Tài liệu Nhìn lại quá trình di dân trên địa bàn xã Ia Hlốp - Huyện Chư Sê - tỉnh Gia Lai giai đoạn 1976-2018: TIN TỨC KHOA HỌC48
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ơ
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ơ
I T
R
Ư
Ờ
N
G
1. Những chủ trương
của Đảng và Nhà nước về
di dân
Sau năm 1975 để thực
hiện tốt và đồng bộ cơng tác
di dân, Nhà nước đã ban hành
nhiều văn bản pháp quy về các
Nhìn lại quá trình di dân trên địa bàn xã Ia Hlốp -
huyện Chư Sê - tỉnh Gia Lai giai đoạn 1976-2018
ThS. TRẦN THỊ THANH THUẬN
Trường THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm, Chư Sê, Gia Lai
chính sách liên quan trực tiếp
hoặc gián tiếp đến sự nghiệp
di dân như Quyết định 272/
CP ngày 3/11/1977 về ban
hành chính sách đối với hợp
tác xã mở rộng diện tích sản
xuất nơng lâm nghiệp, xây
dựng vùng kinh tế mới thực
hiện định canh định cư; Quyết
định 95/CP ngày 27/3/1980 về
chính sách xây dựng các vùng
kinh tế mới; Quyết định 72/
HĐBT ngày 13/3/1990 cụ thể
hĩa cơng tác định canh, định
Xã Ia Hlốp được thành lập vào tháng 11/1976, vốn trước đây thuộc về huyện
Chư Prơng, tỉnh Gia Lai. Năm ...
5 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 424 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhìn lại quá trình di dân trên địa bàn xã Ia Hlốp - Huyện Chư Sê - tỉnh Gia Lai giai đoạn 1976-2018, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIN TỨC KHOA HỌC48
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ơ
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ơ
I T
R
Ư
Ờ
N
G
1. Những chủ trương
của Đảng và Nhà nước về
di dân
Sau năm 1975 để thực
hiện tốt và đồng bộ cơng tác
di dân, Nhà nước đã ban hành
nhiều văn bản pháp quy về các
Nhìn lại quá trình di dân trên địa bàn xã Ia Hlốp -
huyện Chư Sê - tỉnh Gia Lai giai đoạn 1976-2018
ThS. TRẦN THỊ THANH THUẬN
Trường THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm, Chư Sê, Gia Lai
chính sách liên quan trực tiếp
hoặc gián tiếp đến sự nghiệp
di dân như Quyết định 272/
CP ngày 3/11/1977 về ban
hành chính sách đối với hợp
tác xã mở rộng diện tích sản
xuất nơng lâm nghiệp, xây
dựng vùng kinh tế mới thực
hiện định canh định cư; Quyết
định 95/CP ngày 27/3/1980 về
chính sách xây dựng các vùng
kinh tế mới; Quyết định 72/
HĐBT ngày 13/3/1990 cụ thể
hĩa cơng tác định canh, định
Xã Ia Hlốp được thành lập vào tháng 11/1976, vốn trước đây thuộc về huyện
Chư Prơng, tỉnh Gia Lai. Năm 1981, huyện Chư Sê thành lập, xã Ia Hlốp được
sáp nhập vào huyện Chư Sê. Đây là vùng đất rất được thiên nhiên ưu đãi với
diện tích tự nhiên khá rộng: 4.266,22 ha, trong đĩ phần lớn là đất Bazan màu
mỡ ở độ cao khoảng 400 m - 500 m so với mặt biển, khí hậu nhiệt đới giĩ mùa
cao nguyên đã tạo ra hai mùa mưa, khơ rõ rệt với lượng mưa trung bình từ 1.750
- 2.100 mm, nhiệt độ trung bình năm là 22 - 25OC, chạy dọc theo địa bàn xã cĩ
hai con suối Ia Blin và Ồ Lơ với nguồn nước dồi dào rất thích hợp cho những
cây cơng nghiệp lâu năm cĩ giá trị kinh tế cao như cà phê, hồ tiêu và cao su.
Chính điều kiện tự nhiên thuận lợi đĩ đã biến nơi này trở thành vùng đất lý tưởng
cho nhiều hộ gia đình khắp mọi miền tổ quốc. Vì vậy, từ sau ngày miền Nam
giải phĩng, đất nước thống nhất, mảnh đất này đã chứng kiến nhiều luồng di
dân diễn ra. Quá trình di dân kéo dài đĩ đã gĩp phần khơng nhỏ làm cho mảnh
đất Ia Hlốp hoang sơ, nghèo nàn, lạc hậu trở mình mạnh mẽ. Tuy nhiên hiện
tượng nào cũng cĩ tính hai mặt của nĩ, bên cạnh những tác động tích cực thì
di dân cũng để lại những yếu tố tiêu cực. Do đĩ, việc nghiên cứu và tìm hiểu
về quá trình di dân tại địa bàn xã Ia Hlốp mang tính cấp thiết, nhằm khơi phục
một cách hồn chỉnh về bức tranh lịch sử của quá trình di dân, qua đĩ đánh giá
được những đĩng gĩp của lực lượng di dân đối với sự phát triển kinh tế xã hội
và an ninh quốc phịng của địa phương, đồng thời thấy được những khĩ khăn
mắc phải do vấn đề di dân tạo ra.
TIN TỨC KHOA HỌC 49
S
Ố
0
2
N
Ă
M
2
0
19
cư; Thơng báo 47/VPCP ngày
13/5/1997 về việc giải quyết
cho dân đi xây dựng kinh tế
mới và các biện pháp ngăn
chặn dân di cư tự do; Quyết
định 138/2000/QĐ- TTg ngày
29/11/2000 hợp nhất dự án
định canh, định cư và chương
trình phát triển kinh tế, xã
hội các xã đặc biệt khĩ khăn
miền núi và vùng sâu, vùng
xa; chỉ thị số 660/TTg ngày
17/10/1995 để giải quyết vấn
đề di dân tự do; Quyết định
190/2003/QĐ - TTg về chính
sách di dân thực hiện quy
hoạch, bố trí dân cư giai đoạn
2003 - 2010. Các văn bản này
đã tạo ra khuơn khổ pháp lý để
giải quyết những vấn đề cụ thể
về di dân cho các địa phương
trong cả nước.
Thực hiện chủ trương của
Đảng và Nhà nước về cơng
tác di dân nhằm điều hịa lại
lao động trong cả nước, đưa
miền núi tiến kịp với miền
xuơi, kết hợp xây dựng kinh tế,
củng cố an ninh quốc phịng,
Ủy ban nhân dân tỉnh Gia
Lai - Kon Tum đã thành lập ra
các cơ quan chuyên mơn để
đảm trách cơng tác này: Ngày
27/10/1975 thành lập Ban
định canh định cư tỉnh Gia
Lai - Kon Tum trực thuộc ủy
ban nhân tỉnh, ngày 8/12/1978
thành lập Ban kinh tế mới tỉnh
Gia Lai - Kon Tum trực thuộc
Ủy ban nhân dân tỉnh trên
cơ sở Ban Định canh định cư
tỉnh, đồng thời tại các huyện
Mang Yang và Chư Prơng cũng
thành lập Ban Định canh định
cư và Ban Kinh tế mới để trực
tiếp tiến hành cơng tác định
canh định cư cho đồng bào
dân tộc thiểu số và đĩn dân
kinh tế mới.
2. Di dân trên địa bàn xã
Ia Hlốp (1976 - 2018)
2.1. Di dân kinh tế mới
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp
của Ban định canh định cư và
Ban kinh tế mới của huyện
Chư Prơng, trên địa bàn xã Ia
Hlốp ngày nay đã thành lập
Điểm 4 Kinh tế mới và “lần lượt
tiếp nhận các đợt di dân xây
dựng vùng kinh tế mới tạo ra
nguồn nhân lực bổ sung cho
địa phương”[3, tr.35].
Điểm 4 kinh tế mới gồm
điểm 4A và điểm 4B. Điểm 4A
được thành lập năm 1977 để
đĩn dân kinh tế mới từ huyện
An Nhơn của tỉnh Nghĩa Bình
và huyện Hương Phú của tỉnh
Bình Trị Thiên với 493 hộ, 1.472
khẩu, 987 lao động. Điểm 4B
được thành lập vào cuối năm
TIN TỨC KHOA HỌC50
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ơ
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ơ
I T
R
Ư
Ờ
N
G 1979 để đĩn dân kinh tế mới
từ huyện Hương Phú của tỉnh
Bình Trị Thiên với 282 hộ, 1.315
khẩu và 550 lao động.
Với nguồn lao động đơng
đảo, cần cù, hăng say cộng
thêm sự động viên, quan
tâm, đầu tư kịp thời của Đảng,
Nhà nước được tăng lên theo
các năm, dân kinh tế mới tại
Điểm 4 đã bước đầu ổn định
cuộc sống, bắt tay vào sản
xuất. Tuy nhiên do hồn cảnh
kinh tế đất nước sau ngày giải
phĩng cịn nhiều khĩ khăn,
bước đầu số vốn đầu tư của
nhà nước chưa đầy đủ, kịp
thời, đời sống thiếu thốn mọi
mặt, đường sá đi lại khĩ khăn,
trường học xuống cấp nghiêm
trọng, các em phải học trong
những ngơi nhà tranh tạm bợ,
mâu thuẫn đất đai giữa dân và
nơng trường cao su chưa kịp
giải quyết đã ảnh hưởng rất
lớn đến tâm lý của người lao
động, nhiều hộ đã khơng vượt
qua được những khĩ khăn
trước mắt tự ý bỏ đi.
Để khắc phục tình trạng
trên, Ủy ban nhân dân tỉnh đã
kịp thời ban hành chỉ thị 08
về việc “Ngừng tiếp nhận dân
kinh tế mới trên địa bàn tỉnh
trong 2 năm (1989 - 1990), tập
trung củng cố các điểm kinh
tế mới đã đĩn dân đi vào ổn
định, từng bước cải thiện và
nâng cao đời sống cho đồng
bào kinh tế mới, tạo thế ổn
định về kinh tế xã hội, làm
cơ sở cho việc tiếp nhận dân
kinh tế mới những năm sau”
[7, tr.7] Thực hiện chỉ thị 08 của
rộ, liên tục. Số dân di cư tự do
đến địa bàn xã Ia Hlốp chủ yếu
là người Kinh, thơng thường
cĩ các đối tượng sau:
Đối tượng cĩ khả năng
kinh tế từ các nơi khác đến
mua đất phát triển sản xuất.
Những người nghèo khĩ
khơng cĩ đất đai sản xuất,
khơng cĩ việc làm, đến đây
chủ yếu làm thuê.
Ngồi ra cịn cĩ số lượng
khơng đáng kể từ thành phần
trốn tránh nghĩa vụ, trộm cắp,
tiền án, tiền sự.
Từ năm 1980 đã bắt đầu
những đợt di dân tư do rãi rác.
Dịng di dân này thật sự diễn
ra mạnh mẽ nhất là từ năm
1990 đến năm 2005, trong
khoảng 15 năm này đã cĩ 185
hộ, 574 nhân khẩu từ khắp mọi
miền đất nước di dân đến địa
bàn xã Ia Hlốp, trong đĩ chiếm
số lượng đơng là người dân từ
Bình Định, Huế, Đăk Lăk, Nghệ
An, Thanh Hĩa. Từ 2006 đến
2015 tình trạng di dân đến
nơi đây giảm dần và dừng lại
một thời gian. Năm 2006 chỉ
cĩ 12 hộ với 39 nhân khẩu,
năm 2007 cĩ 15 hộ với 42 nhân
khẩu, từ 2008 cho đến 2015
thì gần như vắng bĩng dân
di cư tự do. Từ năm 2016 đến
năm 2018, dân di cư tự do xuất
hiện trở lại nhưng chủ yếu là từ
các xã và thị trấn trên địa bàn
huyện di cư đến do tác động
của yếu tố kết hơn và điều kiện
học hành của con em, cịn từ
các địa phương ngồi huyện,
tỉnh thì khơng đáng kể. Năm
2016: cĩ 69 hộ với 123 nhân
Ủy ban nhân dân tỉnh và cơng
văn số 04/ĐĐ-LĐ và số 05/ĐĐ-
LĐ-KH của chi cục điều động
lao động. Từ 1989 - 1990, Ban
đinh canh định cư và Ban kinh
tế mới huyện Chư Sê đã đề ra
phương hướng củng cố Điểm
4 kinh tế mới, cụ thể:
Vận động nhân dân đĩng
gĩp kinh phí sửa chữa trạm
xá, trụ sở diện tích 211m2 trị
giá 11 triệu đồng trong năm
1989, phát động phong trào
nhà nước và nhân dân cùng
làm để sửa chữa 3 lớp học trị
giá 11 triệu đồng, xây dựng
mở rộng 3 lớp mới trị giá 18
triệu đồng, làm lại cầu Ia Hlốp
để giao lưu giữa Ia Hlốp với Ia
Ko, xây dựng đập nước làng Á
với giá trị tồn bộ là 100 triệu
đồng.
Qua 2 năm tiến hành
củng cố, nhờ sự quan tâm đầu
tư kịp thời của nhà nước, sự tự
nguyện đĩng gĩp và hỗ trợ
cơng sức của tồn thể nhân
dân, Điểm 4 kinh tế mới đã dần
dần ổn định trở lại, làm nền
tảng vững chắc cho những
hộ dân kinh tế mới yên tâm
tư tưởng, kiên quyết bám trụ,
xây dựng cuộc sống mới trên
vùng đất đầy nắng và giĩ này.
2.2. Di dân tự do
Song song với di cư theo
kế hoạch, cịn cĩ luồng dân
di cư tự do, số dân di cư này
khơng do nhà nước hay một
tổ chức kinh tế - xã hội nào
bảo trợ và đầu tư. So với các xã
trên địa bàn huyện Chư Sê thì
làn sĩng dân di cư tự do đến
xã Ia Hlốp khơng diễn ra rầm
TIN TỨC KHOA HỌC 51
S
Ố
0
2
N
Ă
M
2
0
19khẩu. Năm 2017 cĩ 57 hộ với
65 nhân khẩu. Năm 2018 cĩ 47
hộ với 60 nhân khẩu. Đáng nĩi
ở đây là nếu giai đoạn 1990 -
2005 mỗi hộ dân di cư tự do
đến xã Ia Hlốp thường mang
theo 3 - 4 nhân khẩu nhưng
trong giai đoạn từ 2016 - 2018
mỗi hộ dân di cư đến đây chỉ
cĩ trung bình từ 1-2 nhân khẩu
và phần lớn là tự ổn định sản
xuất tại chỗ.
Mặc dù luồng di dân tự
do đến xã Ia Hlốp khơng diễn
ra “mạnh mẽ với cường độ lớn,
liên tục và kéo dài về thời gian”
như các xã khác trên địa bàn
huyện nhưng đã nĩ cũng đã
“phá vỡ quy hoạch, kế hoạch
phát triển sản xuất nhất là kế
hoạch định canh định cư đối
với đồng bào dân tộc thiểu
số” [4, tr. 2], bên cạnh đĩ cịn
gây ra khĩ khăn và phức tạp
cho việc quản lý xã hội tại địa
phương, sự quá tải đối với
cơng trình giáo dục và y tế.
3. Tác động
3.1. Tác động tích cực
Với quá trình di dân từ
sau 1975 đến nay đã đưa một
lượng lao động đồ sộ lên xã Ia
Hlốp, tính đến năm 2016 “số
người trong độ tuổi lao động
là 4.461 người, chiếm 47,07%
số dân tồn xã”[5, tr.1]. Đây
là nhân tố quan trọng thúc
đẩy sự chuyển biến mạnh
mẽ vùng đất này. Bên cạnh
đĩ những luồng di dân đến
địa bàn huyện Chư Sê cịn
gĩp phần to lớn làm thay
đổi cơ bản kĩ thuật canh tác,
sản xuất, lối sống của cư dân
bản địa Jarai và Bahnar. Trước
đây người đồng bào thiểu số
tại địa phương quen lối sống
du canh du cư, tự cấp tự túc,
phát nương làm rẫy phụ thuộc
hồn tồn vào thiên nhiên với
kĩ thuật canh tác lạc hậu, cơng
cụ thơ sơ. Qua nhiều năm tiếp
xúc với những cư dân nhập cư,
giờ đây các tộc người thiểu số
trên địa bàn xã Ia Hlốp đã biết
thâm canh tăng vụ, chuyển đổi
cây trồng, vật nuơi cho phù
hợp và áp dụng khoa học kĩ
thuât vào trong sản xuất.
Chính với bàn tay cần cù,
khối ĩc sáng tạo của người
dân đến từ mọi miền đất nước
trải qua những ngày tháng
gian khĩ với bao nhiêu thăng
trầm của thời cuộc đã làm
cho vùng đất này vươn lên và
phát triển mạnh mẽ về kinh
tế và xã hội: Diện tích canh
tác khơng ngừng được mở
rộng, năm 2009 là 1.182,2 ha
thì đến năm 2018 mở rộng ra
1.685 ha, trong đĩ tăng nhanh
nhất là diện tích trồng cây
cơng nghiệp dài ngày cĩ giá
trị kinh tế, năm 2009 chỉ cĩ 907
ha thì đến 2018 lên đến 1.116
ha. Cùng với đĩ là đời sống
nhân khơng ngừng được cải
thiện và nâng cao, nếu trước
năm 1980 đời sống vơ cùng
khĩ khăn, thiếu đĩi thường
xuyên xảy ra nhất là lúc giáp
hạt, hộ nghèo chiếm gần 50%
thì tính đến năm 2018 số hộ
nghèo trên tồn xã chỉ cịn 80
hộ chiếm 3,47%, số hộ khá và
giàu khơng ngừng tăng lên
theo hàng năm đặc biệt là các
hộ đồng bào Jrai và Bahnar.
Di dân khơng chỉ đơn
thuần là dịch chuyển lao động
mà cịn là quá trình giao lưu
văn hĩa giữa các cộng đồng
cĩ đặc trưng văn hĩa khác
nhau. Người nhập cư đến nơi
mới khơng chỉ để tạo kế sinh
nhai mà cịn du nhập vào đây
những nét văn hĩa riêng của
vùng, miền, quê hương họ.
Chính sự pha trộn, hịa nhập
giữa nền văn hĩa bản địa
mang đậm chất Tây Nguyên
với những nét đặc trưng văn
hĩa người Kinh ở vùng đồng
bằng Bắc Bộ, đồng bằng Trung
bộ, đồng bằng Nam bộ và
những sắc thái văn hĩa của các
tộc người thiểu số như người
Mường, Tày làm phong phú
thêm đời sống văn hĩa của các
cư dân ở xã Ia Hlốp.
Những năm đầu tiên sau
ngày miền Nam giải phĩng,
xã Ia Hlốp nĩi riêng và các xã
trên địa bàn huyện Chư Sê
nĩi chung, các thế lực phản
động được sự giúp đỡ bên
ngồi luơn tìm cách chống
phá, chúng lợi dụng các vùng
hẻo lánh, thưa dân làm địa
bàn hoạt động chống phá
chính quyền. Trước tình hình
đĩ bên cạnh đẩy mạnh cơng
tác tuyên truyền cho nhân dân
thì chính nhờ vào quá trình di
dân ồ ạt, rầm rộ của các luồng
di dân đến sinh cơ lập nghiệp
đã thu hẹp địa bàn hoạt động
của chúng, làm cho chúng e
dè, khơng dám lộ liễu cơng
khai hoạt động để từ đĩ sát
cánh với lực lượng vũ trang và
nhân dân địa phương tại chỗ
bao vây cơ lập và tấn cơng kẻ
TIN TỨC KHOA HỌC52
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ơ
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ơ
I T
R
Ư
Ờ
N
G thù, từng bước bĩc gỡ các đối
tượng FULRO đem lại cuộc
sống bình yên cho nhân dân.
3.2. Tác động tiêu cực
Quá trình di dân ồ ạt đã
làm cho dân số trên địa bàn
xã tăng lên nhanh chĩng(tính
đến. Năm 2018 là hơn 12.000
người) trong khi quỹ đất thì
khơng thay đổi, điều đĩ đã
làm cho diện tích đất canh
tác bị thu hẹp tương ứng với
số lượng cư dân cĩ mặt, gây
nên sức ép sinh kế đối với
một bộ phận lớn các dân tộc
thiểu số sống lâu đời ở đây,
dẫn đến tình trạng mâu thuẫn
và tranh chấp đất đai giữa các
cộng đồng dân cư tác động
khơng nhỏ đến tình hình an
ninh chính trị tại địa phương,
tạo khe hở cho các thế lực
thù địch lợi dụng lơi kéo, kích
động, chống phá.
Quá trình di dân đã làm
gia tăng phân hĩa giàu nghèo,
bất bình đẳng và chất lượng
sống thấp, tạo ra áp lực quá
tải đến hệ thống cơ sở hạ tầng,
dịch vụ sinh hoạt vốn yếu kém
và lạc hậu.
Phần lớn những đối
tượng tham gia vào các luồng
di dân đặc biệt là di dân tự
do đa phần là những người
nghèo khĩ, khơng cĩ đất đai
sản xuất tìm lên đây để làm
thuê chủ yếu theo mùa vụ,
ngồi ra cịn cĩ đối tượng trốn
tránh nghĩa vụ, trộm cắp, tiền
án, tiền sự, cĩ lệnh truy nã, lại
bao gồm nhiều dân tộc, nhiều
địa phương khác nhau, nếp
sống tập quán khác nhau đã
gây khĩ khăn rất lớn đến cơng
tác giữ gìn an ninh trật tự tại
địa phương.
4. Bài học kinh nghiệm
Thứ nhất, cần đầu tư phát
triển kinh tế xã hội một cách
cĩ hiệu quả cho các tỉnh cĩ
luồng di dân, vì theo kết quả
nghiên cứu thì hầu hết các
luồng di dân từ di dân cĩ kế
hoạch hay di dân tự do đều
xuất phát từ nguyên nhân kinh
tế. Vì vậy nếu điều kiện sinh
hoạt làm ăn tại địa phương
được đảm bảo thì đây là biện
pháp hữu hiệu để ngăn cản
việc di dân đặc biệt là di dân
tự do.
Thứ hai, việc bố trí dân
cư ở địa bàn nơi dân đến nên
tổ chức theo cụm, theo tuyến
gắn với địa bàn nơi dân đi,
điều này sẽ tạo điều kiện ban
đầu cho sinh hoạt cộng đồng
và giúp đỡ hỗ trợ nhau lúc
khĩ khăn, khơng được bố trí
tùy tiện sẽ dẫn đến xung đột
giữa các cộng đồng di dân
ảnh hưởng đến trật tự anh
ninh xã hội tại địa phương nơi
dân đến.
Thứ ba, cần phải đổi mới
chính sách di dân theo hướng
xĩa bỏ dần tính bao cấp, thực
hiện mạnh xã hội hĩa cơng tác
di dân, phát huy tối đa nội lực
trong dân, bên cạnh nguồn
vốn của Nhà nước cần huy
động nguồn vốn của tư nhân,
nguồn vốn quốc tế...
Như vậy trải qua quá trình
di dân lâu dài hơn 40 năm đã
cung cấp nguồn lao động
dồi dào cho xã Ia Hlốp, gĩp
phần thúc đẩy sự phát triển
mạnh mẽ và tồn diện cho
mảnh đất cao nguyên này, tuy
nhiên cũng để lại những hệ
lụy khơng nhỏ, sự gia tăng đột
biến về dân số mà chủ yếu là
gia tăng cơ học đã phá vỡ quy
hoạch, gây ra tình trạng quá
tải với hệ thống cơ sở hạ tầng,
tạo nên sức ép về vấn đề giáo
dục, y tế, sự phức tạp trong
quản lý xã hội. Tất cả những
vấn đề trên đã đặt ra những
thách thức rất lớn cho sự phát
triển ổn định và tồn diện của
xã Ia Hlốp, địi hỏi các các cấp
và ban ngành cĩ liên quan cần
phải cĩ những biện pháp thiết
thực để tháo gỡ nút thắt của
vấn đề nhằm tạo điều kiện cho
Ia Hlơp phát triển cền vững./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đặng Nguyên Anh(2006),
Chính sách di dân trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh
miền núi, Nxb thế giới, Hà Nội.
[2] Đặng Nguyên Anh(2014),
Đặc trưng dân số và di dân ở Tây
Nguyên, số 3 (156), tạp chí dân số Việt.
[3] Ban chấp hành Đảng bộ
huyện Chư Sê (2011), Lịch sử Đảng
bộ huyện Chư Sê(1945 - 2010), Nxb
chính trị quốc gia - sự thật.
[4] Uỷ ban nhân dân huyện
Chư Sê, 2001, Báo cáo tình hình dân
di cư tự do.
[5] Ủy ban nhân dân xã Ia Hlơp,
2009, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội
năm 2009 và phương hướng nhiệm
vụ phát triển kinh tế xã hội năm 2010.
[6] Ủy ban nhân dân xã Ia Hlơp,
2009, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội
năm 2018 và phương hướng nhiệm
vụ phát triển kinh tế xã hội năm 2019.
[7] Ủy ban nhân dân tỉnh Gia
Lai, 2007, Báo cáo tình hình thực hiện
các chính sách dân tộc từ năm 2002
- 2007 trên địa bàn tỉnh Gia Lai, tr. 7
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 51_8881_2207557.pdf