Tài liệu Nhận xét trên 22 bệnh nhân có bệnh võng mạc trẻ đẻ non giai đoạn muộn - Nguyễn Xuân Tinhj: 3
NHẬN XÉT TRÊN 22 BỆNH NHÂN
CÓ BỆNH VÕNG MẠC TRẺ ĐẺ NON GIAI ĐOẠN MUỘN
NGUYỄN XUÂN TỊNH
Bệnh viện Mắt Trung ương
TÓM TẮT
Mù loà do bệnh võng mạc trẻ đẻ non (ROP) gặp ngày một nhiều. Trong 6 tháng
đầu năm 2002, Khoa mắt trẻ em Bệnh viện mắt trung ương đã khám cho 22 bệnh nhân
bị mù (một hoặc cả hai mắt) do ROP. 100% bệnh nhân đều đến khám muộn khi ROP đã
ở vào giai đoạn cuối. 68,18% bệnh nhân có tuổi thai khi sinh trên 28 tuần và 50% có
cân nặng khi sinh trên 1250g. Trong khi đó rất ít những trẻ đẻ non có cân nặng khi sinh
dưới 1000g (4,55%) và tuổi thai dưới hoặc bằng 28 tuần (31.82%) được cứu sống. Đa
thai và mẹ bị chấn thương trước đẻ có thể là những nguyên nhân quan trọng gây ra đẻ
non. Thở ôxy nồng độ cao, kéo dài, viêm phổi, suy hô hấp là những yếu tố nguy cơ cao
đối với mù loà do ROP. Như vậy, ở Việt Nam những trẻ rất non được cứu sống chưa
nhiều và mù loà do ROP gặp ở những trẻ đẻ non có cân nặng và tuổi thai khi sinh lớn
hơn nhiều so với các nước...
5 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 05/07/2023 | Lượt xem: 203 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận xét trên 22 bệnh nhân có bệnh võng mạc trẻ đẻ non giai đoạn muộn - Nguyễn Xuân Tinhj, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3
NHẬN XÉT TRÊN 22 BỆNH NHÂN
CÓ BỆNH VÕNG MẠC TRẺ ĐẺ NON GIAI ĐOẠN MUỘN
NGUYỄN XUÂN TỊNH
Bệnh viện Mắt Trung ương
TÓM TẮT
Mù loà do bệnh võng mạc trẻ đẻ non (ROP) gặp ngày một nhiều. Trong 6 tháng
đầu năm 2002, Khoa mắt trẻ em Bệnh viện mắt trung ương đã khám cho 22 bệnh nhân
bị mù (một hoặc cả hai mắt) do ROP. 100% bệnh nhân đều đến khám muộn khi ROP đã
ở vào giai đoạn cuối. 68,18% bệnh nhân có tuổi thai khi sinh trên 28 tuần và 50% có
cân nặng khi sinh trên 1250g. Trong khi đó rất ít những trẻ đẻ non có cân nặng khi sinh
dưới 1000g (4,55%) và tuổi thai dưới hoặc bằng 28 tuần (31.82%) được cứu sống. Đa
thai và mẹ bị chấn thương trước đẻ có thể là những nguyên nhân quan trọng gây ra đẻ
non. Thở ôxy nồng độ cao, kéo dài, viêm phổi, suy hô hấp là những yếu tố nguy cơ cao
đối với mù loà do ROP. Như vậy, ở Việt Nam những trẻ rất non được cứu sống chưa
nhiều và mù loà do ROP gặp ở những trẻ đẻ non có cân nặng và tuổi thai khi sinh lớn
hơn nhiều so với các nước đã phát triển.
Bệnh võng mạc trẻ đẻ non (ROP)
hiện nay đã trở thành một trong những
nguyên nhân gây mù hàng đầu của trẻ
em ở các nước đã phát triển [1]. Ở Việt
nam trong những năm gần đây, nhờ sự
tiến bộ của hồi sức sơ sinh nên ngày càng
có nhiều trẻ đẻ non được cứu sống và số
lượng bệnh nhân đẻ non bị mù gặp ngày
một nhiều.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu
này nhằm mục đích khảo sát đặc điểm
của những trẻ đẻ non có ROP ở giai đoạn
muộn (giai đoạn 4-5) mà chúng tôi đã
gặp tại Bệnh viện Mắt Trung ương từ
tháng 1- 6 /2002, trước khi chương trình
phòng chống mù loà bệnh võng mạc trẻ
đẻ non được triển khai tại bệnh viện.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng nghiên cứu:
Tất cả những trẻ có tiền sử đẻ non,
nhẹ cân, có ROP giai đoạn muộn ở một
hoặc cả hai mắt, đến khám tại Bệnh viện
mắt Trung ương trong 6 tháng đầu năm
2002 đều được đưa vào nghiên cứu.
2. Phương pháp nghiên cứu:
Tất cả bệnh nhân đến khám đều
được khai thác tiền sử sản khoa, nhi khoa
như: cân nặng, tuổi thai khi sinh, nguyên
1. Công trình nghiên cứu
4
nhân đẻ non, các bệnh đã mắc, tiền sử
thở ôxy...
Bệnh nhân được thăm khám cả hai
mắt và soi đáy mắt bằng máy soi gián
tiếp sau khi đã tra giãn đồng tử bằng
Mydrin - P, có sử dụng vành mi tự động
và ấn củng mạc để quan sát võng mạc
chu biên. Với những bệnh nhân không
soi rõ được đáy mắt, đều được làm siêu
âm B để đánh giá tình trạng dịch kính và
võng mạc. Tổn thương ở mắt được phân
loại giai đoạn theo bảng phân loại quốc
tế bệnh võng mạc trẻ đẻ non [2, 3].
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN
LUẬN
1. Tuổi của bệnh nhân:
1.1. Tuổi bệnh nhân khi đến khám
bệnh:
Bệnh nhân đến khám sớm nhất là
lúc 4 tháng tuổi, muộn nhất là lúc 15
tháng, trung bình 6, 1 tháng,
Bảng 1. Tuổi bệnh nhân khi đến khám bệnh
Tuổi khám (tháng) 12
Số BN 0 15 6 1
% 0 68,2% 27,3% 4,5%
Qua bảng 1, chúng ta thấy hầu hết
bệnh nhân được đưa đến khám mắt rất
muộn. 100% bệnh nhân đến khám khi
bệnh đã tiến triển sang giai đoạn muộn,
khi gia đình thấy cháu không nhìn theo
đồ vật, hoặc thấy mắt cháu không nhanh
nhẹn như những trẻ bình thường khác thì
mới đưa đi khám. Đây là tình trạng xẩy
ra rất phổ biến ở những nơi chưa có
chương trình khám sàng lọc để phát hiện
ROP ở giai đoạn sớm. Thông thường để
phát hiện sớm ROP, việc khám mắt lần
đầu tiên phải được chủ động thực hiện
vào lúc trẻ được 4 - 6 tuần sau đẻ. Nếu
trẻ bị bệnh và có nguy cơ bị mù thì việc
điều trị bằng laser hoặc lạnh đông thường
được tiến hành vào lúc trẻ được 35-37
tuần tuổi (tính từ ngày thụ thai, khoảng
vào tháng thứ 2 sau khi sinh). Sau thời
điểm này mà không được điều trị thì
bệnh sẽ tiến sang giai đoạn nặng hơn,
gây tăng sinh xơ dịch kính - võng mạc,
rồi bong võng mạc và dẫn đến mù loà [1,
4].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất
cả bệnh nhân đều đến khám sau ba tháng
tuổi nên ROP đã thoái triển hoặc là bệnh
đã ở vào giai đoạn 4 hoặc 5.
.
1.2. Tuổi thai khi sinh:
Bảng 2. Phân bố bệnh nhân theo tuổi thai khi sinh:
Tuổi (tuần) 27 -28 29-30 31-32 33-34 >34
Số BN 7 7 7 0 1
% 31,82 31,82 31,82 0 4,54
5
Trong số 22 bệnh nhân nghiên cứu,
bệnh nhân có tuổi thai khi sinh thấp nhất
là 27 tuần, cao nhất là 35 tuần, trung bình
là 29,7 tuần.
Theo nghiên cứu mới nhất của Ho
và Mathew (2005) thì trong nhóm nghiên
cứu của họ 100% trẻ đẻ non có ROP cần
điều trị đều có tuổi thai khi sinh bằng
hoặc dưới 28 tuần [5].
Còn theo tiêu chuẩn khám sàng lọc ROP
của Hội Nhi khoa Mỹ thì họ cũng chỉ
khám cho những trẻ có tuổi thai khi sinh
dưới hoặc bằng 28 tuần tuổi [6]. Có
nghĩa là những trẻ có tuổi thai khi sinh
trên 28 tuần hầu như không có nguy cơ
bị mù do ROP.
Trong khi đó 68,18% (15/22) bệnh
nhân của chúng tôi có tuổi thai khi sinh
trên 28 tuần. Như vậy, trong nghiên cứu
của chúng tôi, ROP gây mù gặp ở bệnh
nhân có tuổi thai khi sinh cao hơn nhiều
so với nghiên cứu của Ho và Mathew, và
đa số nằm ngoài tiêu chuẩn khám sàng
lọc ROP của Mỹ. Mặt khác, trong số
bệnh nhân này chúng tôi không gặp bệnh
nhân nào có tuổi thai khi sinh dưới 27
tuần, điều này chứng tỏ là ở chúng ta
những bệnh nhân sinh quá non được cứu
sống chưa nhiều.
2. Về cân nặng khi sinh:
Bệnh gặp ở trẻ đẻ non có trọng
lượng khi sinh nhẹ nhất là 950g, nặng
nhất là 1600g, trung bình là 1307g.
..
Bảng 2. Phân bố của bệnh nhân theo cân nặng
Cân nặng (g) 1600
Số BN 1 10 7 4 0
Tỷ lệ % 4,55% 45,45% 31,82% 18,18% 0%
Trong số 22 bệnh nhân của chúng
tôi có 11 bệnh nhân có cân nặng khi sinh
trên 1250g, chiếm 50%. Như vậy, đối
chiếu với tiêu chuẩn khám sàng lọc ROP
cho trẻ đẻ non của Hội Nhi khoa Mỹ (chỉ
khám cho những trẻ đẻ non có cân nặng
khi sinh dưới 1251g) thì đã có 50% bệnh
nhân bị bệnh vượt ra ngoài tiêu chuẩn
khám sàng lọc và bị bỏ sót. Đa số bệnh
nhân của chúng tôi có cân nặng khi sinh
từ 1000 - 1500g (77,27%). Ngược lại với
những trẻ có cân nặng khi sinh dưới
1000g thì chúng tôi gặp không nhiều (chỉ
có 1 bệnh nhân, 4,55%), chứng tỏ rằng
mặc dù đã có những tiến bộ đáng kể
trong hồi sức sơ sinh nhưng chúng ta
cũng chưa cứu sống được nhiều các cháu
ở nhóm này. Trong khi đó ở các nước đã
phát triển thì hầu hết bệnh nhân bị bệnh
rơi vào nhóm này [1, 5].
3. Giai đoạn tổn thương của ROP:
6
Tất cả bệnh nhân trong nhóm
nghiên cứu đều đến khám muộn nên
bệnh đã phát triển qua giai đoạn cấp tính
(giai đoạn 1-3). Trong số 22 bệnh nhân,
có 38 mắt (86,36%) của 21 bệnh nhân
khi đến khám bệnh đã ở vào giai đoạn 5,
đã bị xơ sản sau thể thuỷ tinh nặng,
không còn soi được đáy mắt, trên siêu
âm bị bong võng mạc toàn bộ (gồm 17
bệnh nhân bị bệnh 2 mắt và 4 bệnh nhân
bị bệnh ở 1 mắt). Còn 6 mắt của 5 bệnh
nhân vẫn còn soi được đáy mắt, trong đó
có 4 mắt (9,1%) của 4 bệnh nhân, ROP
thoái triển hoàn toàn, cấu trúc gai thị,
võng mạc vùng hoàng điểm có vẻ bình
thường, bệnh nhân vẫn nhìn được bằng
mắt này. Hai mắt còn lại của 1 bệnh nhân
(4,55%) mạch máu võng mạc bị kéo về
phía thái dương, có nếp gấp võng mạc
vùng hoàng điểm và tăng sinh xơ nhẹ
võng mạc chu biên phía thái dương, kèm
theo rung giật nhãn cầu. Như vậy đa số
bệnh nhân khi đến khám là bệnh đã ở
vào giai đoạn cuối – tăng sinh xơ dịch
kính, võng mạc gây bong võng mạc và
mắt mất chức năng.
4. Nguyên nhân đẻ non:
- Thường gặp nhất là đa thai (sinh
đôi), trong số 22 bệnh nhân chúng tôi
gặp 8 bệnh nhân sinh đôi, chiếm 36,36%.
Theo các tác giả thì sinh đôi là một trong
những nguyên nhân quan trọng gây ra đẻ
non [1].
- Mẹ bị chấn thương trước đẻ:
Chúng tôi gặp 3 trường hợp mẹ bệnh
nhân có tiền sử bị chấn thương trước đẻ,
chiếm 13,64%. Trong 3 trường hợp này,
có 2 trường hợp bị ngã trước khi sinh và
1 trường hợp do đi xe đạp đường dài.
5. Các yếu tố ảnh hưởng đến bệnh
ROP:
Ở Việt nam gần như 100% các bệnh
nhân đẻ non có cân nặng thấp đều phải
nằm lồng ấp, thở ôxy cao áp kéo dài. Theo
Campbell thì thở ôxy nồng độ cao, trong
thời gian dài là một trong những yếu tố
nguy cơ đối với ROP [1], có lẽ chính vì
vậy mà ở chúng ta gặp nhiều trẻ đẻ non bị
mù có cân nặng và tuổi thai khi sinh cao
hơn ở các nước đã phát triển.
Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy một
số lượng khá lớn trẻ đẻ non bị mù có tiền
sử bị viêm phế quản phổi sau đẻ, trong số
22 bệnh nhân của chúng tôi có tới 9
trường hợp có viêm phế quản phổi,
chiếm 40,91%. Như vậy viêm phế quản
phổi là một trong những yếu tố nguy cơ
cao cho ROP. Điều này cũng dễ hiểu bởi
vì những trẻ đẻ non bị viêm phế quản
phổi thường bị suy hô hấp và thường
phải thở ôxy với nồng độ cao hơn, trong
một thời gian dài hơn so với những trẻ
không bị viêm phổi.
KẾT LUẬN
Mù do ROP đang gặp ngày càng
nhiều và đã trở thành một trong những
nguyên nhân gây mù loà chính ở trẻ em
Việt Nam cũng như ở các nước trên thế
giới.
Ở Việt Nam những trẻ đẻ non có
cân nặng khi sinh dưới 1000g và tuổi thai
dưới 28 tuần được cứu sống chưa nhiều.
ROP gây mù gặp ở nhóm trẻ có cân nặng
và tuổi thai khi sinh cao hơn ở các nước
7
đã phát triển, thủ phạm chính của ROP
có thể là do viêm phổi, suy hô hấp và thở
ôxy cao áp kéo dài.
Cần có chế độ theo dõi và quản lý
thai nghén tốt, nhất là những trường hợp
đa thai để tránh đẻ non, hạn chế mù loà
do ROP gây ra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. SHAPIRO M.J., BIGLAN A.W., MILLER M.M.: Retinopathy of
prematurity. Kugler Publications, Amsterdam/ New York 1995.
2. The Committee for the Classification of Retinopathy of Prematurity: An
International Classification of Retinopathy of Prematurity. Arch. Ophth.
1984, 102: 1130-1134.
3. The International Committee for the Classification of the Late Stages of
Retinopathy of Prematurity: An International Classification of Retinopathy
of Prematurity. II. The classification of retinal detachment. Arch. Ophth.
1987, 105: 906-912.
4. MCPHERSON A.R., HITTNER H.M., KRETZER F.L.: Retinopathy of
prematurity. Current concept and controversies. B.C. Decker Inc,
Philadelphia 1986.
5. HO S.F., MATHEW M.R., WYKES W., et al.: Retinopathy of
prematurity: an optimum screening strategy. J. Ped. Ophth. and Strab.
2005, 9 (6): 584-588.
6. American Academy of Pediatrics. American Association for Pediatric
Ophthalmology and Strabismus, American Academy of Ophthalmology.
Screening examination of premature infants for retinopathy of
prematurity. Pediatrics. 2001, 108: 809-811.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhan_xet_tren_22_benh_nhan_co_benh_vong_mac_tre_de_non_giai.pdf