Tài liệu Nhận xét đặc điểm lâm sàng, mô bệnh học và đột biến gen của bệnh nhân loạn duỡng giác mạc di truyền dạng đốm – Lê Xuân Cung: 22
NHẬN XÉT ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, MÔ BỆNH HỌC VÀ ĐỘT
BIẾN GEN CỦA BỆNH NHÂN LOẠN DUỠNG GIÁC MẠC DI
TRUYỀN DẠNG ĐỐM
LÊ XUÂN CUNG, HOÀNG MINH CHÂU
Bệnh viện Mắt Trung ương
TÓM TẮT
Mục tiêu: nhận xét đặc điểm lâm sàng, mô bệnh học và đột biến gen ở bệnh nhân
loạn dưỡng giác mạc di truyền dạng đốm Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu: 91 bệnh
nhân (BN) ở 59 gia đình được chẩn đoán lâm sàng bị loạn dưỡng giác mạc di truyền
dạng đốm từ năm 1986 đến nay. Phương pháp nghiên cứu: mô tả lâm sàng không đối
chứng. Kết quả nghiên cứu: 91 BN ở 59 gia đình bị loạn dưỡng giác mạc di truyền
dạng đốm có đặc điểm lâm sàng điển hình. Có 6 gia đình bệnh xuất hiện ở 2 thế hệ.
Nghiên cứu mô bệnh học cho thấy chất bất thường trên giác mạc là acid
mucopolysaccharide. Phân tích gen trên một số BN nghiên cứu đã phát hiện ra nhiều vị
trí đột biến gen: L59P, V66L, R211Q, W232X, Y268C, 1067-1068ins(GGCCGTG),
R211Q/Q82X, S51L/Y268C, Y268C/1067-1068ins(GGCCGTG) và V76M. Kết luận:
bệnh loạn dưỡ...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 05/07/2023 | Lượt xem: 387 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận xét đặc điểm lâm sàng, mô bệnh học và đột biến gen của bệnh nhân loạn duỡng giác mạc di truyền dạng đốm – Lê Xuân Cung, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
22
NHẬN XÉT ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, MÔ BỆNH HỌC VÀ ĐỘT
BIẾN GEN CỦA BỆNH NHÂN LOẠN DUỠNG GIÁC MẠC DI
TRUYỀN DẠNG ĐỐM
LÊ XUÂN CUNG, HOÀNG MINH CHÂU
Bệnh viện Mắt Trung ương
TÓM TẮT
Mục tiêu: nhận xét đặc điểm lâm sàng, mô bệnh học và đột biến gen ở bệnh nhân
loạn dưỡng giác mạc di truyền dạng đốm Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu: 91 bệnh
nhân (BN) ở 59 gia đình được chẩn đoán lâm sàng bị loạn dưỡng giác mạc di truyền
dạng đốm từ năm 1986 đến nay. Phương pháp nghiên cứu: mô tả lâm sàng không đối
chứng. Kết quả nghiên cứu: 91 BN ở 59 gia đình bị loạn dưỡng giác mạc di truyền
dạng đốm có đặc điểm lâm sàng điển hình. Có 6 gia đình bệnh xuất hiện ở 2 thế hệ.
Nghiên cứu mô bệnh học cho thấy chất bất thường trên giác mạc là acid
mucopolysaccharide. Phân tích gen trên một số BN nghiên cứu đã phát hiện ra nhiều vị
trí đột biến gen: L59P, V66L, R211Q, W232X, Y268C, 1067-1068ins(GGCCGTG),
R211Q/Q82X, S51L/Y268C, Y268C/1067-1068ins(GGCCGTG) và V76M. Kết luận:
bệnh loạn dưỡng giác mạc di truyền dạng đốm trên BN Việt Nam có đặc điểm lâm sàng
và mô bệnh học điển hình. Phân tích gen cho thấy có rất nhiều vị trí đột biến gen liên
quan đến nhóm bệnh này trên BN Việt Nam.
Từ khoá: loạn dưỡng giác mạc di truyền dạng đốm, đột biến gen.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Loạn dưỡng giác mạc di truyền
dạng đốm (LDGMDTDĐ) là một trong 3
hình thái loạn dưỡng giác mạc nhu mô
kinh điển [1]. Đây là hình thái di truyền
lặn, xuất hiện cân xứng hai mắt. Bệnh có
xu hướng xuất hiện sớm trong 10 năm
đầu đời, biểu hiện bằng sự lắng đọng
chất bất thường, bắt đầu từ lớp nông
vùng trung tâm giác mạc làm cho giác
mạc bị đục. Sau đó tổn thương tiến triển
dần ra sau đến nội mô và ra vùng chu
biên khi BN được 20 đến 30 tuổi
[TDT2]. Các hình thái LDGMDT đã
được nghiên cứu tại khoa Kết giác mạc
từ năm 1986 [3]. Cho đến nay đã có 91
BN LDGMDTDĐ được phát hiện ở 59
gia đình. Trong đó có 6 gia đình bệnh
xuất hiện ở 2 thế hệ. Nghiên cứu mô
bệnh học từ những mảnh giác mạc bệnh
lý được lấy sau khi ghép giác mạc điều
trị, chúng tôi thấy chất bất thường trên
giác mạc là acid mucopolysaccharide.
Khi phân tích đặc điểm đột biến gen trên
một số BN nghiên cứu chúng tôi phát
hiện ra nhiều vị trí đột biến gen: L59P,
V66L, R211Q, W232X, Y268C, 1067-
1068 ins (GGCCGTG),
R211Q/Q82X,S51L/Y268C,
Y268C/10671068 ins (GGCCGTG) và
V76M [4].
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG
PHÁP
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Là 91 BN ở 59 gia đình được chẩn
đoán là bị LDGMDTDĐ, có hồ sơ theo
23
dõi tại khoa Kết giác mạc, Bệnh viện mắt
TW từ năm 1986.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Mô tả tiến cứu không nhóm chứng
2.2.2. Quy trình nghiên cứu
- Hỏi bệnh: qua thăm hỏi BN
đến khám bệnh, chúng tôi ghi nhận:
+ Tuổi phát hiện bệnh (hoặc tuổi
xuất hiện các triệu chứng cơ năng đầu
tiên) và tuổi tại thời điểm khám bệnh.
+ Giới.
+ Những triệu chứng cơ năng của
BN.
+ Hỏi về tình trạng mắt của các
thành viên khác trong gia đình, những
thông tin thu được sẽ giúp cho điều tra
gia đình.
- Quan sát và phân tích các tổn
thương loạn dưỡng bằng sinh hiển vi đèn
khe có chụp ảnh. Những BN có tổn
thương không điển hình đều bị loại khỏi
nghiên cứu.
- Khám các thành viên trong gia đình
BN: phát hiện những thành viên bị bệnh
giống như BN và lập phả hệ gia đình BN.
- Nghiên cứu mô bệnh học: Bệnh
phẩm là những mảnh giác mạc bệnh lý
được lấy khi ghép giác mạc điều trị cho
BN. Mảnh ghép được ngâm trong dung
dịch Bouin, sau đó chuyển đúc và cắt
mảnh theo phương pháp thường quy. Bệnh
phẩm được nhuộm theo những phương
pháp sẵn có tại Bệnh viện Mắt TW và
được phân tích tổn thương mô bệnh học.
- Nghiên cứu đặc điểm đột biến gen:
Năm 2001, nhờ sự hợp tác nghiên cứu
giữa Bệnh viện Mắt TW và khoa Mắt
Trường đại học Y Juntendo Nhật Bản,
chúng tôi tiến hành lấy mẫu máu một số
BN, một số thành viên trong gia đình BN
và một số người Việt Nam bình thường
(làm nhóm chứng), sau đó tách lấy bạch
cầu và mang sang khoa Mắt Trường đại
học Y Juntendo Nhật Bản để phân tích
gen.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Số lượng BN
Từ khi bắt đầu được nghiên cứu
(1986) đến nay, chúng tôi đã phát hiện
được 91 BN LDGMDTDĐ ở 59 gia đình.
Số lượng BN được phát hiện trong các
gia đình phân bố như sau:
Bảng 1. Số lượng BN trong mỗi gia đình
Số BN trong một gia đình 1 2 3 4 5
Số gia đình 39 12 5 2 1
Như vậy, số BN được phát hiện
nhiều nhất trong một gia đình là 5 BN.
3.2. Tuổi bệnh nhân
Tuổi của BN LDGMDTDĐ tại
thời điểm nghiên cứu nhiều tuổi nhất là
75 tuổi, thấp nhất là 15 tuổi, trung bình là
39,6 tuổi.
3.3. Giới
Trong số 91 BN được phát hiện có
47 nam và 44 nữ, như vậy tỷ lệ bệnh giữa
nam và nữ gần tương đương nhau.
3.4. Tuổi phát hiện bệnh
Tuổi xuất hiện bệnh là một yếu tố
quan trọng. Tuy nhiên, những tổn thương
đầu tiên thường tinh tế, xuất hiện thầm
lặng, không gây ra triệu chứng gì. Do đó,
24
ở thời điểm này thường không xác định
được. Trong nghiên cứu này, chúng tôi
ghi nhận thời điểm phát hiện ra bệnh (do
khám tình cờ) hay xuất hiện những triệu
chứng cơ năng đầu tiên của bệnh. Trong
số 91 BN, BN được phát hiện sớm nhất
là 9 tuổi, muộn nhất là 53 tuổi, trung
bình là 24,7 tuổi.
3.5. Thị lực
Đây là triệu chứng chức năng quan
trọng, gián tiếp nói nên mức độ nặng của
bệnh. Chúng tôi ghi nhận thị lực BN tại
thời điểm phát hiện bệnh.
Bảng 2. Thị lực bệnh nhân tại thời điểm phát hiện bệnh
Thị lực ĐNT<1m ĐNT1m- <3m ĐNT 3m-
<1/10
1/10- <3/10 3/10
Số mắt 31 43 35 46 27
3.6. Những triệu chứng cơ năng
Cả 91 BN nghiên cứu đều nhận
thấy mắt nhìn mờ dần. Chỉ có 38 BN là
có cảm giác mắt bị kích thích từng đợt,
53 BN còn lại chỉ thấy mắt nhìn mờ dần
mà không kèm theo triệu chứng gì khác.
3.7. Đặc điểm tổn thương loạn dưỡng
trên giác mạc
Trên 182 mắt (ở 91 BN) được
nghiên cứu, giác mạc đều bị đục toả lan
với nhiều mức độ khác nhau. Trong đó,
31 mắt có tổn thương đục giác mạc nặng
không quan sát được phía sau. Có 43 mắt
tổn thương đục tương đối, quan sát phía
sau khó khăn. Tổn thương đục giác mạc
giai đoạn đầu thường ở lớp nông vùng
trung tâm giác mạc. Khi bệnh tiến triển
tổn thương đục tiến triển xuống lớp nhu
mô sâu sát màng Descemet và ra tận
vùng chu biên. Trên nền đục giác mạc
toả lan chúng tôi quan sát thấy những
đốm đục hơn màu trắng xám, kích thước
khác nhau, ranh giới không rõ. Đa số các
trường hợp những đốm đục nằm nông
vùng trung tâm giác mạc, có khi nổi lên
trên bề mặt giác mạc. Nhưng ở chu biên
những đốm đục tập chung chủ yếu ở lớp
sâu sát màng Descemet. Theo dõi BN
chúng tôi thấy bệnh tiến triển rất chậm chủ
yếu là đục nhu mô toả lan tăng lên, sự xuất
hiện thêm các đốm loạn dưỡng là không
đáng kể.
3.8. Đặc điểm di truyền của bệnh
3.8.1. Kết quả điều tra gia đình
Trong 59 gia đình được phát hiện
có 20 gia đình có từ 2 người trở lên cùng
bị bệnh. 53 gia đình bệnh xuất hiện ở 1
thế hệ, 6 gia đình ở 2 thế hệ, chưa phát
hiện được gia đình nào có bệnh xuất hiện
ở thế hệ thứ 3.
3.8.2. Kết quả phân tích gen
Chúng tôi tiến hành lấy mẫu máu
ngoại vi của 35 BN LDGMDTDĐ ở 19
gia đình và 38 thành viên không bị bệnh
của các gia đình đó. Ngoài ra, 50 người
Việt Nam không bị bệnh cũng được lấy
máu để làm nhóm chứng. Chúng tôi tiến
hành tách bạch cầu từ tất cả các mẫu máu
trên và chuyển phân tích gen tại khoa
Mắt trường Đại học Y Juntendo, Nhật
Bản. Qua phân tích gen CHST6 chúng tôi
phát hiện ra rất nhiều vị trí đột biến ở
những BN này.
Bảng 3. Các vị trí đột biến của gen CHST6 được phát hiện trong nghiên cứu
Biến đổi của nucleotide Hình thái biến đổi Biến đổi Số GĐ
25
của nucleotide của amino acid
T868C Đồng hợp tử L59P 2
G888C Đồng hợp tử V66L 1
G1324A Đồng hợp tử R211Q 8
G1388A Đồng hợp tử W232X 1
A1495G Đồng hợp tử Y268C 1
1067-
1068ins(GGCCGTG)
Đồng hợp tử thêm đoạn sau 125V 2
[C844T+A1495G] Dị hợp tử
Dị hợp tử
S51L
Y268C
1
[G1324A+C936T] Dị hợp tử
Dị hợp tử
R211Q
Q82X
1
[A1495G+1067-
1068ins(GGCCGTG)]
Dị hợp tử
Dị hợp tử
Y268C
thêm đoạn sau 125V
1
G9183A Dị hợp tử V76M 1
Tổng 19
3.9. Đặc điểm mô bệnh học
Cho đến nay đã có 32 mắt được
điều trị bằng phẫu thuật ghép giác mạc.
Tất cả những mảnh giác mạc bệnh lý
được lấy sau khi ghép chúng tôi chuyển
phân tích tổn thương mô bệnh học với
các phương pháp nhuộm thường quy:
Alican blue, PAS và Trichrome Masson.
Với phương pháp nhuộm Alcian blue cả
32 mẫu bệnh phẩm đều thấy xuất hiện
những đám lắng đọng chất bất thường
bắt màu xanh thẫm trên nền hồng của
nhu mô bình thường. Các tổn thương này
phân bố rải rác khắp các lớp của nhu mô
ra tận rìa của bệnh phẩm. Với phương
pháp nhuộm PAS tổn thương bắt màu đỏ
tươi. Nhưng với phương pháp nhuộm
Trichrome Masson tổn thương không bắt
màu. Đây là đặc điểm mô bệnh học điển
hình của chất acid mucopolysaccharide.
IV. BÀN LUẬN
Theo y văn, LDGMDTDĐ là hình
thái loạn dưỡng ít gặp nhất trong ba hình
thái loạn dưỡng nhu mô kinh điển [4].
Nhưng trong nghiên cứu của chúng tôi,
BN LDGMDTDĐ được phát hiện với tỷ
lệ cao nhất. Có lẽ do bệnh có xu hướng
xuất hiện khá sớm, với tổn thương đục
giác mạc nặng gây mất thị lực nên BN
đến khám và được phát hiện với tỷ lệ
cao. Tuy nhiên, bệnh lại thường được
phát hiện ở giai đoạn muộn do hầu hết
các trường hợp chỉ có triệu chứng duy
nhất là nhìn mờ. Hơn nữa, có nhiều BN
bị chẩn đoán nhầm là viêm giác mạc và
được điều trị một thời gian dài trước khi
bệnh được phát hiện. Tất cả những BN
được phát hiện đều có đặc điểm lâm sàng
và mô bệnh học điển hình giống như mô
tả trong y văn [1,5]. Mặc dù là hình thái
di truyền lặn nhưng chúng tôi nhận thấy
so với các hình thái loạn dưỡng khác,
bệnh xuất hiện với tỷ lệ cao trong một
gia đình, có gia đình bệnh xuất hiện ở cả
hai thế hệ. Như vậy, đây là hình thái di
truyền có tính thấm khá cao. Qua phân
tích gen cho thấy có tới 10 vị trí đột biến
gen CHST6 liên quan đến hình thái loạn
dưỡng này ở BN Việt Nam, đây là hình
thái loạn dưỡng liên quan đến nhiều vị trí
26
đột biến gen nhất trong những hình thái
loạn dưỡng giác mạc di truyền được phát
hiện. Trong đó, đột biến G1324A gặp
nhiều nhất. Chúng tôi không phát hiện
thấy có sự khác biệt rõ ràng về đặc điểm
lâm sàng cũng như mô bệnh học liên
quan đến các vị trí đột biến gen khác
nhau. Bằng xét nghiệm hóa mô miễn
dịch, Yang và cộng sự đã phát hiện ra 2
type loạn dưỡng giác mạc dạng đốm.
Type I là hình thái thường gặp nhất, khi
xét nghiệm huyết thanh và mô giác mạc
không có kháng nguyên keratan sulfate.
Ngược lại, loạn dưỡng dạng đốm type II
ít gặp hơn với lượng kháng nguyên
keratan sulfate trong huyết thanh bình
thường và chất lắng đọng bất thường
trong nhu mô giác mạc và giác mạc bào
có phản ứng với kháng thể kháng keratan
sulfate [4]. Sau đó Kintworth và cộng sự
đã báo cáo một type miễn dịch khác là
type I A, trong đó không có kháng
nguyên keratan sulfate trong huyết thanh
và nhu mô giác mạc nhưng chất lắng
đọng trong giác mạc bào lại phản ứng
với kháng thể kháng keratan sulfate [4].
Tuy nhiên, trong nghiên cứu này chúng
tôi không có điều kiện làm hóa mô miễn
dịch do đó không định type được các BN
nghiên cứu.
V. KẾT LUẬN
Loạn dưỡng giác mạc di truyền
dạng đốm là hình thái gặp khá phổ biến
trong nhóm bệnh loạn dưỡng giác di
truyền nước ta. Bệnh xuất hiện khá sớm
với sự lắng đọng chất bất thường trên
giác mạc làm cho thị lực giảm nhiều và
BN thường mất thị lực sau tuổi 30. Bệnh
có tính di truyền lặn với tính thấm khá
cao và liên quan đến nhiều vị trí đột biến
gen CHST6. Trên lâm sàng, bệnh loạn
dưỡng giác mạc di truyền dạng đốm nói
riêng và các hình thái loạn dưỡng giác
mạc di truyền nói chung dễ bị chẩn đoán
nhầm là viêm giác mạc, sẹo giác mạc,
thoái hóa giác mạc... Do đó cần lưu ý
những đặc điểm sau của nhóm bệnh lý
này để có chẩn đoán chính xác: những
tổn thương trên giác mạc không kèm
theo tổn thương các phần khác của mắt
và toàn thân, không kèm theo phản ứng
viêm, hình thái tổn thương ở hai mắt
giống nhau về thực thể. Nếu trong một
gia đình có từ hai người bị bệnh giống
nhau sẽ có giá trị củng cố cho chẩn đoán.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. LAIBSON P.R.: Anterior corneal dystrophy, chapter 88 in Cornea, Vol II: Cornea
and External Disease: Clinical Diagnosis and Management. Mosby 1997.
2. LÊ XUÂN CUNG: Nhận xét đặc điểm lâm sàng và bệnh lý giải phẫu của bệnh
loạn dưỡng giác mạc di truyền – gia đình. Luận văn tốt nghiệp Bác sỹ nội trú bệnh
viện, Trường đại học Y Hà nội, 1999..
3. NGUYỄN DUY TÂN, HOÀNG MINH CHÂU, VÕ THẾ SAO: Tiếp cận lâm
sàng – giải phẫu bệnh về các loạn dưỡng giác mạc di truyền – gia đình. Kỷ yếu
công trình nghiên cứu khoa học, 1993, 15-22.
4. NGUYEN THANH HA, HOANG MINH CHAU, LE XUAN CUNG, TON KIM
THANH, et al: Identification of novel mutation of the CHST6 gene in Vietnamese
families affected with macular corneal dystrophy in two generations. Cornea.
2003; 22 (6): 508-511.
27
5. DANIEL GORE, SHAMIM AHMED HAJI, AARTHI BALASHANMUGAM, et
al: Light and electron microscopy of macular corneal dystrophy: a case study.
Digital Journal of Ophthalmology. 2004.
SUMMARY
ASSESSMENT OF THE CLINICAL, HISTOPATHOLOGICAL AND GENETIC
FEATURES OF VIETNAMESE PATIENTS WITH HEREDITARY MACULAR
CORNEAL DYSTROPHY
Objective: To assess clinical, pathological and gene mutative features of
Vietnamese patients with hereditary macular corneal dystrophy. Subjects: Ninety one
patients in 59 families with hereditary macular corneal dystrophy, who were discovered
and being followed from 1986 untill now. Method: observation, non comperative study.
Results: Slit- lamp examination revealed typical features of hereditary macular corneal
dystrophy in all patients. There are 6 families in which the disease appears in 2
generations. Pathological study showed that the corneal deposition is
mucopolysaccharide. Genetic analysis of some patient,s blood samples showed many
mutations, such as: L59P, V66L, R211Q, W232X, Y268C, 1067-1068ins(GGCCGTG),
R211Q/Q82X, S51L/Y268C, Y268C/1067-1068ins(GGCCGTG) and V76M.
Conclusion: Vietnamese patients with hereditary macular corneal dystrophy have typical
clinical and pathological features. Genetic analysis of some Vietnamese patient’s blood
samples showed many mutations.
Key words: hereditary macular corneal dystrophy, genetic mutation.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhan_xet_dac_diem_lam_sang_mo_benh_hoc_va_dot_bien_gen_cua_b.pdf