Tài liệu Nhân xét về viêm túy cấp sau nội soi mật tụy ngược dòng: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
** Bộ môn Ngoại TQ Đại Học Y Dược TPHCM, BV NDGĐ TPHCM
NHẬN XÉT VỀ VIÊM TỤY CẤP SAU NỘI SOI MẬT TỤY NGƯỢC DÒNG
Đỗ Đình Công*, Võ Duy Long**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nội soi mật tụy ngược dòng (ERCP) có giá trị trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý mật
và tụy. Biến chứng thường gặp nhất và quan tâm nhất là viêm tụy cấp. Chẩn đoán viêm tụy cấp sau
ERCP thường khó khăn. Nghiên cứu này góp phần đánh giá tính an toàn của ERCP.
Phương pháp: Hồi cứu, mô tả 125 bệnh nhân được làm ERCP tại bệnh viện NDGĐ và trung tâm
chẩn đoán Y khoa - Medic TPHCM từ 1/2001 đến 4/2004.
Kết quả: 33 bệnh nhân được làm ERCP để chẩn đoán, 92 bệnh nhân để điều trị với 90 trường hợp
có cắt cơ vòng. Tỉ lệ viêm tụy cấp sau ERCP là 10,4 % (13/125). Sau ERCP 4 - 6 giờ có 60 trường hợp
được định lượng amylase...
5 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 04/07/2023 | Lượt xem: 367 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân xét về viêm túy cấp sau nội soi mật tụy ngược dòng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
** Bộ môn Ngoại TQ Đại Học Y Dược TPHCM, BV NDGĐ TPHCM
NHẬN XÉT VỀ VIÊM TỤY CẤP SAU NỘI SOI MẬT TỤY NGƯỢC DÒNG
Đỗ Đình Công*, Võ Duy Long**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nội soi mật tụy ngược dòng (ERCP) có giá trị trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý mật
và tụy. Biến chứng thường gặp nhất và quan tâm nhất là viêm tụy cấp. Chẩn đoán viêm tụy cấp sau
ERCP thường khó khăn. Nghiên cứu này góp phần đánh giá tính an toàn của ERCP.
Phương pháp: Hồi cứu, mô tả 125 bệnh nhân được làm ERCP tại bệnh viện NDGĐ và trung tâm
chẩn đoán Y khoa - Medic TPHCM từ 1/2001 đến 4/2004.
Kết quả: 33 bệnh nhân được làm ERCP để chẩn đoán, 92 bệnh nhân để điều trị với 90 trường hợp
có cắt cơ vòng. Tỉ lệ viêm tụy cấp sau ERCP là 10,4 % (13/125). Sau ERCP 4 - 6 giờ có 60 trường hợp
được định lượng amylase máu, 20 trường hợp (33,3 %) amylase máu tăng trên 5 lần (> 430 U/L). Trước
ERCP có 25 bệnh nhân (20%) viêm tụy cấp. Trong số này, có 2 trường hợp (8,0%) viêm tụy cấp còn diễn
tiến sau ERCP. Bệnh cảnh trước ERCP, chẩn đoán của ERCP, xữ trí ERCP, thao tác khó khăn, thời gian
thực hiện ERCP không có sự liên quan với tăng amylase máu sau ERCP. Trong những trường hợp viêm
tụy cấp: nôn (46,2%), chướng bụng (30,7%). Điều trị viêm tụy cấp sau ERCP là nội khoa.
Kết luận: ERCP không làm nặng thêm tình trạng viêm tụy cấp có từ trước. Tỉ lệ viêm tụy cấp khi có cắt
cơ vòng thấp hơn so với không cắt. Thực hiện amylase máu sau ERCP 4 giờ để phát hiện viêm tụy cấp.
SUMMARY
REMARKS ON PANCREATITIS FOLLOWING ENDOSCOPIC RETROGRADE
CHOLANGIOPANCREATOGRAPHY
Do Dinh Cong, Vo Duy Long * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 9 * Supplement of No 1 * 2005: 33 – 37
Background: Endoscopic retrograde cholangiopancreatography (ERCP) is a procedure that is useful
in the diagnosis and therapy of a variety of biliary and pancreatic diseases. Pancreatitis is the most
common and significant complication. Diagnosis of post-ERCP pancreatitis is not easy. This study
contributes to evaluate the safety of ERCP.
Methods: Retrospective, descriptive study of 125 cases were performed ERCP at NDGD hospital and
Medic center HCM city from 1/2001 to 4/2004.
Results: Of 125 ERCPs performed, 33 (26,4%) were diagnostic and 92 (73,6%) therapeutic
procedures. The percentage of post –ERCP pancreatitis is 10,4% (13/125). Quantified amylasemia after
ERCP 4 – 6 hours were performed in 60 cases (48,0%), in which 20 cases (33,3%) were hyperamylasemia
(> 430U/L). Pancreatitis pre-ERCP were 25 cases (20,0%) and still progressive in 2 cases (8,0%). There
were no relation between post-ERCP hyperamylasemia and clinical manifestations as well as diagnosis of
ERCP, difficult manipulation or duration of performing ERCP. Treatment of post-ERCP pancreatitis is
preserved.
Conclutions: ERCP does not aggravate the previous pancreatitis. Post-ERCP pancreatitis in
sphinterotomy is lower than in no-sphinterotomy. Amylasemia is quantified in 4 -6 hours after ERCP to
discover pancreatitis.
* Bộ môn Ngoại TQ Đại Học Y Dược TPHCM, Trưởng khoa Ngoại Tiêu hoá -Gan mật BV NDGĐ TPHCM
33
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nội soi mật tụy ngược dòng (Endoscopic
retrograde cholangiopancreatography ERCP) là một
thủ thuật có giá trị cả trong chẩn đoán cũng như điều
trị bệnh lý mật và tụy. Tuy nhiên, có không ít biến
chứng liên quan đến thủ thuật này. Viêm tụy cấp là
biến chứng thường gặp nhất (5-10%)(6,8,10,11,14) và
thường được quan tâm nhiều nhất. Viêm tụy cấp có
thể diễn tiến nặng, kéo dài thời gian nằm viện thậm
chí có thể tử vong(1). Viêm tụy cấp sau ERCP thường
khó chẩn đoán, các triệu chứng lâm sàng nghèo nàn,
trùng lấp nhau. Có nhiều quan điểm khác nhau, chưa
thống nhất trong điều trị viêm tụy cấp sau ERCP.
Chúng tôi thực hiện đề tài này để góp phần đánh
giá tính an toàn của thủ thuật này.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Xác định tỉ lệ viêm tụy cấp xảy ra sau ERCP
Đánh giá bệnh cảnh lâm sàng của viêm tụy cấp
sau ERCP.
Đánh giá diễn tiến và hiệu quả điều trị viêm tụy
cấp sau ERCP.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Thiết kế nghiên cứu
Hồi cứu, mô tả.
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân của bệnh viện Nhân Dân Gia Định
được làm ERCP tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định hay
tại trung tâm chẩn đoán Y khoa - Medic TPHCM từ
1/2001 đến 4/2004.
Tiêu chuẩn loại trừ: những bệnh nhân có tổn
thương đường mật và tá tràng trong khi thực hiên
thủ thuật ERCP.
Tiêu chuẩn chẩn đoán viêm tụy cấp sau ERCP là:
đau bụng kéo dài trên 24 giờ sau ERCP và Amylase
máu sau ERCP tăng gấp 5 lần (> 430 U/L).
Số liệu thu thập được xữ lý bằng phần mềm
SPSS 11.5, phép kiễm Chi-bình phương (có ý nghĩa
khi p < 0,05).
KẾT QUẢ
Trong thời gian từ 1/2001 đến 4/2004, có 125
bệnh án được làm ERCP thỏa mãn các tiêu chuẩn
chọn bệnh.
Tỉ lệ: nam / nữ = 2/3.
Tuổi: nhỏ nhất: 19, lớn nhất: 94, trung bình:
56,16 (bảng 1)
Bảng 1: phân bố tuổi
=61
22 16 11 11 65
Đa số bệnh nhân ở độ tuổi trên 50.
Bệnh cảnh lâm sàng trước ERCP: (bảng 2)
Bảng 2: bệnh cảnh lâm sàng trước ERCP
Bệnh cảnh lâm sàng trước ERCP N (%)
Nhiễm trùng đường mật (tam chứng Charcot) 58 (46,4)
Cơn đau quặn gan (đau bụng +/- vàng da,
không sốt)
49 (39,2)`
Tắc mật ngoài gan 13 (10,4)
Sót sỏi sau mổ 5 (4,0)
Trong số này có 25 t/h (20,0%) được chẩn đoán
viêm tụy cấp, trong đó 15 t/h được làm ERCP sau đau
bụng 2 ngày, 6 t/h được làm sau đau bụng 3 ngày, 3
t/h được làm sau 4 ngày và 1 t/h sau 5 ngày.
Trong 125 t/h của chúng tôi, có 33 t/h (26,4%)
được làm ERCP để chẩn đoán; 92 t/h (73,6%) để điều
trị: 90 t/h (72,0%) có cắt vơ vòng Oddi, 2 t/h (1,6%)
đặt stent đường mật.
Sau khi thực hiện ERCP có 13 t/h (10,4%) được
chẩn đoán viêm tụy cấp. Tuy nhiên, những triệu
chứng kèm theo đau bụng như nôn và chướng bụng
xuất hiện sau ERCP chiếm tỉ lệ không cao với: nôn 6
t/h (46,2%) và chướng bụng 4 t/h (30,8%).
Có 60 trường hợp đau bụng sau ERCP hay thao
tác khó khăn khi thực hiện ERCP được thử amylase
máu và / hoặc niệu. Đa số được thử sau khi làm thủ
thuật từ 4-6 giờ. Chúng tôi có kết quả như sau: (bảng
3)
Bảng 3: Amylase máu sau ERCP
Amylase máu sau khi ERCP N (%)
Tăng trên 5 lần (> 430 U/L) 20 (33,3%)
Không tăng (< 430 U/L) 40 (66,7%)
Ở 13 t/h viêm tụy cấp sau ERCP, xuất độ viêm tụy
34
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
cấp liên quan đến thủ thuật ERCP và ES như bảng 4:
Bảng 4: Xuất độ viêm tụy cấp sau ERCP kèm theo
thủ thuật:
Xữ trí khi ERCP N (%)
Cắt cơ vòng, lấy sỏi 8 (8,9%)
Chỉ ERCP, không ES 5 (15,2%)
Ở những trường hợp có amylase máu tăng chúng
tôi có những phương thức điều trị nội khoa như sau:
(bảng 5)
Bảng 5: Nội dung điều trị trong những trường hợp có
Amylse máu tăng
Điều trị nội khoa N (%)
Đặt levin 5 (38,5%)
Nhịn ăn uống 8 (61,5%)
Dùng thuốc ức chế bơm proton (Losec) hay ức
chế H2 (Zantac)
8 (61,5%)
Dùng thuốc chống co thắt 5 (38,5%)
Dùng Sandostatine 3 (23,1%)
Trong 7 t/h có tăng amylase máu nhưng không
đau bụng sau ERCP thì 4 t/h được cắt cơ vòng, 2 t/h
chỉ chụp ERCP, 1 t/h đặt stent đường mật. Đa số các
trường hợp này không điều trị gì, chỉ có 2 t/h dùng
thuốc chống co thắt, 1 t/h dùng ức chế H2. Tất cả 20
trường hợp có tăng amylase máu trên đây đều diễn
tiến ổn định, bệnh nhân được xuất viện sau 2 - 5
ngày điều trị.
Ở 25 t/h viêm tụy cấp trước ERCP, có 11 t/h
(44,0%) được làm amylase máu sau ERCP. Trong đó
có 3 t/h (12,0%) amylase máu tăng trên 5 lần, nhưng
chỉ có 2 t/h bệnh nhân kèm đau bụng.
Sự liên quan giữa thời gian thực hiện ERCP với
tình trạng viêm tụy cấp sau ERCP như sau: (bảng 6)
Bảng 6: Liên quan giữa thời gian thực hiện ERCP và
viêm tụy cấp sau ERCP
Thời gian <= 30 phút 31 – 60 phút Trên 60 phút
Số ca thực
hiện (%)
37 (29,6%) 70 (56,0%) 18 (14,4%)
Viêm tụy cấp 3 (8,1%) 8 (11,4%) 2 (11,1%)
Sau ERCP, có 16 t/h được mổ lại vì những
nguyên nhân khác nhau, không có trường hợp nào
mổ lại vì viêm tụy cấp.
BÀN LUẬN
Có nhiều tiêu chuẩn khác nhau trong việc chẩn
đoán viêm tụy cấp sau ERCP. Theo Testoni(6) và
Thomas(14), bệnh nhân đau bụng kéo dài trên 24 giờ
sau ERCP kết hợp với Amylase máu cao gấp 3 lần thì
chẩn đoán là viêm tụy cấp, được theo dõi và điều trị.
Theo tiêu chuẩn này, chúng tôi có 22 trường hợp
(17,6%). Tuy nhiên, đa số các trường hợp tình trạng
đau bụng sẽ giảm và mất đi sau 1 - 2 ngày và bệnh
nhân được xuất viện mà không cần điều trị gì. Còn
theo đa số các tác giả(7,9,11,12,13), bệnh nhân đau bụng
kéo dài trên 24 giờ sau ERCP và Amylase máu tăng
trên 5 lần thì mới được chẩn đoán viêm tụy cấp. Với
tiêu chuẩn này, chúng tôi có 13 trường hợp (10,4%).
Các bệnh nhân này được điều trị như tình trạng viêm
tụy cấp. So sánh xuất độ này của chúng tôi với các tác
giả khác trong bảng 7:
Bảng 7: Xuất độ viêm tụy cấp sau ERCP
Tác giả Tỉ lệ viêm tụy cấp (%)
Lê Quang Quốc Aùnh(1,2) 2,8 – 3,4
La Văn Phương(4) 0,65
Nguyễn Khánh Trạch(3) 5,9
Freeman(10) 6,7
Thomas(14) 3,8
Vandervoort(8) 7,2
Christoforidis(9) 3,3
Chúng tôi 10,4
Tỉ lệ của chúng tôi có cao hơn các tác giả khác.
Có thể, do phần lớn bệnh nhân của chúng tôi được
làm thủ thuật ERCP để điều trị. Số trường hợp có sỏi
ở đoạn cuối hoặc hẹp OMC cần phải điều trị cao 92
t/h (73,6%).
Bằng phép kiễm Chi-bình phương, chúng tôi
thấy không có sự liên quan giữa bệnh cảnh trước
ERCP, chẩn đoán của ERCP, cách xữ trí khi thực hiện
ERCP, thời gian thực hiện ERCP hay thao tác khó
khăn khi thực hiện ERCP với tình trạng tăng amylase
máu sau ERCP (p> 0.05). Tuy nhiên, có 4/58 t/h
(7%) viêm tụy cấp khi cắt cơ vòng và lấy hết sỏi, 2/19
t/h (10,5%) cắt cơ vòng lấy sỏi nhưng còn sót, 2/13 t/h
(15,4%) chỉ có cắt cơ vòng, 5/33 t/h (15,2%) chỉ
ERCP, nếu tính chung thì có 8/90 (8,9%) viêm tụy
cấp liên quan đến cắt cơ vòng. Theo Christoforidis
(9), những bệnh nhân dưới 50 tuổi, bệnh sử viêm tụy
tái diễn, vôi hóa ống tụy, đặt guidewire vào OMC khó
khăn là những yếu tố nguy cơ cho viêm tụy cấp hay
35
tăng amylase máu sau ERCP. Theo chúng tôi, những
trường hợp thực hiện ERCP kéo dài, thao tác khó
khăn, không lấy được hết sỏi hay chỉ chụp ERCP thì
nên theo dõi viêm tụy cấp.
Theo Christoforidis(9), trong 556 trường hợp
thực hiện ERCP có 3,3% (17/556) viêm tụy cấp sau
ERCP và 16,5% (85/556) tăng amylase máu đơn
thuần. Theo Testoni(12), có 6,3 % (26/409) trường
hợp tăng amylase máu sau ERCP, trong đó có 19
trường hợp diễn tiến viêm tụy cấp nhẹ và trung
bình. Theo số liệu chúng tôi, 33,3% (20/60) trường
hợp tăng amylase máu trên 5 lần (> 430 U/L),
trong đó 10,4% (13/125) là viêm tụy cấp. Tuy
nhiên, chúng tôi thử amylase máu chỉ có 48%
(60/125) trường hợp nghi ngờ.
Nhiều bác sĩ lâm sàng còn đặt câu hỏi lớn, ERCP
có làm nặng thêm tình trạng viêm tụy cấp có trước
hay không? Theo số liệu chúng tôi, trong 25 t/h viêm
tụy cấp trước ERCP, đã được thực hiện ERCP sau đau
bụng 2 ngày (15 t/h), 3 ngày (6 t/h), 4 ngày (3 t/h), 5
ngày (1 t/h). Sau ERCP có 2 trường hợp viêm tụy cấp
còn diễn tiến. Một bệnh nhân vừa có sỏi OMC vừa có
sỏi túi mật đã được cắt cơ vòng lấy hết sỏi OMC, sau
ERCP bệnh nhân còn đau bụng kéo dài, amylase máu
còn cao. Sau khi điều trị nội bệnh nhân ổn định, hết
đau bụng, amylase máu về bình thường sau 4 ngày.
Sau đó, bệnh nhân được mổ cắt túi mật nội soi.
Trường hợp còn lại được chẩn đoán hẹp cơ vòng Oddi,
có bơm thuốc nhưng thuốc không vào đường mật.
Bệnh nhân này cũng được điều trị nội, sau 5 ngày hết
đau bụng, amylase máu về bình thường và xuất viện.
Như vậy, theo chúng tôi nghĩ thì ERCP không làm
tăng thêm tình trạng viêm tụy cấp đã có trước. Trái
lại, ERCP có hiệu quả cao trong điều trị viêm tụy cấp,
đặc biệt ở những trường hợp do sỏi kẹt Oddi(1,2).
Tỉ lệ viêm tụy cấp trong trường hợp có cắt cơ
vòng của chúng tôi là 8,9% (8/90), còn trong
trường hợp chỉ ERCP để chẩn đoán là 15,2 %
(5/33). Như vậy, ở những trừơng hợp có cắt cơ
vòng thì tỉ lệ viêm tụy cấp thấp hơn. Có thể phần
lớn bệnh nhân của chúng tôi có tổn thương khu
trú ở vùng bóng Vater, sau khi được cắt cơ vòng -
lấy sỏi, đã giảm áp lực trong đường mật và tụy.
Theo Christoforidis(9), tỉ lệ viêm tụy cấp liên quan
đến việc cắt cơ vòng trước là 20%, cố gắng đặt ống
thông để bơm thuốc chụp là 14,9%.
Biểu hiện lâm sàng của viêm tụy cấp sau ERCP
ngoài triệu chứng đau bụng ra, các triệu chứng khác
kèm theo với xuất độ không cao. Chúng tôi có nôn 6
t/h (46,2%), chướng bụng 4 t/h (30,7%). Như vậy,
bệnh cảnh lâm sàng của viêm tụy cấp sau ERCP
nghèo nàn. Chúng ta không nên đợi đầy đủ các triệu
chứng rồi mới làm xét nghiệm để chẩn đoán mà cần
phải làm xét nghiệm ở những bệnh nhân khi có đau
bụng hay nghi ngờ.
Chúng ta nên chọn thời điểm để thực hiện xét
nghiệm amylase máu sau ERCP như thế nào? Theo
Testoni(12), hơn 2/3 trường hợp amylase máu tăng 4
giờ sau ERCP có biểu hiện viêm tụy cấp. Còn
Thomas(14), amylase máu sau 4 giờ có độ nhạy và độ
chuyên biệt cao trong tầm soát những bệnh nhân
viêm tụy cấp sau ERCP. Cũng như thế,
Christoforidis(9), cho rằng có sự kết hợp có ý nghĩa
giữa mức amylase máu và đau bụng kiễu viêm tụy
cấp ở thời điểm 4 giờ và 24 giờ (p= 0,006). Trong
nghiên cứu của chúng tôi, đa số trường hợp được đo
lượng amylase sau ERCP từ 4 - 6 giờ. Như vậy, thời
điểm 4 giờ sau ERCP là thích hợp nhất cho việc làm
xét nghiệm để phát hiện viêm tụy cấp.
Đa số những trường hợp viêm tụy cấp sau ERCP
thường tự khỏi(8,10). Về điều trị nội khoa, chúng tôi
cho bệnh nhân nhịn ăn uống kết hợp với đặt levin
hút. Môt số kết hợp với thuốc kháng tiết, chống co
thắt (bảng 5). Thời gian điều trị thường từ 2 - 5 ngày,
sau đó bệnh nhân ổn định và xuất viện. Chúng tôi
chưa có kinh nghiệm điều trị với sandostatine. Trong
nghiên cứu này, chúng tôi chỉ sử dụng cho 3 trường
hợp viêm tụy cấp có biểu hiện đau bụng nhiều, nôn
ói, chướng bụng, amylase máu và niệu tăng cao. Thời
gian sử dụng không dài (3 ngày: 1 t/h, 2 ngày: 1 t/h, 1
ngày: 1 t/h). Tất cả đều diễn tiến tốt, bệnh nhân ổn
và xuất viện sau 5 - 7 ngày.
Để phòng ngừa viêm tụy cấp sau ERCP, theo
Tulassay(15), Testoni(16), Pandle(17), Octreotide có khả
năng làm giảm số bệnh nhân tăng amylase máu sau
36
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
ERCP, giảm mức độ nghiêm trọng của viêm tụy cấp
nhưng không làm thay đổi tần suất của viêm tụy cấp.
Theo Murray(18), Diclofenac được dùng ngay sau
ERCP có thể làm giảm nguy cơ viêm tụy cấp. Về vấn
đề này, chúng ta cần có nghiên cứu thêm.
6 Testoni PA. Why the incidence of post-ERCP
pancreatitis varies considerably? Factors affecting the
diagnosis and the incidence of this complication. JOP.
2002 Nov;3(6):195-201.
7 Sultan S, Baillie J. What are the predictors of post-
ERCP pancreatitis and how useful are they? JOP.
2002 Nov; 3(6):188-194.
8 Vandervoort J, Soetikno RM, Tham TC, et al. Risk
factors for complications after performance of ERCP.
Gastrointest Endosc. 2002 Nov;56(5):652-656.
KẾT LUẬN
Nội soi mật tụy ngược dòng có hiệu quả cao trong
chẩn đoán cũng như xữ trí các bệnh lý mật và tụy. Tỉ
lệ viêm tụy cấp sau thủ thuật là 10,4%. ERCP không
làm nặng thêm tình trạng viêm tụy cấp đã có trước.
Khi có cắt cơ vòng thì tỉ lệ viêm tụy cấp thấp hơn so
với không cắt. Bệnh cảnh lâm sàng của viêm tụy cấp
sau ERCP không đặc hiệu. Chúng ta nên thực hiện
amylase máu sau ERCP 4 giờ trong những trường
hợp có đau bụng hay nghi ngờ viêm tụy cấp để đánh
giá tình trạng viêm tụy cấp sau ERCP. Xữ trí viêm tụy
cấp sau ERCP chủ yếu là nội khoa.
9 Christoforidis E, Goulimaris I, Kanellos I, et al. Post-
ERCP pancreatitis and hyperamylasemia: patient-
related and operative risk factors. Endoscopy. 2002
Apr; 34(4):286-292.
10 Freeman ML, Disario JA, Nelson DB, et al. Risk
factors for post-ERCP pancreatitis: a prospective,
multicenter study. Gastrointest Endosc. 2001
Oct;54(4):425-434.
11 Testoni PA, Bagnolo F. Pain at 24 hours associated
with amylase levels greater than 5 times the upper
normal limit as the most reliable indicator of post-
ERCP pancreatitis. Gastrointest Endosc. 2001
Jan;53(1):33-39.
12 Testoni PA, Bagnolo F, Caporuscio S, et al. Serum
amylase measured 4 hours after endoscopic
sphincterotomy is a reliable predictor of postprocedure
pancreatitis. Am J Gastroenterol. 1999
May;94(5):1235-1241.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Lê Quang Quốc Ánh. Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật
nội soi ngược dòng trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý
mật tụy. Luận án tiến sĩ y học. Đại học Y Dược
TPHCM 1998.
13 Gottlieb K, Sherman S, Pezzi J, et al. Early
recognition of post-ERCP pancreatitis by clinical
assessment and serum pancreatic enzymes. Am J
Gastroenterol. 1996 Aug;91(8):1553-1557. 2 Lê Quang Quốc Ánh. Cắt mở cơ vòng bóng gan tụy và
lấy sỏi mật qua nội soi ngược dòng. Thời sự Y Dược
học. Tháng 2 - 1999;IV(1):6-9.
14 Thomas P, Sengupta S. Prediction of pancreatitis following
endoscopic retrograde cholangiopancreatography by the 4-
h post procedure amylase level. J Gastroenterol Hepatol.
2001(16): 923-926.
3 Nguyễn Khánh Trạch, Phạm Thị Bình, Kiều Văn
Tuấn. Đánh giá kết quả bước đầu phương pháp chụp
mật tụy ngược dòng qua nội soi trong chẩn đoán và
điều trị bệnh lý đường mật tụy tại khoa tiêu hóa bệnh
viện Bạch Mai. Nội khoa, số 2-1998:2-6.
15 Tulassay Z, Dobronte Z, Pronai L, et al. Octreotide in
the prevention of pancreatic injury associated with
endoscopic cholangiopancreatography. Aliment
Phamacol Ther 1998;12:1109-1112. 4 La Văn Phương. Đánh giá kết quả của phương pháp
nội soi mật tụy ngược dòng trong chẩn đoán và điều
trị hội chứng tắc mật cho 139 trường hợp. Nội khoa,
số 3-2001:21-25.
16 Testoni PA, Bagnolo F, Andriulli A, et al. Octreotide 24-h
prophylaxis in patient at high risk for post-ERCP
pancreatitis: results of a multicenter, randomized,
controlled trial. Aliment Phamacol Ther 2001;15:965-972. 5 Mai Thị Hội, Trịnh Hồng Sơn, Tôn Thất Bách và Cs.
Điều trị giun chui ống mật và giun chui ống tụy bằng
gắp giun qua đường nội soi ống mềm tại bệnh viện
Việt Đức. Y học thực hành, số 10 (356)-1998:26-29.
17 Pandle H, Thuluvath P. Pharmacological prevention of
post-ERCP pancreatitis. Drug 2003;63(17):1799-1812.
37
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhan_xet_ve_viem_tuy_cap_sau_noi_soi_mat_tuy_nguoc_dong.pdf