắt đầu môn học. Tuy nhiên, về vấn đề tìm hiểu
mức độ hứng thú của HS đối với môn học Lịch sử, tìm hiểu những nội dung
trong môn học mà HS quan tâm, xác định phong cách học và hướng dẫn HS
phương pháp học phù hợp phong cách học, tìm hiểu thuận lợi, khó khăn của
HS trong học tập, ý kiến của GV và HS có sự chênh lệch nhất định (có tới
7
93% GV khẳng định đã tìm hiểu mức độ hứng thú của HS đối với môn học
Lịch sử, trong khi chỉ có 55,3% HS khẳng định điều này). Điều này dẫn đến
việc học sinh chưa biết cách học lịch sử, phần lớn HS chỉ học thuộc những gì
GV cho ghi chép trên lớp, hoặc học trong SGK.
Thứ tư, về hình thức tổ chức dạy học trong môn Lịch sử đã chú trọng
đến việc đa dạng hóa, trong đó ngoài giờ học trên lớp là chính, các trường còn
tổ chức các hoạt động ngoại khóa về Lịch sử địa phương, về các nhân vật, sự
kiện lịch sử tiêu biểu... tại bảo tàng, di tích lịch sử. Hoạt động của Câu lạc bộ
"Em yêu lịch sử" của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam, các cuộc thi Em
yêu lịch sử Việt Nam do Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Hội Khoa học
Lịch sử Việt Nam tổ chức đã góp phần nâng cao nhận thức và bồi dưỡng tình
cảm của học sinh với lịch sử dân tộc.
Thứ năm, về KTĐG trong môn Lịch sử được quan tâm đổi mới cùng
với nỗ lực đổi mới PPDH. Các cuộc thi học sinh giỏi môn Lịch sử (cấp thành
phố và quốc gia) được tổ chức hàng năm và việc Hội Khoa học Lịch sử Việt
Nam trao giải cho các học sinh xuất sắc là những nỗ lực nhằm động viên,
khuyến khích niềm yêu thích của thế hệ trẻ với môn Lịch sử. Tuy nhiên, các
bài kiểm tra, các kì thi ở trường phổ thông còn nặng về yêu cầu HS nhớ máy
móc, sự kiện, thời gian, ít yêu cầu ở các mức độ cao hơn như hiểu, vận dụng
kiến thức, rèn luyện kỹ năng hay giáo dục thái độ; những quy định cứng nhắc
của các nhà trường còn khiến GV chưa biết cách vận dụng linh hoạt các hình
thức kiểm tra, chưa coi trọng đánh giá và chưa coi đây là kênh phản hồi tích
cực để điều chỉnh các thành tố khác của quá trình dạy học. Kết quả thi môn
Lịch sử ở các kỳ thi tốt nghiệp phổ thông và thi tuyển vào đại học, cao
đẳng trong một số năm gần đây quá thấp (đặc biệt là các năm 2005-2007 và
năm 2011) đã gây ra sự bức xúc, nỗi lo âu của xã hội. Mặt hạn chế nặng nề
nhất của giáo dục môn Lịch sử là phần lớn học sinh không thích môn Lịch
sử, coi đó là môn học của các sự kiện và năm tháng và của trí nhớ, khô
khan, nhàm chán.
3. Giải pháp cho thực tại
Trước những đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; sự
phát triển nhanh chóng của khoa học và xu thế phát triển của chương trình
giáo dục phổ thông quốc tế, một trong các định hướng phát triển kinh tế - xã
hội mà Đại hội Đảng lần thứ XI nêu là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
8
đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục và đào tạo, trong đó nhấn mạnh
việc “Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học ở tất
cả các cấp, bậc học. Tích cực chuẩn bị để từ sau năm 2015 thực hiện chương
trình giáo dục phổ thông mới”7. Chính phủ giao cho Bộ Giáo dục và Đào tạo
tiến hành xây dựng Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ
thông. Theo đề án đã được chính phủ phê duyệt sẽ "thực hiện một chương
trình, nhiều bộ SGK. Chương trình mới được xây dựng, thẩm định và ban hành
trước làm cơ sở cho việc biên soạn SGK". Trên cơ sở đánh giá chương trình
hiện hành, học tập kinh nghiệm quốc tế về phát triển chương trình, định hướng
cho chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ chuyển từ tập trung trang bị kiến
thức, kỹ năng sang định hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh. Dạy
học phân hóa và dạy học tích hợp được xác định là yêu cầu bắt buộc nhằm
mục đích phát triển năng lực học sinh. Trong đó, Lịch sử được tích hợp trong
các môn học Tìm hiểu xã hội (lớp 4, 5), Khoa học Xã hội (cấp THCS) và là
môn học bắt buộc; là môn học riêng biệt và tự chọn ở cấp THPT. Nội dung
môn học được cấu trúc theo chủ đề (khác với cấu trúc theo tiến trình lịch sử
như chương trình hiện hành); PPDH khuyến khích học sinh được trải nghiệm,
sáng tạo thông qua các hình thức tổ chức dạy học đa dạng như: hoạt động
nhóm/cá nhân tự học, học trên lớp/ở bảo tàng, thực địa, học qua dự án...;
KTĐG hướng tới các chuẩn năng lực, thông qua nhiều hình thức: vấn đáp,
viết, trình bày sản phẩm dự án/sản phẩm học tập.
Giải pháp đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam, đặc
biệt là việc triển khai đổi mới chương trình, SGK phổ thông nói chung, môn
Lịch sử nói riêng đặt ra những thách thức và để đạt hiệu quả cần có những
điều kiện triển khai đồng bộ như: sự tham gia của một lực lượng chuyên gia,
giàu kinh nghiệm, hoạt động thường xuyên trong lĩnh vực phát triển chương
trình và có điều kiện tiếp thu một cách có hệ thống kinh nghiệm quốc tế; công
tác tập huấn đội ngũ giáo viên; đào tạo sinh viên Sư phạm Lịch sử trong các
trường đại học-những GV trong tương lai có thể dạy học theo hướng tích hợp,
phân hóa và phát triển năng lực của người học. Các điều kiện khác như: Đầu
tư thiết bị, phương tiện dạy học và các tài liệu tham khảo phù hợp; Phân phối
chương trình môn học mềm dẻo, hợp lý, đặc biệt chú ý tăng cường thực hành,
7
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, trang 131.
9
dành thời lượng hợp lý cho ôn tập, tự học; thời lượng cho giờ học ngoại khóa
tại di tích lịch sử, bảo tàng cũng được đặt ra một cách cấp thiết.
Tóm lại, "để tồn tại trong thời đại toàn cầu hóa mỗi dân tộc cần phải
có cái riêng của mình. Sự đa dạng về văn hóa và giáo dục không chỉ có lợi
cho việc bảo vệ bản sắc của mỗi dân tộc mà còn quan trọng với toàn nhân
loại: Thế giới sẽ trở nên nhạt nhẽo biết chừng nào nếu tất cả chỉ có một màu,
mọi thứ đều giống nhau"8. Chính vì vậy, trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm quốc
tế vận dụng phù hợp thực tiễn Việt Nam, công cuộc đổi mới giáo dục nói
chung, giáo dục lịch sử nói riêng của Việt Nam đang được tiến hành hi vọng
sẽ góp thêm màu sắc cho bức tranh văn hóa, giáo dục thống nhất trong đa
dạng của toàn cầu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Chương trình giáo dục phổ thông môn Lịch sử, NXB Giáo dục, Hà
Nội, 2006.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp
hành Trung ương khoá VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 40
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, trang 131.
[4] Bùi Minh Hiền, Lịch sử giáo dục Việt Nam, NXB ĐHSP, 2005
[5]. Vũ Quang Hiển, Hoàng Thanh Tú, Phương pháp dạy học môn Lịch
sử ở trường trung học phổ thông, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014.
[6]. Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Phan Huy Lê: Làm sao nâng cao chất
lượng giáo dục môn Lịch sử trong trường phổ thông, Sđd, tr. 8.
[7]. Nhiều tác giả (2009), Sơ lược lịch sử giáo dục Việt Nam và một số
nước trên thế giới, Nhà xuất bản Hà Nội
[8] Trịnh Đình Tùng (chủ biên), Đổi mới Phương pháp dạy học Lịch sử,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014, tr.13.
[9] Hoàng Thanh Tú, Phương pháp ôn tập lịch sử ở trường trung học
phổ thông. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2012.
8 GS.TSKH. Lê Ngọc Trà, Viện Nghiên cứu Giáo dục Trường Đại học Sư
phạm Tp HCM "Một số vấn đề của giáo dục Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa".
10
[10]
[11] GS.TSKH. Lê Ngọc Trà, Viện Nghiên cứu
Giáo dục Trường Đại học Sư phạm Tp HCM "Một số vấn đề của giáo dục
Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa".
[12] Quyết định phê duyệt đề án đổi mới,
chương trình, SGK giáo dục phổ thông (số 404/QĐ-TTg) của Thủ tướng
Chính phủ ngày 27 tháng 3 năm 2015.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- a23_6946_2166667.pdf