Tài liệu Nhận xét 30 trường hợp thủng túi thừa đại tràng: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 513
NHẬN XÉT 30 TRƯỜNG HỢP THỦNG TÚI THỪA ĐẠI TRÀNG
Phạm Ngọc Hoan*, Nguyễn Mạnh Dũng*, Đỗ Bá Hùng*, Dương Văn Hải**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Thủng túi thừa đại tràng là một biến chứng nặng ở những bệnh nhân có túi thừa đại tràng, đa
phần cần phải can thiệp ngoại khoa cấp cứu. Biểu hiện lâm sàng thường không đặc hiệu và thường cần đến CT-
Scan hỗ trợ giúp chẩn đoán trước mổ. Mức độ nặng trên lâm sàng cũng rất thay đổi, có thể chỉ là một khối áp xe
nhỏ trong mạc treo cho đến viêm phúc mạc toàn bộ do phân. Cho đến nay việc quyết định phương pháp điều trị
thích hợp cho bệnh nhân vẫn là thách thức đối với các phẫu thuật viên. Tỉ lệ biến chứng và tử vong còn cao. Chẩn
đoán và điều trị sớm là rất cần thiết để cải thiện tiên lượng cho bệnh nhân.
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, đặc điểm phẫu thuật và hậu phẫu bệnh nhân thủng túi
thừa đại tràng....
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 05/07/2023 | Lượt xem: 358 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận xét 30 trường hợp thủng túi thừa đại tràng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 513
NHẬN XÉT 30 TRƯỜNG HỢP THỦNG TÚI THỪA ĐẠI TRÀNG
Phạm Ngọc Hoan*, Nguyễn Mạnh Dũng*, Đỗ Bá Hùng*, Dương Văn Hải**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Thủng túi thừa đại tràng là một biến chứng nặng ở những bệnh nhân có túi thừa đại tràng, đa
phần cần phải can thiệp ngoại khoa cấp cứu. Biểu hiện lâm sàng thường không đặc hiệu và thường cần đến CT-
Scan hỗ trợ giúp chẩn đoán trước mổ. Mức độ nặng trên lâm sàng cũng rất thay đổi, có thể chỉ là một khối áp xe
nhỏ trong mạc treo cho đến viêm phúc mạc toàn bộ do phân. Cho đến nay việc quyết định phương pháp điều trị
thích hợp cho bệnh nhân vẫn là thách thức đối với các phẫu thuật viên. Tỉ lệ biến chứng và tử vong còn cao. Chẩn
đoán và điều trị sớm là rất cần thiết để cải thiện tiên lượng cho bệnh nhân.
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, đặc điểm phẫu thuật và hậu phẫu bệnh nhân thủng túi
thừa đại tràng.
Đối tượng – phương pháp: Hồi cứu Tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán sau mổ là thủng túi thừa đại
tràng tại bệnh viện Bình Dân từ tháng 01/2012 đến tháng10/2017.
Kết quả: Có 30 bệnh nhân trong đó 24 nam và 6 nữ, tuổi trung bình 58,8 (22-87), 3 bệnh nhân có tiền căn
viêm túi thừa đại tràng. 26/30 bệnh nhân nhập viện vì đau bụng. Biểu hiện lâm sàng: đau bụng (96,7%), phản
ứng thành bụng (83,3%), sốt (30%), bụng chướng (23,3%). 100% bệnh nhân có tăng bạch cầu (>10.000/uL). X-
quang bụng không sửa soạn có liềm hơi dưới hoành trên 7/30 bệnh nhân (23,3%). CT-Scan bụng được thực hiện
trên 19 bệnh nhân cho kết quả: 12/19 thủng túi thừa (63,2%), 3/19 dày thành, thâm nhiễm mỡ (15,8%), 2/19 áp
xe ruột thừa (10,5%), 2/19 u đại tràng (10,5%). Phân độ Hichey: độ I 10% (3/30), độ II 33,3% (10/30), độ III
50% (15/30), độ IV 6,7% (2/30). 7/30 bệnh nhân được cắt đại tràng nối ngay, 13/30 bệnh nhân được cắt đại tràng
làm hậu môn nhân tạo, 7/30 bệnh nhân được làm hậu môn nhân tạo không cắt đại tràng, 3/30 bệnh nhân được
khâu lỗ thủng dẫn lưu ổ bụng. Biến chứng sau mổ: nhiễm trùng vết mổ (16,7%), bung thành bụng (6,7%), tụ
dịch sau mổ (3,3%), xì rò 0%, tử vong 0%.
Kết luận: Thủng túi thừa đại tràng có thể chẩn đoán trước mổ với sự hỗ trợ của CT-Scan. Tỉ lệ bệnh nhân
mang hậu môn nhân tạo sau mổ còn khá cao, cắt đại tràng nối tận tận có thể thực hiện đối với thủng túi thừa đại
tràng bên phải.
Từ khóa: Thủng túi thừa đại tràng, phân độ Hinchey.
ABSTRACT
A REVIEW OF 30 CASES OF PERFORATED DIVERTICULIS OF COLON
Pham Ngoc Hoan, Nguyen Manh Dung, Do Ba Hung, Duong Van Hai
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 513 - 520
Introduction: Perforated diverticulitis of colon is a severe complication, most require urgent surgery to
prevent patient’s death. The clinical symptoms of this are not specific, CT-Scan is very useful in diagnosing these
situations. The clinical manifestations of this disease vary from small intra mesenteric abscess to fecal peritonitis.
Despite the development of modern diagnostic and treatment, perforated diverticulitis of colon has remained a
challenge for surgeons. Morbidity and mortality of this disease are still high. Early diagnosis and prompt effective
treatment are essential to improve clinical outcome.
*Bệnh viện Bình Dân **Đại Học Y Dược TP. HCM
Tác giả liên lạc: BS. Phạm Ngọc Hoan ĐT: 01684095494 Email: hoanpham2207@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 514
Purpose: We report the clinical characteristics and early outcomes of the patients with perforated colon
diverticulitis
Results: There were 30 patients including 24 males and 6 females with the mean age of 58.8 years (22-87), 3
patients had history of diverticulitis. 26/30 patients needed hospitalization due to abdominal pain. Clinical
symptoms included abdominal pain (96.7%), abdominal tenderness (83.3%), fever (30%), abdominal swelling
(23.3%). All patients had WBC above 10.000/uL. Plain abdominal radiography revealed free intraperitoneal gas
(7/30). CT-Scan was performed in 19/30 patients revealing perforated diverticula (62.3%), wall thickness of bowel
and pericolic infiltration (15.8%), appendicular abscess (10.5%) and tumors of the colon (10.5%). Classification:
Hinchey I (10%), Hinchey II (33.3%), Hinchey III (50%), Hinchey IV (6.7%). Colon resection with primary
anastomosis was performed in 23.3%, colon resection with colostomy 43.3%, colostomy without resection 23.3%,
Lavage and drainage without resection 10%. The morbidity: wound infection 16.7%, abdominal wall infection
6.7%, leakage 0% and no death.
Conclusion: Perforated diverticulitis of colon could be diagnosed early by CT-Scan. The majority of patients
were suffered from Hartmann’s procedure or colostomy. Colectomy with primary anastomosis could be performed
in patients with abscess or perforated of right colon diverticulitis.
Key words: perforated diverticulitis, Hinchey classification.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Túi thừa đại tràng là một bất thường hay gặp
trong nhóm bệnh lý về đại tràng, thường gặp ở
những bệnh nhân lớn tuổi. Túi thừa đại tràng
thường không có biểu hiện lâm sàng cho đến khi
có biến chứng như viêm túi thừa, xuất huyết tiêu
hóa, thủng túi thừa gây viêm phúc mạc Thủng
túi thừa đại tràng là một cấp cứu ngoại khoa
thường gặp và đa phần phải can thiệp ngoại
khoa, tỉ lệ tử vong tương đối cao do bệnh nhân
thường lớn tuổi có bệnh lý nội khoa đi kèm.
Ngoài ra tỉ lệ bệnh nhân phải trải qua phẫu thuật
lần hai do mang hậu môn nhân tạo (HMNT)
cũng khá cao. Nghiên cứu này hy vọng giúp các
nhà ngoại khoa lâm sàng có cái nhìn tổng quát
hơn về biến chứng thủng túi thừa đại tràng.
MỤC TIÊU
Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, đặc
điểm phẫu thuật và kết quả sớm sau mổ trên
bệnh nhân thủng túi thừa đại tràng.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán sau mổ
là thủng túi thừa đại tràng tại bệnh viện Bình
Dân từ tháng 01/2012 đến 10/2017.
Phương pháp nghiên cứu
Hồi cứu mô tả hàng loạt ca
Phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 18.0.
KẾT QUẢ
Từ 01/2012 đến 10/2017 tại bệnh viện Bình
Dân đã điều trị phẫu thuật cho 30 trường hợp
bệnh nhân thủng túi thừa đại tràng. Kết quả
như sau:
Tuổi và giới
Trong 30 bệnh nhân thuộc mẫu nghiên cứu
có 24 nam (80%), và 6 nữ (20%).
Tuổi trung bình là 58,8 (22-87), trong đó có 04
bệnh nhân dưới 40 tuổi, 13 bệnh nhân từ 40-60
tuổi và 13 bệnh nhân trên 60 tuổi.
Lý do nhập viện
Hầu hết bệnh nhân nhập viện với lý do đau
bụng (86,7%), số ít còn lại đến bệnh viện với lý
do khá như tiêu chảy, bí tiểu, không đi tiêu
được.
Bảng 1. lý do nhập viện (n=30)
Lý do nhập viện Số bệnh nhân (n=30)
Đau bụng 26
Tiêu chảy 1
Không đi tiêu được 2
Bí tiểu 1
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 515
Lâm sàng
Có 3/30 bệnh nhân có tiền căn viêm túi thừa
đại tràng (10%).
Triệu chứng lâm sàng thường gặp theo thứ
tự giảm dần như sau: Đau bụng 29/30 (96,7%), đề
kháng – phản ứng thành bụng 25/30 (83,3%), sốt
9/30 (30%), bụng chướng 7/30 (23,3%).
Biểu đồ 1. Các triệu chứng lâm sàng (n=30)
Có 13/30 bệnh nhân vị trí đau bụng là nằm ở
¼ dưới bên phải, còn lại là đau bụng ¼ dưới bên
trái.
Biểu đồ 2: Vị trí đau của bệnh nhân trên lâm sàng
(n=30)
Thời gian xuất hiện triệu chứng đau bụng
cho tới lúc nhập viện là 3,2 ngày (1-7).
11/30 trường hợp ghi nhận có mạch nhanh
>100 lúc vào viện (chiếm 36,7%).
Cận lâm sàng
Bạch cầu: Tất cả các bệnh nhân trong mẫu
nghiên cứu đều có tăng bạch cầu máu
(>10.000/uL), Bạch cầu máu trung bình là
16,1k/uL (10,2-22,6k/uL).
Chẩn đoán hình ảnh
Có 7/30 trường hợp ghi nhận có hình ảnh
liềm hơi dưới cơ hoành trên phim X-quang
(23,3%) gợi ý tình trạng thủng tạng rỗng.
Trên siêu âm bụng ghi nhận có 4/30 trường
hợp có dày thành đại tràng, 3/30 trường hợp với
chẩn đoán siêu âm là viêm túi thừa và 3/30 phát
hiện có khối áp xe vùng chậu.
Có 19 bệnh nhân được thực hiện chụp cắt
lớp điện toán với thuốc cản quang: kết quả là
có 12/19 trường hợp được chẩn đoán trước mổ
là thủng túi thừa đại tràng trên CT-Scan, 3
trường hợp còn lại tuy không chẩn đoán được
biến chứng thủng túi thừa nhưng cũng giúp
định vị được tổn thương và các thương tổn đi
kèm khác trong ổ bụng (dày thành đại
tràng/thâm nhiễm mỡ xung quanh). Ngoài ra
có 2 trường hợp kết quả CT-Scan là u manh
tràng và thủng u đại tràng trái, 2 trường hợp
cho kết quả áp xe ruột thừa.
Đặc điểm lâm sàng trong mổ
Chẩn đoán trước mổ: 12/30 trường hợp
được chẩn đoán trước mổ liên quan tới nhóm
bệnh lý ruột thừa: viêm phúc mạc ruột thừa,
áp xe ruột thừa.
Bảng 2. Các chẩn đoán trước mổ (n=30)
Chẩn đoán trước mổ Số BN (N=30)
VPM ruột thừa, áp xe ruột thừa 12/ 30 (40%)
Tắc ruột do u manh tràng 1/30 (3,33%)
VPM nghi thủng u đại tràng trái 1/30 (3,33%)
VPM do thủng tạng rỗng 8/30 (26,7%)
VPM do thủng túi thừa 8/30 (26,7%)
Vị trí túi thừa
Bảng 3.Vị trí túi thừa ghi nhận sau mổ
Vị trí túi thừa Số BN (N=30) Tỉ lệ (%)
Đại tràng P- manh tràng 9/30 30%
Đại tràng T 4/30 13,3%
Đại tràng sigma 17/30 56,7%
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 516
11/30 trường hợp ghi nhận có đa túi thừa đại
tràng (36,7%).
Phân độ Hinchey
Bảng 4. Phân độ Hinchey trong mổ
Phân độ Đặc điểm Số BN/ tỉ lệ
Độ I Khối áp xe tại chỗ - cạnh đại tràng 3/30 (10%)
Độ II Khối áp xe vùng chậu - ổ bụng 10/30 (33,3%)
Độ III Viêm phúc mạc mủ 15/30 (50%)
Độ IV Viêm phúc mạc phân 2/30 (6,7%)
Phương pháp phẫu thuật
Có 3/30 trường hợp (10%) được phẫu thuật
nội soi, trong đó 1 trường hợp thủng túi thừa đại
tràng phải được cắt đại tràng phải nối ngay, 02
trường hợp còn lại là thủng túi thừa manh tràng
và được cắt túi thừa khâu lại lỗ thủng. Phần lớn
còn lại được mổ hở hoặc nội soi thám sát chuyển
mổ hở 27/30 (90%).
Bảng 5. Phương pháp mổ theo vị trí túi thừa
Vị trí túi thừa Phương pháp mổ Số BN
Đại tràng P – manh
tràng
Cắt đại tràng phải 6
Cắt túi thừa – khâu lỗ thủng 3
Đại tràng trái Cắt đại tràng T - HMNT 3
HMNT 1
Đại tràng sigma PT Hartmann 8
Cắt đoạn đại tràng sigma –
nối tận – tận
1
Cắt đoạn đại tràng sigma –
đưa hai đầu làm HMNT
2
HMNT đại tràng sigma 6
Tỉ lệ BN phải mang HMNT sau mổ là
46,7% (14/30).
Thời gian phẫu thuật trung bình là 127 phút
(60-2300.
Hậu phẫu
Sau mổ, trung bình 2,87 ngày BN có trung
tiện (-) (1-4), và được cho ăn trung bình sau 3,2
ngày (1-7). Cá biệt có một trường hợp hậu phẫu
ngày 7 mới cho nuôi ăn qua đường miệng do
theo dõi tắc ruột sớm sau mổ.
Số ngày nằm viện trung bình là 10,6 ngày (6-
25), thời gian nằm hậu phẫu trung bình là 9,5
ngày (5-24).
Hai biến chứng ghi nhận trong thời gian
nằm hậu phẫu là bung thành bụng 2/30 (6,67%)
và nhiễm trùng vết mổ 5/30 (16,7%).
Không có trường hợp nào tử vong.
BÀN LUẬN
Định nghĩa, dịch tễ học và bệnh nguyên
Túi thừa đại tràng là túi niêm mạc đại tràng
(một số tài liệu gọi là túi thoát vị) ở thành đại
tràng trồi ra từ các vị trí suy yếu của thành đại
tràng do thiếu lớp cơ trơn, do đó vị trí thường
gặp của túi thừa đại tràng là nằm trên đường
song song với các dải cơ dọc đại tràng(3).
Túi thừa đại tràng là bệnh về đại tràng khá
thường gặp ở các nước phát triển. Nhiều nghiên
cứu cho thấy tỉ suất mắc bệnh khác biệt rất lớn
giữa các nước Âu Mỹ và các nước khu vực Châu
Á (5,41 so với 0,14 trên 1 triệu dân). Tỉ suất mắc
bệnh tăng theo tuổi của bệnh nhân. Một số
nghiên cứu ở các nước phát triển cho thấy gần
2/3 số trường hợp nằm trong độ tuổi từ 80 trở
lên. Đa phần bệnh nhân túi thừa đại tràng không
có biểu hiện lâm sàng nên rất khó xác định tần
suất mắc bệnh thực tế trong dân số. Về độ tuổi
mắc bệnh, nhiều nghiên cứu cho thấy tỉ lệ mắc
bệnh tăng dần theo tuổi, <10% ở độ tuổi <40 cho
đến 50-66% ở độ tuổi >80 và không có khác biệt
giữa nam và nữ (2,4). Theo một nghiên cứu tại Úc
của Mark K. trên 248 trường hợp phẫu thuật túi
thừa có biến chứng thủng thì độ tuổi trung bình
là 59,9 (32-87)(7).
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đa phần
bệnh nhân cũng thuộc nhóm tuổi trung niên trở
lên 26/30 (86,7%), nhóm <40 tuổi chiếm 13,3%,
tuổi trung bình là 58,8 cũng tương đồng với các
nghiên cứu khác. Tuy nhiên về tỉ lệ nam/nữ có
sự khác biệt, bệnh nhân chủ yếu là nam chiếm
80% (24/30), nữ chỉ chiếm 20% (6/30) có thể do cỡ
mẫu chưa đủ lớn.
Cơ chế bệnh sinh thủng túi thừa đại tràng
vẫn chưa rõ ràng, tuy nhiên nhiều nghiên cứu
cho thấy có bằng chứng liên quan giữa tình
trạng tăng áp lực trong lòng túi thừa do tắc
nghẽn cổ túi thừa và thủng túi thừa đại tràng.
Các yếu tố thuận lợi bao gồm: giảm hoạt động
thể chất, chế độ ăn ít chất xơ, dung thuốc họ
opioid, prostigmin, neostigmin, ăn nhiều thịt,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 517
dùng kháng sinh, kháng viêm, corticoid, lớn
tuổi, hút thuốc lá, uống rượu(2).
Túi thừa đại tràng thường không đơn độc
mà có nhiều túi thừa với kích cỡ lớn nhỏ khác
nhau, vị trí thường ở phần xa của đại tràng với
90% nằm ở đại tràng sigma và chỉ 10-15%
bệnh nhân có túi thừa đại tràng phải ngoại trừ
khu vực Châu Á, nhất là Nhật Bản, Thái Lan
và Singapore. Lý giải về sự khác biệt này
nhiều nghiên cứu cho rằng do sự khác biệt về
yếu tố địa lý, tuy nhiên những nghiên cứu gần
đây cho thấy tỉ lệ mắc bệnh túi thừa đại tràng
phải ở nhóm dân số Châu Á di cư qua sinh
sống tại khu vực Âu Mỹ vẫn cao hơn người da
trắng. Chính vì thế một số nghiên cứu lý giải
sự khác biệt này là do yếu tố chủng tộc – di
truyền học. Và trên thực tế, nhiều tài liệu mô
tả đặc điểm túi thừa đại tràng phải có một số
đặc điểm khác biệt so với túi thừa đại tràng
trái. Túi thừa đại tràng trái đa phần là giả túi
thừa, trồi ra xuyên qua lớp cơ niêm tại các vị
trí yếu của thành đại tràng và thường là đa túi
thừa. Trong khi đó túi thừa đại tràng phải đa
phần là túi thừa thật, nghĩa là có sự suy yếu
toàn bộ của thành đại tràng, thiếu lớp cơ niêm
và thường xuất hiện đơn độc và vị trí thường
gặp nhất là tại manh tràng quanh ruột thừa(3,2).
Trong nghiên cứu này của chúng tôi có 9/30
bệnh nhân thủng túi thừa đại tràng P (30%),
trong đó 6/9 trường hợp là túi thừa manh tràng,
4/30 bệnh nhân thủng túi thừa đại tràng trái
(13,3%), còn lại 15/30 trường hợp là túi thừa đại
tràng sigma (50%), cũng tương đối phù hợp với
nhóm dân số khu vực Châu Á.
Chẩn đoán
Lâm sàng
Đa phần bệnh nhân túi thừa đại tràng không
có triệu chứng lâm sàng, một số nghiên cứu trên
những bệnh nhân có túi thừa không triệu chứng
cho thấy chỉ có khoảng 15-25% những bệnh
nhân này bệnh tiến triển thành viêm túi thừa, và
5% trong số này xuất hiện biến chứng của viêm
túi thừa.
Có 3/30 bệnh nhân có tiền căn viêm túi thừa
trước đây (10%), và 27 bệnh nhân còn lại vào
viện ngay lần đầu với biến chứng của túi thừa
đại tràng (90%). So sánh với một nghiên cứu
khác tại Úc của Mark Killingback với cỡ mẫu lớn
hơn thì tỉ lệ bệnh nhân không có tiền căn viêm
túi thừa trong tổng số 248 bệnh nhân thủng túi
thừa là 64% (178/248) (7). Điều này nhắc lại đa số
bệnh nhân túi thừa đại tràng thường không có
biểu hiện lâm sàng và thường vào viện khi có
biến chứng của viêm túi thừa đại tràng.
Bệnh nhân thường vào viện với lý do đau
bụng, thường là đau ¼ bụng dưới trái với nhóm
bệnh nhân khu vực Âu Mỹ, và ¼ bụng dưới bên
phải với nhóm bệnh nhân thuộc khu vực Châu
Á. Khác biệt này là do tại khu vực Âu Mỹ tỷ lệ
viêm túi thừa sigma chiếm đa số, còn tại khu vực
Châu Á tỉ lệ viêm túi thừa manh tràng – đại
tràng phải cao hơn, mặt khác một số trường hợp
túi thừa đại tràng sigma trên những bệnh nhân
có đại tràng sigma dài cũng gây đau vị trí ¼ dưới
phải(3,4).Sốt cũng thường gặp thể hiện một tình
trạng nhiễm trùng ổ bụng. Các triệu chứng cơ
năng ít gặp hơn bao gồm: nôn, buồn nôn, tiêu
chảy, táo bón, bí tiểu,Trong nghiên cứu này,
chúng tôi cũng ghi nhận 29/30 bệnh nhân có đau
bụng, trong đó tỉ lệ bệnh nhân đau ¼ dưới phải
và ¼ dưới trái khá tương đồng, 14 bệnh nhân
đau ¼ dưới phải và 15 bệnh nhân đau ¼ dưới
trái. Chỉ 30% số BN trong mẫu nghiên cứu có
triệu chứng sốt (9/30).
Thủng túi thừa là một biến chứng gây tình
trạng viêm phúc mạc trong ổ bụng, Tuy nhiên
theo Blair triệu chứng biểu hiện trên lâm sàng
tùy thuộc vào nhiều yếu tố: kích thước lỗ thủng,
mức độ viêm nhiễm và đáp ứng của cơ thể với
tình trạng này(1). Trong nghiên cứu này chúng tôi
ghi nhận có 25/30 trường hợp có dấu hiệu viêm
phúc mạc trên lâm sàng (83,3%).
Ở những trường hợp có tình trạng nhiễm
trùng nặng, mạch nhanh là dấu hiệu cảnh báo
sốc nhiễm trùng. Trong mẫu nghiên cứu này,
có 11/30 bệnh nhân có ghi nhận mạch >100
lần/phút (36,7%).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 518
Cận lâm sàng
Bạch cầu: Viêm phúc mạc do thủng túi
thừa đại tràng thường có tăng bạch cầu trên
lâm sàng. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thanh
Phong, Đỗ Bá Hùng trên 13 trường hợp thủng
túi thừa tại BV Bình Dân 2016 thì có 84,6% số
bệnh nhân có tăng bạch cầu máu
(>10.000BC/uL)(11), trong nghiên cứu này 100%
số bệnh nhân thuộc mẫu khảo sát có tăng
bạch cầu máu.
Chẩn đoán hình ảnh
Đa phần bệnh nhân thủng túi thừa đại tràng
triệu chứng lâm sàng thường không đặc hiệu
nên khó chẩn đoán chính xác trước mổ. X-quang
bụng không sửa soạn hay X-quang ngực thẳng là
một cận lâm sàng rẻ tiền, dễ thực hiện có thể
giúp định hướng chẩn đoán trước mổ, và liềm
hơi dưới cơ hoành nếu có trên phim X-quang có
thể giúp các nhà ngoại khoa quyết định can
thiệp phẫu thuật sớm cho bệnh nhân. Tuy nhiên
tỉ lệ bệnh nhân thấy hình ảnh hơi tự do trong ổ
bụng trên phim X-quang theo nhiều nghiên cứu
cũng không cao.
Bảng 6. Tỉ lệ bệnh nhân có hơi tự do trong ổ bụng
trên X-quang
Nghiên cứu Số BN Tỉ lệ
Mark Killingback 1967-1970
(8)
44/138 31,9%
Koutergis GJ – 1988, Morris J – 1986
(10)
- 30-50%
Nguyễn Thanh Phong – Đỗ Bá Hùng
2016
(11)
- 28,6%
Chụp đại tràng cản quang với thuốc cản
quang tan trong nước cũng là một cận lâm sàng
chi phí thấp nhưng hiệu quả với độ nhạy 62-94%
theo một số nghiên cứu, âm tính giả 2-15% (4,8).
Tuy nhiên trong nghiên cứu này không có
trường hợp nào được thực hiện.
Siêu âm là một cận lâm sàng rẻ tiền, không
xâm lấn và có thể thực hiện ngay tại giường,
nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy với
những nhà siêu âm có kinh nghiệm thì khả năng
chẩn đoán túi thừa đại tràng trên siêu âm khá
cao, thậm chí có thể so sánh với CT-Scan(1). Tuy
nhiên với túi thừa có biến chứng thì độ nhạy và
độ đặc hiệu thì CT-Scan vẫn tỏ ra ưu thế hơn(8),
trong nghiên cứu này dựa trên kết quả siêu âm
chỉ ghi nhận có 3/30 trường hợp phát hiện được
viêm túi thừa, 4/30 trường hợp ghi nhận dày
thành đại tràng và 3/30 trường hợp có khối
abcess trong ổ bụng.
CT-Scan: Ngày nay với sự hỗ trợ của các
phương tiện chẩn đoán hình ảnh tiên tiến đã
giúp nhiều nhà ngoại khoa lâm sàng chẩn
đoán xác định thủng túi thừa đại tràng trước
mổ để có chiến lược điều trị tốt nhất cho bệnh
nhân, với sự hỗ trợ của chụp cắt lớp điện toán
với độ nhạy và độ đặc hiệu khá cao trong các
trường hợp túi thừa đại tràng có biến chứng
đã phần nào cho thấy vai trò ngày càng quan
trọng của chẩn đoán hình ảnh trong hỗ trợ
lâm sàng. Theo một vài nghiên cứu gần đây,
CT-Scan có độ nhạy 69-98% và độ đặc hiệu 77-
100% trong chẩn đoán các bệnh lý về túi thừa
(1,8). Trong nghiên cứu này chúng tôi cũng ghi
nhận vai trò rất lớn của CT-Scan trong chẩn
đoán trước mổ, có 19 trường hợp được thực
hiện chụp CT-Scan bụng có cản quang và
12/19 trường hợp (63,2%) được xác định có
thủng túi thừa chỉ dựa trên CTScan đơn thuần.
Điều trị phẫu thuật
Thủng túi thừa đại tràng gây viêm phúc mạc
cần được chỉ định phẫu thuật cấp cứu, điều này
không còn gây nhiều tranh cãi hiện nay.
Trước khi có sự phát triển mạnh mẽ của chẩn
đoán hình ảnh thì việc chẩn đoán trước mổ đối
với những bệnh nhân thủng túi thừa đại tràng
gặp nhiều khó khan. Các chẩn đoán phân biệt
với thủng túi thừa đại tràng thường gặp là viêm
ruột thừa, u đại tràng có biến chứng Ngày nay
với sự hỗ trợ của các phương tiện chẩn đoán
hình ảnh hiện đại, điển hình là CT-Scan thì việc
chẩn đoán trước mổ có thuận lợi hơn. Trong
nghên cứu này, 8/30 BN có chẩn đoán trước và
sau mổ phù hợp là thủng túi thừa (20,7%), 8/30
BN chẩn đoán viêm phúc mạc do thủng tạng
rỗng (20,7%), 12/30 BN với chẩn đoán trước mổ
thuộc nhóm bệnh lý ruột thừa. Như vậy có thể
thấy với những trường hợp BN có biến chứng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 519
túi thừa bên đại tràng phải rất khó để phân biệt
với một tình trạng viêm ruột thừa.
Về vấn đề chọn lựa phương pháp phẫu thuật
cho những bệnh nhân túi thừa đại tràng có biến
chứng thủng vẫn còn nhiều tranh luận qua
nhiều thập kỷ và chưa có sự thống nhất. Một số
nhà lâm sàng quyết định chọn lựa phương pháp
phẫu thuật dựa theo phân độ Hinchey – một
trong những phân độ về túi thừa đại tràng được
chấp nhận rộng rãi(6). Ngoài phân độ Hinchey đã
trình bày ở trên thì năm 1999 Wasvary có đưa ra
phân độ Hinchey cải tiến như sau.
Bảng 7. Phân độ Hinchey cải tiến(2)
Phân
độ
Đặc điểm lâm sàng Đặc điểm trên CT theo
Kaiser
0 Triệu chứng lâm sàng
nhẹ
Viêm túi thừa đại tràng, có
thể kèm theo dày thành đại
tràng hoặc không
Ia Viêm nhiễm khu trú
cạnh đại tràng
Dày thành đại tràng kèm
theo phản ứng viêm mô
mềm cạnh đại tràng
Ib Khối áp xe (<5cm)
cạnh đại tràng hoặc
mạc treo tại chỗ
Độ Ia + khối áp xe cạnh đại
tràng hoặc mạc treo
II Áp xe trong ổ bụng,
vùng chậu hoặc sau
phúc mạc, áp xe tại
chỗ lan rộng
Ia + áp xe lan rộng (thường
ở vùng chậu hoặc giữa các
quai ruột)
III Viêm phúc mạc mủ Hơi tự do trong ổ bụng có
liên quan với viêm phúc mạ
khu trú hoặc toàn thể
IV Viêm phúc mạc phân Tương tự hình ảnh học ở
phân độ III
Theo đó những BN với phân độ Hinchey I,II
có thể lựa chọn điều trị bảo tồn bằng kháng sinh
và/hoặc dẫn lưu ổ áp-xe dưới hướng dẫn CT-
Scan (P) hay là phẫu thuật cắt đoạn đại tràng nối
ngay khá an toàn với tỉ lệ tử vong 0-6% (E). Với
Hinchey III –IV cần can thiệp phẫu thuật cấp
cứu, phẫu thuật chọn lựa có thể là nội soi dẫn
lưu ổ áp xe hoặc cắt đại tràng nối ngay hoặc làm
hậu môn nhân tạo tùy vào đánh giá thực tế của
phẫu thuật viên. Tỉ lệ tử vong đối với bệnh nhân
được phân độ Hinchey III là 6-27%, và 35-64%
với Hinchey IV tùy nghiên cứu(1,5,6). Trong
nghiên cứu này có 3/30 bệnh nhân (10%) được
cắt lọc túi thừa, khâu lỗ thủng đại tràng và dẫn
lưu ổ bụng.
Nhiều báo cáo gần đây cho thấy nhiều
phẫu thuật viên quyết định nối ngay để tránh
cho bệnh nhân phải mang hậu môn nhân tạo,
và kết quả cho thấy tỉ lệ xì –rò trong khoảng 4-
16%, không có khác biệt về tỉ lệ tử vong so với
nhóm làm hậu môn nhân tạo(1,5). 7/30 (21,3%)
trong mẫu nghiên cứu này được phẫu thuật
cắt đại tràng và làm miệng nối tận – tận cùng
một lần mổ, và tỉ lệ xì – rò là 0%, trong đó 6
trường hợp cắt đại tràng phải, và 1 trường hợp
cắt đoạn đại tràng sigma.
Trong trường hợp viêm phúc mạc phân, có
thể kèm theo hay không tình trạng sốc nhiễm
trùng hoặc tình trạng bệnh nhân với nhiều bệnh
lý nội khoa đi kèm không cho phép kéo dài cuộc
mổ, nhiều phẫu thuật viên vẫn ưu tiên lựa chọn
làm phẫu thuật Hartmann, hoặc cắt đoạn đại
tràng đưa hai đầu ra làm hậu môn nhân tạo hay
đơn thuần chỉ là đưa vị trí lỗ thủng túi thừa ra
làm hậu môn nhân tạo. Cũng có một số nghiên
cứu về việc cắt nối đại tràng nối ngay đối với
những nhóm bệnh nhân này tuy nhiên chưa
nhiều và cỡ mẫu nhỏ nên cũng chưa có kết quả
thực sự có ý nghĩa. Trong nghiên cứu này của
chúng tôi có 13/30 trường hợp (33,3%) được cắt
đại tràng làm hậu môn nhân tạo và 07 trường
hợp được mở hậu môn nhân tạo không cắt đại
tràng, tất cả đều là những bệnh nhân thủng túi
thừa đại tràng sigma hoặc đại tràng trái
Gần đây có một số nghiên cứu của các tác giả
Âu Mỹ về phẫu thuật nội soi điều trị túi thừa có
biến chứng với phân độ Hinchey III trở xuống
chỉ rửa và dẫn lưu ổ bụng đơn thuần, không cắt
đoạn đại tràng. Kết quả cho thấy tỉ lệ tử vong và
biến chứng sau mổ thấp <5%. Và bệnh nhân có
thể được thực hiện phẫu thuật chương trình cắt
đại tràng sau đó hoặc không(5,9,12,13).
Biến chứng – tử vong
Thủng túi thừa đại tràng là một biến chứng
nặng ở những bệnh nhân túi thừa đại tràng, tỉ lệ
tử vong còn cao – 8-26% tùy nghiên cứu. Tuy
nhiên trong nghiên cứu này 100% bệnh nhân sau
phẫu thuật được xuất viện trong tình trạng ổn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 520
định, các biến chứng gặp sau mổ là nhiễm trùng
vết mổ 5/30 (16,7%), bung thành bụng 2/30
(6,7%) và một trường hợp tụ dịch sau mổ (3,3%).
Điều này một phần có thể do cỡ mẫu chưa đủ
lớn so với các nghiên cứu khác, mặt khác chỉ có
2/30 bệnh nhân trong nghiên cứu này có tình
trạng viêm phúc mạc phân (Hichey IV).
KẾT LUẬN
Thủng túi thừa đại tràng là một biến chứng
nặng của bệnh túi thừa đại tràng cần can thiệp
ngoại khoa cấp cứu. Bệnh nhân thường nhập
viện với triệu chứng đau bụng ¼ dưới phải hoặc
trái, và dễ chẩn đoán lầm với các nguyên nhân
gây đau bụng cấp khác. CT-Scan giúp hỗ trợ
chẩn đoán xác định trước mổ và quyết định
phương pháp điều trị sớm cho bệnh nhân. Đa số
bệnh nhân được cắt đoạn đại tràng và làm hậu
môn nhân tạo, số ít được nối ruột tận – tận trong
cùng một lần mổ. Việc chẩn đoán và phẫu thuật
sớm khi tình trạng bệnh nhân cho phép có thể
giúp chọn lựa phương pháp phẫu thuật tối ưu
cho bệnh nhân, tránh được các biến chứng nặng
cũng như giảm tỉ lệ tử vong cho bệnh nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Blair N, Germann E (2002). Surgical management of acute
sigmoid diverticulitis. Am J Surg, 183: 525-528. Bruel JM
(2003). Acute colonic diverticulitis: CT or ultrasound?. Eur
Radiol, 13(12): 2557-9
2. Daniel M, Ramesh P (2009). Diet, aging and genetic factors in
the pathogenesis of diverticular disease. World J
Gastroenterol, 15: 2479-2488.
3. Dawson B (2016). Diverticular Disease and Diverticulitis:
Symptoms, Treatment Options and Long-Term Health
Outcomes. Nova Science, Newyork
4. Dominguez EP, Sweeney JF, Choi YU (2006). Diagnosis and
management of diverticulitis and appendicitis. Gastroenterol
Clin North Am, 35(2): 367-91.
5. Farthmann EH, Rückauer KD, Häring RU (2000). Evidence-
based surgery: diverticulitis--a surgical disease?. Langenbecks
Arch Surg, 385(2): 143-51.
6. Hinchey E, Schaal P (1978). Treatment of perforated
diveticular disease of the colon. Adv Surg, 12: 85-109.
7. Killingback M (1983). Management of perforative
diverticulitis. Surg Clin North Am, 63(1):97-115.
8. Lawrimore T, Rhea JT (2004). Computed tomography
evaluation of diverticulitis. J Intensive Care Med,19(4):194-204.
9. Melinda A, Charles F, Chandler (2001). Surgical diverticulistis:
treatmen options. The American Surgeon, 67: 1185-1189.
10. Morris J, Stellato T, Lieberman J (1986). The utility of
computed tomography in colonic diverticulits. Ann Surg, 204:
128-132.
11. Nguyễn Thanh Phong, Đỗ Bá Hùng (2016). Kết quả phẫu
thuật điều trị thủng túi thừa đại tràng. Tạp chí Y Học TP.HCM,
20: 283-289.
12. Taylor CJ, Layani L, Ghusn M (2006). Perforated diverticulitis
manage by laparoscopic lavage. ANZ J Surg, 11: 962-965.
13. Vermeulen J, Lange JF (2010). Treatment of perforated
diverticulitis with generalized peritonitis: past, present, and
future. World J Surg, 34(3): 587-93.
Ngày nhận bài báo: 02/01/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 05/01/2018
Ngày bài báo được đăng: 25/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhan_xet_30_truong_hop_thung_tui_thua_dai_trang.pdf