Tài liệu Nhồi máu cơ tim cấp trên bệnh nhân giảm tiểu cầu: Báo cáo trường hợp lâm sàng: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
41
NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP TRÊN BỆNH NHÂN GIẢM TIỂU CẦU:
BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG
Đinh Hiếu Nhân*
TÓM TẮT
Bệnh nhân nam, 67 tuổi nhập viện vì mệt, khó thở. Bệnh nhân được chẩn đoán nhồi máu cơ tim cấp không
có đoạn ST chênh lên trên bệnh nhân xơ gan với phân độ Child-Pugd C kèm giảm trung bình số lượng tiểu cầu.
Điều trị nội khoa tối ưu nhồi máu cơ tim cấp với thuốc kháng đông và thuốc kháng tiểu cầu kép đã dẫn đến biến
chứng xuất huyết và tụ máu vùng hông và bìu. Thay đổi kế hoạch điều trị phù hợp với mức độ nặng của giảm số
lượng tiểu cầu cho kết quả điều trị tốt. Clopidogrel là thuốc được chọn lựa trong kế hoạch điều trị.
Từ khoá: Nhồi máu cơ tim cấp, giảm tiểu cầu.
ABSTRACT
A CLINICAL CASE REPORT: ACUTE MYOCARDIAL INFARCTION IN PATIENT WITH
THROMBOCYTOPENIA
Dinh Hieu Nhan * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 22 - No 6- 2018: 41 – 46
A male patient, 60 years old admitted to hospital ...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 239 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhồi máu cơ tim cấp trên bệnh nhân giảm tiểu cầu: Báo cáo trường hợp lâm sàng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
41
NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP TRÊN BỆNH NHÂN GIẢM TIỂU CẦU:
BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG
Đinh Hiếu Nhân*
TÓM TẮT
Bệnh nhân nam, 67 tuổi nhập viện vì mệt, khó thở. Bệnh nhân được chẩn đoán nhồi máu cơ tim cấp không
có đoạn ST chênh lên trên bệnh nhân xơ gan với phân độ Child-Pugd C kèm giảm trung bình số lượng tiểu cầu.
Điều trị nội khoa tối ưu nhồi máu cơ tim cấp với thuốc kháng đông và thuốc kháng tiểu cầu kép đã dẫn đến biến
chứng xuất huyết và tụ máu vùng hông và bìu. Thay đổi kế hoạch điều trị phù hợp với mức độ nặng của giảm số
lượng tiểu cầu cho kết quả điều trị tốt. Clopidogrel là thuốc được chọn lựa trong kế hoạch điều trị.
Từ khoá: Nhồi máu cơ tim cấp, giảm tiểu cầu.
ABSTRACT
A CLINICAL CASE REPORT: ACUTE MYOCARDIAL INFARCTION IN PATIENT WITH
THROMBOCYTOPENIA
Dinh Hieu Nhan * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 22 - No 6- 2018: 41 – 46
A male patient, 60 years old admitted to hospital due to dyspnea. Diagnosis was acute non-ST elevation
myocardial infarction in patient with thrombocytopenia and cirrhosis. Optimal guideline – direct treatment with
anticoagulant and dual antiplatelets resulted in subcutaneous bleeding and hematoma in flank area and scrotum.
Change antiplatelet drugs in therapeutic plan depending on the severe of thrombocytopenia had good results.
Clopidogrel was the choice in this cas.
Key words: Acute myocardial infarction, thrombocytopenia.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhồi máu cơ tim cấp là một trong những
bệnh lý cấp cứu về tim mạch. Cơ chế bệnh sinh
do sự nứt vỡ tổn thương xơ vữa gây ra huyết
khối và gây tắt lòng động mạch vành, hay do sự
mất cân bằng giữa cung cấp và tiêu thụ oxy của
cơ tim. Tiểu cầu có vai trò rất quan trọng trong
tiến trình đông cầm máu trong cơ chế bệnh sinh
của nhồi máu cơ tim cấp. Tiến trình đông máu
bình thường cần phải có sự toàn vẹn của toàn bộ
các thành phần liên quan đến tiến trình đông
máu bao gồm vai trò của thành mạch, tiểu cầu,
các yếu tố đông máu. Tuy nhiên trong những
trường hợp giảm số lượng tiểu cầu, tiến trình
đông máu vẫn có thể xảy ra bình thường tuỳ
theo mức độ giảm tiểu cầu(6). Nhồi máu cơ tim
cấp trên bệnh nhân giảm số lượng tiểu cầu ít gặp
trong thực tế lâm sàng và vấn đề điều trị thuốc
kháng đông và thuốc kháng tiểu cầu kép nhằm
cân bằng giữa lợi ích điều trị và nguy cơ xuất
hiện biến cố xuất huyết còn dựa nhiều trên kinh
nghiệm của bác sĩ điều trị.
BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP
Phần hành chánh
Bệnh nhân: N.V.H, Nam, 67 tuổi.
Địa chỉ: 86/204 Ông Ích Khiêm, Phường 14.
Quận 11, TpHCM.
Ngày vào viện: 30/5/2018.
Số vào viện: 18/018163 - BV Trưng Vương.
LDVV: Đau ngực.
Bệnh sử
Bệnh khoảng 1 tuần, bệnh nhân thấy bụng
ngày càng to dần, phù 2 chân, sốt, ớn lạnh ho
đàm vàng kèm theo cảm giác đau ngực trái kéo
dài, điều trị tại Bệnh viện Quận 11 với chẩn đoán
nhồi máu cơ tim cấp, suy tim, tăng huyết áp, xơ
gan với phân độ Child –Pugh C nhưng không
*Trưởng Bộ môn Dược lý học – Giảng viên Bộ môn Nội Tổng quát Đại học Y Dược Tp.HCM,
Trưởng Khoa Tim mạch – Bệnh viện Trưng Vương
Tác giả liên lạc: TS.BS. Đinh Hiếu Nhân, ĐT: 0903649222, Email: dinhhieunhan@hotmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018
42
giảm nên được chuyển Bệnh viện Trưng Vương.
Tiền căn: Viêm gan siêu vi C – Xơ gan giai
đoạn Child-Pugh C, Tăng huyết áp đang điều trị.
Khám lâm sàng
Tỉnh, tiếp xúc tốt. Huyết áp 120/80 mmHg.
Khó thở phải ngồi. Phù to 2 chân
Niêm hồng, chi ấm, mạch quay rõ.
Tim đều rõ 84 lần/phút.
Phổi ran nổ 2 đáy.
Bụng báng to, gan lách khó sờ. Gõ đục. Ấn
không điểm đau.
Cận lâm sàng
Bảng 1. Kết quả cận lâm sàng
30/5/2018
– 5/6/2018
- Công thức máu: Hồng cầu 3.4M/µL
Hb: 11.8g/dL
Hct: 34.6%
Tiểu cầu: 82.000/mm3. INR = 1,23.
- eGFR= 51ml/ph/1,73m2
- CKMB 108 U/L
- BNP 1906,2 pg/mL
- Blirubin TP 29,4 µmol/L, TT 6,6 µmol/L,
GT 22.8 µmol/L
AST 255 U/L, ALT 21 U/L
NH3 73 mol/L
CRP 33.58mg/L
- Siêu âm bụng: Báng bụng, Xơ gan, lách to.
Viêm phù nề vùng bìu 2 bên, tràn dịch tinh mạc
2 bên.
- Cấy đàm: Klebsiella pneumonia.
- ECG: Nhịp xoang đều, tần số 90 lần/ phút, Q
DIII, Hình ảnh R cắt cụt từ V1-V3
- X Quang tim phổi thẳng: Bóng tim to, chỉ số
tim/lồng ngực = 0,6.
- Siêu âm tim: Dày đồng tâm thất trái. Giảm
động toàn bộ các thành thất trái. EF 45%.
5/6/2018-
11/6/2018
- PFA 100: CADP = 235 giây (68-121 giây)
P2Y test= 198 giây (<106 giây)
- BNP 364.98 pg/mL
- Công thức máu: Hct 19,6%, Hb 6.4g/dL
Tiểu cầu 85.000/mm3
Hb 9g/dL
Hct 28%.
Bảng 2. Diễn tiến troponin I
Tropinin I Kết quả (pg/mL)
31/5/2018 > 50.000
2/6/2018 48.928,3
4/6/2018 23.796
7/6/2018 8196
9/6/2018 5230,3
11/6/2018 3558,9
Chẩn đoán
Nhồi máu cơ tim cấp thành trước, Killip II.
Suy tim độ II-IV (NYHA).
Tăng huyết áp.
Xơ gan Child-Pugh C/ viêm gan siêu vi C.
Viêm phổi.
Biến chứng xuất huyết dưới da do thuốc
kháng đông.
Diễn tiến lâm sàng
Bệnh nhân không được chỉ định can thiệp tái
thông động mạch vành qua da do bệnh cảnh
lâm sàng nặng, kèm theo giảm số lượng tiểu cầu.
Nhồi máu cơ tim cấp thành trước: bệnh ổn
định, diễn tiến động học điện tâm đồ và men
tim cho thấy hiệu quả điều trị. Biến chứng suy
tim nặng lên đáp ứng tốt với điều trị nội khoa
tích cực.
Bội nhiễm phổi: đáp ứng tốt với điều trị
kháng sinh.
Xơ gan: Vẫn ổn định, không phát hiện các
biến chứng đi kèm.
Kiểm soát tốt tăng huyết áp.
Biến chứng trong thời gian điều trị: Xuất
huyết dưới da dạng tụ máu vùng hông lưng 2
bên và vùng bìu mức độ trung bình đến nặng
cần phải truyền máu do sử dụng thuốc kháng
đông (Enoxaparin) và thuốc kháng tiểu cầu kép
(Aspirin và Clopidogrel).
Điều trị
Theo phác đồ điều trị nhồi máu cơ tim cấp,
suy tim của Khoa Tim mạch. Truyền máu. Điều
chỉnh thuốc kháng tiểu cầu theo khuyến cáo với
đơn trị bằng clopidogrel.
Bệnh nhân ổn định và xuất viện ngày
18/6/2018.
BÀN LUẬN
Trong trường hợp này, chúng tôi chỉ đề cập
đến vấn đề chẩn đoán, điều trị bệnh cảnh nhồi
máu cơ tim cấp kèm giảm tiểu cầu và giải quyết
biến chứng xuất huyết.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
43
Chẩn đoán.
Trên bệnh nhân được chẩn đoán xơ gan với
phân loại Child-Pugh C, biểu hiện lâm sàng khi
nhập viện không có triệu chứng đau thắt ngực
điển hình, không có dấu hiệu nhồi máu cơ tim
trên điện tâm đồ và với kết quả xét nghiệm lúc
nhập viện ghi nhận số lượng tiểu cầu giảm còn
82,000/mm3 do đó hướng chẩn đoán đến hội
chứng động mạch vành cấp là rất ít được nghĩ
đến. Cơ chế bệnh sinh chủ yếu của nhồi máu cơ
tim cấp là do sự nứt vỡ hay loét của tổn thương
xơ vữa động mạch vành, khi tổn thương xơ vữa
bị nứt vỡ sẽ bộc lộ lớp bên dưới nội mạc và tiểu
cầu sẽ bám dính vào. Tiểu cầu sẽ được hoạt hoá
tiết ra các yếu tố tiểu cầu gây ra tình trạng ngưng
tập tiểu cầu tạo thành cục huyết khối tiểu cầu,
song song đó sẽ kích hoạt dòng thác đông máu
hình thành cục huyết khối bền vững trên vị trí
tổn thương. Như vậy, tiểu cầu có vai trò rất quan
trọng trong khởi đầu của bệnh sinh nhồi máu cơ
tim. Trong trường hợp số lượng tiểu cầu giảm
dưới mức bình thường (< 150,000/mm3) thì hiện
tượng bắt giữ, hoạt hoá tiểu cầu tại vị trí tổn
thương xơ vữa động mạch có xảy ra bình
thường không? Số lượng tiểu cầu giảm nặng <
5,000/mm3 thường bệnh nhân sẽ có biểu hiện
xuất huyết tự nhiên trên lâm sàng và đây là
trường hợp cấp cứu, do đó không có khả năng
tạo huyết khối; trong trường hợp số lượng tiểu
cầu 10,000 – 30,000/mm3 có thể gây ra chảy máu
với những chấn thương nhẹ; trường hợp số
lượng tiểu cầu từ 30,000 - 50,000/mm3 có thể có
biểu hiện ban xuất huyết dưới da, trường hợp số
lượng tiểu cầu > 50,000/mm3 rất hiếm khi có triệu
chứng trên lâm sang(5). Số lượng tiểu cầu giảm
làm cho khả năng tạo huyết khối rất ít khả năng
xảy ra. Tuy nhiên trong những trường hợp giảm
ít (tiểu cầu > 50,000/mm3), hiện tượng kích hoạt
tạo huyết khối tiểu cầu xảy ra gần như bình
thường. Điều này có thể được lý giải rằng với số
lượng tiểu cầu giảm thì kích thước của tiểu cầu
lớn hơn bình thường với bằng chứng thể tích
trung bình của tiểu cầu (MPV) lớn hơn, khi kích
thước lớn hơn thì diện tích bề mặt cũng lớn hơn
và dễ dàng bộc lộ các thụ thể trên bề mặt cho sự
gắn kết với các thụ thể ở dưới lớp nội mô mạch
máu giúp cho tiến trình đông máu dễ dàng xảy
ra(2). Mặt khác, nhồi máu cơ tim cấp cũng có thể
xảy ra trên bệnh nhân mà không bị ảnh hưởng
bởi số lượng tiểu cầu giảm trong máu, đó là do
có thể đã rối loạn huyết động ảnh hưởng đến
tình trạng tưới máu qua động mạch vành đã bị
tổn thương trước đó làm mất cân bằng giữa
cung cấp và nhu cầu tiêu thụ oxy của cơ tim dẫn
đến nhồi máu cơ tim cấp.
Trên bệnh cảnh của bệnh nhân, việc tầm soát
ra bệnh lý nhồi máu cơ tim cấp dựa vào các dấu
hiệu của suy tim nặng lên đột ngột kèm theo sự
gia tăng của men tim CKMB và Troponin I.
Chính sự thay đổi biểu hiện suy tim nặng lên là
dấu chứng gợi ý tìm nguyên nhân và các xét
nghiệm tầm soát đã giúp xác định được bệnh.
Các dấu ấn sinh học giúp chẩn đoán suy tim như
BNP và chẩn đoán nhồi máu cơ tim nên được
thực hiện lập lại nhiều lần để có thể phát hiện
được sự thay đổi động học của các dấu ấn sinh
học này giúp cho việc chẩn đoán, đánh giá phân
tầng nguy cơ và giúp cho tiên lượng cũng như
những quyết định điều trị đúng đắn vào những
thời điểm khác nhau trong diễn tiến bệnh. Diễn
tiến thay đổi các dấu ấn sinh học troponin được
minh hoạ trong Bảng 2. Qua đó cho thấy sự thay
đổi động học và nồng độ tăng cao của troponin I
đã giúp nhận biết tiên lượng nặng của bệnh
ngay khi không có bệnh lý nền trầm trọng.
Trong khi đó trên bệnh cảnh lâm sàng với bệnh
lý xơ gan phân độ Child-Pugh C đã làm cho tiên
lượng càng xấu hơn.
Như vậy, chẩn đoán nhồi máu cơ tim cấp
trên bệnh nhân đã dựa chủ yếu vào diễn tiến
lâm sàng với biểu hiện suy tim nặng lên không
phù hợp với bệnh cảnh xơ gan và kèm theo sự
thay đổi động học của các dấu ấn sinh học tổn
thương cơ tim. Số lượng tiểu cầu giảm ở mức
trung bình (82,000/mm3) không phải là yếu tố
bảo vệ không bị nhồi máu cơ tim, nhưng có thể
là yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến quyết định
điều trị nhồi máu cơ tim cấp vì thuốc kháng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018
44
đông và thuốc kháng tiểu cầu là một trong
những thuốc bắt buộc phải có trong chiến lược
điều trị.
Biến chứng xuất huyết
Trên bệnh cảnh nền là xơ gan với phân độ
Child-Pugh C và các biểu hiện mất bù của xơ
gan trên lâm sàng đã cho thấy các biến chứng đe
doạ tính mạng có thể xảy ra, đặc biệt là xuất
huyết tiêu hoá. Kèm theo đó với tình trạng giảm
số lượng tiểu cầu mức trung bình (81,000/mm3)
đã làm tăng thêm nguy cơ xuất huyết, đặc biệt
khi phải thực hiện thủ thuật trên bệnh nhân. Với
chẩn đoán nhồi máu cơ tim cấp, bệnh nhân có
chỉ định xem xét điều trị tái thông động mạch
vành, tuy nhiên do bệnh cảnh nền nặng nề cùng
với nguy cơ chảy máu cao khi thực hiện thủ
thuật can thiệp động mạch vành qua da nên đã
quyết định chỉ điều trị nội khoa tối ưu. Vấn đề
điều trị nội khoa tích cực với các thuốc kháng
đông (Heparin) kết hợp với liệu pháp sử dụng
thuốc kháng tiểu cầu kép cũng làm tăng đáng kể
nguy cơ xuất huyết. Đánh giá nguy cơ xuất
huyết khi sử dụng liệu pháp điều trị với thuốc
kháng tiểu cầu kép bằng thang điểm PRECISE
DAPT(1) cho thấy bệnh nhân thuốc nhóm nguy
cơ cao cho xuất huyết với số điểm 31 kèm nguy
cơ xuất huyết có thể lên đến 2,9% trong 12 tháng.
Đánh giá nguy cơ xuất huyết khi sử dụng
heparin bằng thang điểm HAS-BLED(7) cũng cho
kết quả nguy cơ xuất huyết ở mức trung bình
với 3 điểm kèm nguy cơ xuất huyết nặng từ 3,74
- 6%/ năm. Như vậy, nguy cơ xuất huyết sẽ cao
hơn trên bệnh nhân khi sử dụng cả hai liệu pháp
heparin kết hợp liệu pháp kháng tiểu cầu kép.
Tuy nhiên do bệnh cảnh nhồi máu cơ tim cấp,
biến chứng suy tim cấp với phân độ Killip II,
biểu hiện lâm sàng không dấu xuất huyết đã
đưa đến quyết định phải điều trị. Tiến trình điều
trị được theo dõi sát các biểu hiện lâm sàng
nhằm phát hiện các biến chứng của bệnh cũng
như những tai biến liên quan điều trị với thuốc
kháng đông và thuốc kháng tiểu cầu. Đến ngày
thứ 3 sau điều trị, bệnh nhân có dấu hiệu tụ máu
vùng da bụng tại vị trí tiêm heparin, diễn tiến tụ
máu ngày càng lan rộng sang vùng hông lưng 2
bên và tụ máu bìu 2 bên kèm theo giảm nặng
nồng độ Hb chứng tỏ có xuất huyết nặng gây
mất máu cấp (Bảng 1). Với biểu hiện lâm sàng
mất máu cấp đe doạ đến tính mạng và đe doạ
đến diễn tiến nặng lên của bệnh cảnh lâm sàng
suy tim và nhồi máu cơ tim cũng như bệnh cảnh
nền xơ gan, điều trị thuốc kháng đông và kháng
tiểu cầu kép phải tạm ngưng thay vào đó là điều
trị tích cực hồi sức nhằm cải thiện tình trạng suy
tim và điều trị mất máu cấp bằng truyền máu.
Kiểm soát và theo dõi sát diễn tiến tình trạng tụ
máu dưới da vùng hông lưng và vùng bìu.
Biến chứng xuất huyết đã được đánh giá
qua các thang điểm trước khi tiến hành điều
trị, mặc dù được cẩn thận theo dõi nhưng biến
chứng xuất huyết vẫn xảy ra. Điều này có thể
do chính nguy cơ xuất huyết của bệnh cảnh
lâm sàng nặng nề, cũng có liên quan đến chiến
lược điều trị kết hợp cả hai loại thuốc kháng
đông và kháng tiểu cầu kép, cũng có thể liên
quan đến kỹ thuật tiêm dưới da heparin. Trên
bệnh nhân có thể kết hợp cả 3 yếu tố trên, do
bệnh cảnh xơ gan kèm báng bụng lượng nhiều
đã có thể tụ dịch dưới da làm cho mô dưới da
bị lỏng lẻo, tưới máu mô dưới da giảm nên
hạn chế sự hấp thu của thuốc, dễ dàng gây tụ
máu dưới da và lan rộng vùng tụ máu; kèm
theo đó là giảm số lượng tiểu cầu, chức năng
đông máu trong bệnh cảnh xơ gan ít nhiều
cũng đã bị ảnh hưởng đã làm cho tiến trình
đông máu bị tổn thương nghiêm trọng dẫn
đến xuất huyết trầm trọng trên bệnh nhân.
Điều trị thuốc kháng đông và thuốc kháng tiểu
cầu kép
Trên bệnh nhân không chỉ định can thiệp tái
thông mạch vành qua da cấp cứu do nhập viện
trễ, đồng thời bệnh nhân có nguy cơ cao xuất
huyết(9).
Trước nguy cơ xuất huyết cao trên bệnh
nhân giảm số lượng tiểu cầu mức trung bình
kèm xơ gan, biến chứng xuất huyết rất dễ dàng
xảy ra đe doạ đến tính mạng người bệnh chiến
lược điều trị nhồi máu cơ tim cấp với thuốc
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
45
kháng đông và thuốc kháng tiểu cầu kép cần
phải được điều chỉnh phù hợp. Chúng ta cần
phải cân bằng giữa nguy cơ xuất huyết và lợi ích
của điều trị để giảm thiểu tối đa nguy cơ thiếu
máu cục bộ cơ tim. Tuỳ theo mức độ trầm trọng
của giảm số lượng tiểu cầu có thể hướng đến
quyết định điều trị. Thông thường trong trường
hợp giảm số lượng tiểu cầu nhẹ từ 150.000 -
100.000/mm3, chiến lược điều trị thuốc kháng
đông và kháng tiểu cầu kép trong trường hợp
nhồi máu cơ tim cấp không thay đổi và có thể áp
dụng theo các khuyến cáo hiện hành. Tác giả
McCarthy CP và cộng sự(2,4), đã đưa ra chiến
lược trong điều trị bệnh nhân nhồi máu cơ tim
cấp kèm giảm quan trọng số lượng tiểu cầu
nhằm giảm thiểu tối đa nguy cơ xuất huyết bao
gồm những điểm sau:
Tránh sử dụng các thuốc kháng viêm không
steroid.
Tránh sử dụng thuốc nhóm ức chế thụ thể
Glycoprotein IIb/IIIa.
Sử dụng kèm theo thuốc ức chế bơm proton,
trừ khi có chống chỉ định.
Aspirin nên sử dụng liều thấp.
Nếu bệnh nhân đang sử dụng thuốc kháng
đông kéo dài, nên tranh sử dụng điều trị kết
hợp bộ ba thuốc kháng đông và thuốc kháng
tiểu cầu kép.
Nếu bệnh nhân cần phải điều trị tái thông
động mạch vành qua da:
Tiếp cận bằng đường động mạch quay thích
hợp hơn so với đường qua động mạch đùi,
Giới hạn sử dụng liệu pháp kháng tiểu cầu
kép đến 1 tháng sau khi đặt stent,
Stent tẩm thuốc thế hệ thứ 2 thích hợp hơn
stent thường.
Trong trường hợp nhồi máu cơ tim cấp với
số lượng tiểu cầu giảm ở mức trung bình từ
100,000/mm3 – 50,000/mm3 không kèm với dấu
hiệu xuất huyết trên lâm sàng, tác giả cũng đề
nghị sử dụng đơn trị liệu clopidogrel có lợi hơn
khi so với sử dụng đơn trị liệu với aspirin. Đề
nghị này xuất phát từ kết quả thử nghiệm lâm
sàng CARRIE so sánh hiệu quả giữa clopidogrel
và aspirin cho thấy nguy cơ xuất huyết của
nhóm bệnh nhân sử dụng clopidogrel thấp hơn.
Cũng vậy, nguy cơ xuất huyết khi sử dụng
clopidogrel đơn trị cũng thấp hơn khi so với các
thuốc ức chế thụ thể P2Y12 tiểu cầu khác như
ticagrelor và prasugrel do đó clopidogrel được
chọn lựa nhiều hơn trong đơn trị liệu kháng tiểu
cầu ở bệnh nhân có nguy cơ xuất huyết cao đặc
biệt trong trường hợp giảm tiểu cầu trung bình
đến nặng(8). Chiến lược điều trị kháng tiểu cầu
kép (aspirin + clopidogrel) cho bệnh nhân được
đề nghị kéo dài trong 1 tháng, sau đó là đơn trị
liệu kháng tiểu cầu bằng clopidogrel kéo dài.
Trên bệnh nhân của chúng tôi, nguy cơ xuất
huyết cao hơn do ngoài giảm số lượng tiểu cầu
còn kèm với bệnh lý xơ gan. Do chưa có khuyến
cáo nào trong điều trị bệnh nhân với nhiều bệnh
lý nền như vậy, do đó chiến lược điều trị dựa
chủ yếu vào kinh nghiệm và theo dõi sát diễn
tiến bệnh nhân nhằm phát hiện kịp thời các biến
chứng và xử trí kịp thời. Biến chứng tụ máu
dưới da vùng hông lưng và bìu đã ảnh hưởng
nghiêm trọng đến diễn tiến bệnh và kế hoạch
điều trị, do phát hiện kịp thời nên đã kiểm soát
tốt được biến chứng. Qua diễn tiến và tiến trình
điều trị bệnh nhân chúng tôi rút ra được một số
kinh nghiệm trong điều trị những trường hợp
nhồi máu cơ tim cấp trên bệnh nhân giảm tiểu
cầu trung bình kèm theo xơ gan như sau:
Cần theo dõi sát để phát hiện các biến chứng,
đặc biệt biến chứng xuất huyết liên quan đến
điều trị.
Không nên sử dụng cùng lúc thuốc kháng
đông đồng thời kết hợp với thuốc kháng tiểu
cầu kép.
Cần giảm liều thuốc kháng đông (heparin
trọng lượng phân tử thấp), theo mức độ rối loạn
chức năng gan.
Sử dụng thuốc kháng tiểu cầu đơn trị,
clopidogrel là thuốc ưu tiên được chọn hơn so
với aspirin, ticagrelor hay prasugrel trong thời
gian nằm viện cũng như điều trị kéo dài.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018
46
Tìm nguyên nhân giảm tiểu cầu để điều trị
và cần theo dõi sát số lượng tiểu cầu để có thể
điều chỉnh chiến lược điều trị thuốc kháng tiểu cầu.
Cần sử dụng thuốc nhóm ức chế bơm proton
để phòng ngừa biến cố xuất huyết tiêu hoá, nếu
không có chống chỉ định.
KẾT LUẬN
Nhồi máu cơ tim cấp trên bệnh nhân giảm
tiểu cầu kèm xơ gan ít gặp trên thực hành lâm
sàng. Điều trị cần cân bằng giữa nguy cơ xuất
huyết và lợi ích điều trị thuốc kháng đông và
thuốc kháng tiểu cầu và cần phải điều chỉnh theo
mức độ nặng của giảm tiểu cầu. Clopidogrel là
thuốc chọn lựa trong đơn trị liệu kháng tiểu cầu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abu-Assi E et al. (2018). Assessing the performance of the
PRECISE-DAPT and PARIS risk scores for predicting one-year
out-of-hospital bleeding in acute coronary syndrome patients.
EuroIntervention; 13(16):1914-1922.
2. Gore JM et al (2009). (Thromboc ytopenia in Patients with an
Acute Coronary Syndrome (from the Global Registry of Acute
Coronary Events [GRACE]. Am J Cardiol; 103(2):175-80.
3. Iliescu CA, Grines CL, Herrmann J et al (2016). SCAI Expert
consensus statement: Evaluation, management, and special
considerations of cardio-oncology patients in the cardiac
catheterization laboratory (endorsed by the cardiological
society of india, and sociedad Latino Americana de
Cardiologıa intervencionista). Catheter Cardiovasc Interv; 87:
E202-23.
4. McCarthy CP, Steg G, Deepak LB (2017). The management of
antiplatelet therapy in acute coronary syndrome patients with
thrombocytopenia: a clinical conundrum. European Heart
Journal, 38: 3488–3492.
5. Robert LG et al (2012). Thrombocytopenia. Am Fam Physician;
85(6):612-622.
6. Sharma A, Ferguson C, Bainey KR (2015). Thrombocytopenia
in acute coronary syndromes: etiologies and proposed
management. Can J Cardiol; 31(6): 809-11.
7. Vanessa R et al (2013). The HAS-BLED Score Has Better
Prediction Accuracy for Major Bleeding Than CHADS2or
CHA2DS-VASc Scores in Anticoagulated Patients With Atrial
Fibrillation. J Am Coll Cardiol; 62:2199–204.
8. Wiviott SD et al (2007). Prasugrel versus Clopidogrel in
Patients with Acute Coronary Syndromes. N Engl J Med; 357:
2001-2015.
9. Yusuf SW, Iliescu C, Bathina JD, Daher IN, Durand JB. (2010).
Antiplatelet therapy and percutaneous coronary intervention
in patients with acute coronary syndrome and
thrombocytopenia. Tex Heart Inst J; 37(3):336-40.
Ngày nhận bài báo: 14/08/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 18/08/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/10/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhoi_mau_co_tim_cap_tren_benh_nhan_giam_tieu_cau_bao_cao_tru.pdf