Tài liệu Nhân tố Bồ Đào Nha trong thương mại biển của các quốc gia Đông Nam Á (thế kỷ XVI – thế kỷ XVII): 1
NHÂN TỐ BỒ ĐÀO NHA TRONG THƯƠNG MẠI BIỂN
CỦA CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á (THẾ KỶ XVI –
THẾ KỶ XVII)
Nguyễn Thị Vĩnh Linh1
Tóm tắt: Là một trong những thế lực phương Tây đầu tiên đến Đông Nam Á, Bồ
Đào Nha đã xác lập ảnh hưởng của mình trong khu vực bằng nhiều cách thức khác
nhau. Trong phạm vi bài nghiên cứu của mình, chúng tôi bước đầu hệ thống hóa quá
trình bành trướng quyền lực của Bồ Đào Nha ở Đông Nam Á từ sự kiện xâm chiếm
Goa (1510). Trên cơ sở đó, phân tích tác động của quá trình này đến thương mại biển
của khu vực trong thế kỷ XVI và thế kỷ XVII trên cả hai phương diện tích cực và tiêu
cực.
Từ khóa: Bồ Đào Nha, Đông Nam Á, thương mại biển.
1. Mở đầu
Từ khi Vasco da Gama khai mở thành công tuyến đường hàng hải mới đến Ấn
Độ, Bồ Đào Nha nhanh chóng bành trướng quyền lực trên toàn Ấn Độ dương. Cho
đến đầu thế kỷ XVI, họ đã xác lập được 2 thương điếm có vị trí chiến lược cực kỳ
quan trọng (Diu và Goa), bước đầu hiện thực hóa mục tiêu độc chiếm việc...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 347 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân tố Bồ Đào Nha trong thương mại biển của các quốc gia Đông Nam Á (thế kỷ XVI – thế kỷ XVII), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
NHÂN TỐ BỒ ĐÀO NHA TRONG THƯƠNG MẠI BIỂN
CỦA CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á (THẾ KỶ XVI –
THẾ KỶ XVII)
Nguyễn Thị Vĩnh Linh1
Tóm tắt: Là một trong những thế lực phương Tây đầu tiên đến Đông Nam Á, Bồ
Đào Nha đã xác lập ảnh hưởng của mình trong khu vực bằng nhiều cách thức khác
nhau. Trong phạm vi bài nghiên cứu của mình, chúng tôi bước đầu hệ thống hóa quá
trình bành trướng quyền lực của Bồ Đào Nha ở Đông Nam Á từ sự kiện xâm chiếm
Goa (1510). Trên cơ sở đó, phân tích tác động của quá trình này đến thương mại biển
của khu vực trong thế kỷ XVI và thế kỷ XVII trên cả hai phương diện tích cực và tiêu
cực.
Từ khóa: Bồ Đào Nha, Đông Nam Á, thương mại biển.
1. Mở đầu
Từ khi Vasco da Gama khai mở thành công tuyến đường hàng hải mới đến Ấn
Độ, Bồ Đào Nha nhanh chóng bành trướng quyền lực trên toàn Ấn Độ dương. Cho
đến đầu thế kỷ XVI, họ đã xác lập được 2 thương điếm có vị trí chiến lược cực kỳ
quan trọng (Diu và Goa), bước đầu hiện thực hóa mục tiêu độc chiếm việc phân phối
hương liệu sang châu Âu. Với sức mạnh hải quân vượt trội, Bồ Đào Nha mở rộng
quyền lực đến Đông Nam Á, khu vực đóng vai trò quan trọng trong kết nối giao thương
giữa Ấn Độ và Viễn Đông.
2. Nội dung
2.1 . Bồ Đào Nha thiết lập quyền lực tại Đông Nam Á
Sau khi chiếm Goa (1510), Bồ Đào Nha đã phóng tầm mắt đến Đông Nam Á -
một trong những khu vực có mối quan hệ thương mại thường xuyên với Ấn Độ. Với
chiến lược: “để giành được ưu thế về thương mại ở Ấn Độ Dương thì điều nhất thiết
là phải chiếm và kiểm soát được các vị trí chiến lược chủ yếu và thúc đẩy hoạt động
buôn bán có thể cung cấp thu nhập đủ để duy trì sức mạnh không gì cưỡng lại được”
[1; 277], Afonso de Albuquerque (1453 – 1515) quyết định xâm chiếm Malacca (lúc
này đang nằm dưới quyền thống trị của Sultan Mohamed). Dựa vào ưu thế của lực
lượng hải quân và chiến lược quân sự nhạy bén, đội quân viễn chinh Bồ Đào Nha đã
1 . TS, Khoa Văn hóa-Du lịch, trường Đại học Quảng Nam
nGuyễn thỊ Vĩnh Linh
2
đánh chiếm thành công Malacca vào năm 1511 như B. W. Diffie and G. D. Winius
trong cuốn “Foundations of the Portuguese Empire 1415-1580” ca ngợi: “Việc chiếm
đóng một thành phố thương mại lớn nhất của châu Á với lực lượng gần 900 người Bồ
Đào Nha và 200 binh lính người Ấn Độ như là một sự kiện trong lịch sử các cuộc viễn
chinh của người châu Âu và có thể sánh với việc xâm chiếm Tenochtitlan của
Hernando Cortés” [7; 256]. Cũng như nhiều cứ điểm ven biển Ấn Độ dương,
Albuquerque lập tức cho xây dựng pháo đài A Famosa do Ruy de Brito Patalim làm
tổng chỉ huy, thực thi chế độ độc quyền thương mại trên tuyến hàng hải từ Malacca
đến Ấn Độ. Thế nhưng, quân đội Bồ Đào Nha luôn vấp phải sự phản kháng mãnh liệt
của Sultan Mohamed từ căn cứ Johore trong những năm 1517, 1520, 1521 vào 1525.
Năm 1526, người Bồ Đào Nha mở thương điếm ở vương quốc Brunei và đem quân
tấn công phá hủy thủ đô Johore trên đảo Bintan. Người Johore phải xây dựng thủ đô
mới ở Batu Sawar. Cuối cùng vào năm 1583, hiệp ước hoà bình được ký kết tạo điều
kiện cho việc xây dựng trường học, bệnh viện và thiết lập “Camara” - Hội đồng thành
phố.
Từ bán đảo Malay, Bồ Đào Nha bành trướng quyền lực đến duyên hải Indonesia
với điểm trọng tâm là quần đảo hương hiệu (Spice Island). Cuộc thám hiểm đầu tiên
của Bồ Đào Nha dưới sự chỉ huy của Antonio de Abreu đến Moluccas. Mất hai trong
số ba chiếc tàu nên ông không thể đến Ternate và Tidore. Một cách ngẫu nhiên, do va
phải tảng đá ngầm ở ngoài khơi đảo Lucopin (Nusa Penju) Francisco Serrao và những
thành viên khác trong đội tàu đã tìm ra Ambon và sau đó là Ternate. Tại đây tiểu vương
ban tước hiệu quý tộc và cho phép Serrao được hưởng mọi đặc quyền hoàng gia. Trong
khi quyền lực của Bồ Đào Nha ngày càng được mở rộng trên khắp quần đảo Hương
liệu thì Tây Ban Nha cũng không từ bỏ tham vọng của mình sau chuyến thám hiểm
vòng quanh thế giới của Ferdinand Magellan (1480-1521). Điều này ảnh hưởng
nghiêm trọng đến lợi ích của Bồ Đào Nha. Vậy là hai bên phải ngồi vào bàn đàm phán.
Hiệp ước Saragossa được ký giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha năm 1529 vạch một
đường ở 17 độ Đông Molucca làm tranh giới phân chia giữa các khu vực lợi ích của
hai nước. Thế là Bồ Đào Nha tạm thời yên tâm để thực hiện công cuộc chinh phục của
mình. Dựa trên mối quan hệ hữu hảo với Hồi vương, tháng 5 năm 1522, Antonio de
Brito đã tiến hành xây dựng pháo đài Sao Joao Baptista de Ternate ngay sau khi ông
trở về từ quần đảo Banda (2/1522). Vào 25/10/1536, thống đốc Bồ Đào Nha Antonio
Galvao thiết lập khu định cư của người Bồ Đào Nha tại Ternate, cùng với một ngôi
trường, một bệnh viện và một vòng thành bằng đá quanh thị trấn này.
Cùng với việc lấy Malacca làm trung tâm, đến khoảng nửa đầu thế kỷ XVI, Bồ
Đào Nha đã xây dựng hệ thống các hải cảng xuyên suốt, trong đó Sumbawa, Gresik,
và Panarukan là quan trọng nhất. Cách thức của họ, ban đầu là hoạt động thương mại
của nhà vua, dần dần được tư nhân hóa, như chúng ta đã thấy những trường hợp tại
châu Á hay xuyên Á - Âu vào thế kỷ XVI.
nGuyễn thỊ Vĩnh Linh
3
Một trong những địch thủ đáng gờm nhất của Bồ Đào Nha là Aceh - một trong
những tiếu quốc Hồi giáo đang trong thời kỳ hưng thịnh. Với vị trí địa lý đắc địa, Aceh
đã nhận gạo và thực phẩm từ những hải cảng ở Bengal, Orissa, và phía nam
Coromandel, và thậm chí của cả tư thương Bồ Đào Nha từ những hải cảng như
Nagapattinam cũng thu hút vào hoạt động thương mại này. Với sự thiết lập Roteiro
das cousas do achem vào năm 1588, Bồ Đào Nha chính thức nắm quyền quản lý hoạt
động thương mại của thương điếm này.
Cách thức chủ yếu mà Bồ Đào Nha sử dụng để thiết lập quyền lực của mình tại
Đông Nam Á là sự kết hợp không tách rời giữa sức mạnh hải quân và sức mạnh tôn
giáo. Sự phối hợp giữa hoạt động quân sự và hoạt động truyền giáo càng được thể hiện
rõ tại một số tiểu quốc trong quần đảo hương liệu khi người Bồ Đào Nha do thiếu nhân
lực không thể xâm chiếm hoàn toàn mà chỉ có thể thiết lập các trạm thương mại tạm
thời và dựa vào những linh mục Thiên Chúa giáo để nắm lấy những vị trí cần thiết mà
thôi. Ví dụ như tại Solor, Flores, Ende Minor, từ năm 1520, người Bồ Đào Nha đến
đây chủ yếu để thu mua gỗ đàn hương và thiết lập kho chứa hàng tạm thời. Họ không
xây dựng những trạm buôn bán thường trực, nông trại hay các pháo đài, mãi đến năm
1561, khi những giáo sĩ dòng Đa minh (Dominicians) theo lệnh của Antonio da Cruz
anh tiến hành truyền bá Thiên Chúa giáo lên những quốc đảo này. Để bảo vệ cho công
cuộc truyền đạo, những giáo sĩ đã tiến hành xây dựng một pháo đài vào năm 1600 gồm
một phòng ngủ, một phòng học chứa được 50 người và nhà thờ Nossa Senhora da
Piedade. Trên đảo Ende Minor, các linh mục cũng thiết lập pháo đài (1595) và nhà thờ
São Domingos. Do sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động truyền bá đạo Thiên Chúa
nên dòng Đa Minh, từ năm 1613 đã dời trụ sở của họ đến Larantuka (Flores). Đây là
trung tâm của người Bồ trên đảo Lesser Sunda cho đến năm 1662, khi trụ sở của họ
chuyển đến Lifau (ngày nay là Ocussi ở Timor). Cùng với Lifau, trên đảo Timor, người
Bồ Đào Nha lần lượt xây dựng những pháo đài: Kupang (1646), Manatuto, Dilly (Dili)
(1668)
Thương nhân Bồ Đào Nha thường lui tới Makasar một cách không thường xuyên
vào thế kỷ XVI và trong suốt thế kỷ XVII, người Bồ Đào Nha sử dụng Makasar như
một trung tâm thương mại giao dịch lụa, hàng dệt, đinh hương, đàn hương, kim cương.
Vào những năm 1620, thường xuyên có khoảng 500 thương nhân Bồ Đào Nha ở pháo
đài Makasar. Mối quan hệ thân thiện giữa Makasar và Bồ Đào Nha ngày càng trở nên
thắm thiết bởi khuyng hướng chung muốn ngăn chặn quyền lực của Hà Lan tại
Moluccas và đảo Sunda.
Các thương thuyền của Bồ Đào Nha qua lại tấp nập trên con đường biển từ châu
Âu đến Viễn Đông. Nhận thấy tầm quan trọng chiến lược của Malacca, Bồ Đào Nha
quyết định thiết lập quan hệ hòa bình với những quốc gia láng giềng trong đó có Siam
- vương quốc có mối quan hệ và ảnh hưởng nhất định đến Malacca trước khi Bồ Đào
Nha xuất hiện. Từ Goa, Phó vương Bồ Đào Nha cùng với Duerter Fesnaldes đã đến
nGuyễn thỊ Vĩnh Linh
4
Siam. Sau một thời gian gián đoạn đến năm 1511, sứ thần đầu tiên của người Bồ đã
có mặt tại Ayuthaya và thiết lập những giao dịch đầu tiên. Một điểm cần chú ý trong
chính sách của Bồ Đào Nha với Siam và các quốc gia trên bán đảo Đông Dương là
duy trì mối quan hệ hòa bình, hữu nghị với việc xin phép lập các thương điếm buôn
bán. Điều này khác hẳn với chính sách sử dụng thương thuyền và pháo hạm chiếm
đóng như tại quần đảo hương liệu hay ở Malacca. Đối với Siam, họ đã có một đường
lối ngoại giao nhạy bén, cho phép các giáo sĩ Bồ tự do truyền đạo thông qua việc dựng
một cây thánh giá trên đồi cao tại thủ đô Ayuthaya và ký kết các hiệp ước buôn bán.
Theo cách đó, thương nhân Bồ Đào Nha được phép buôn bán ở kinh đô Ayuthaya,
Mergui và Tenarserim ở vịnh Bengal, ở Patani và Nakon Srit Ammarat trên bờ biển
phía Tây của bán đảo Malay. Các thương nhân Ayuthaya và Patani đều buôn bán
thường xuyên với Trung Quốc nên thương mại của Bồ Đào Nha ở hai nơi đó đều làm
ăn phát đạt. Các hải cảng ở Siam cũng đồng thời là nơi trú ẩn thường xuyên của tàu bè
Bồ Đào Nha đi Trung Quốc trong điều kiện thời tiết khó khăn. Bồ Đào Nha đã đặt lãnh
sự quán đầu tiên tại Siam và thiết lập khu định cư tại vùng đất phía tây bờ sông
Chaophraya.
Trên bán đảo Đông Dương, Cửa Hàn là thương cảng đầu tiên mà người Bồ Đào
Nha đặt chân đến. Năm 1523, người Bồ Đào Nha đầu tiên đi đến vùng đất
“Cauchinchynam” (tức Đàng Trong) là nhà hàng hải Duarte Coelho, tàu ông đi qua
Cửa Hàn và ghé vào Cù Lao Chàm. Phát hiện này đã đưa các thương phân Bồ Đào
Nha đến Hội An và Đà Nẵng buôn bán từ năm 1557. Họ gọi Cửa Hàn là Tu rão hoặc
Tu ram. Với tư duy thông thoáng, mở cửa giao thương với nước ngoài của chúa
Nguyễn mà cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII, thuyền buôn, ở phương Tây, Đông Nam
Á và Viễn Đông đến Cửa Hàn và cảng thị Hội An buôn bán càng đông. Về vấn đề này,
giáo sĩ người Ý Cristoforo Borri đã viết trong nhật ký năm 1631 rằng: “Chúa Đàng
Trong không đóng cửa trước một quốc gia nào, ngài để cho tự do và mở cửa đối với
tất cả những người ngoại quốc. Phương châm của người Đàng Trong là không bao
giờ tỏ ra sợ hãi một quốc gia nào trên thế giới...” [10]. Cùng với hoạt động thương
mại, giáo đoàn Dòng Tên (gồm các giáo sĩ : Francisco Buzomi, Diego Carvalho,
Manuel Fernandez và thầy giảng Bồ Đào Nha Antonio Dias) cập bến Cửa Hàn ngày
15/01/1615. Dưới sự cho phép của chúa Nguyễn, thương thân Bồ Đào Nha xây dựng
một khu phố trên Đất Hàn với nhiều nhà ở, kho hàng, hiệu buôn thông qua mạng lưới
“mại biện” để thu mua hàng hóa. Khi tàu Bồ Đào Nha chở hàng đến Hội An (thường
là diêm tiêu, lưu huỳnh, dạ nỉ và súng đạn...) và sau khi bán xong hàng thì chất hàng
mới mua xuống tàu (tơ lụa, gốm sư, trầm hương, ngà voi, đường, yến sào...) chở về
Cửa Hàn nhập kho hoặc chở thẳng về Goa (thuộc địa ở Ấn Độ) hay về nước. Đặc biệt,
“người Bồ giúp chúa Nguyễn mở xưởng đúc súng ở Thuận Hóa (phục vụ cho nhu cầu
của cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn) khiến họ được trọng vọng trong buôn bán bảo
vệ được các nhà truyền đạo Mặt khác, các chúa Nguyễn vẫn tỏ ra thích người Bồ
đến buôn bán lạ lùng. Và đã mấy lần ngài cho họ ba hay bốn địa điểm ở nơi phì nhiêu
nGuyễn thỊ Vĩnh Linh
5
nhất và phong phú nhất trong vùng để họ xây cất một thành phố với tất cả những gì
cần thiết cũng như người Tàu và người Nhật đã làm ở Hội An” [5; 99]. Tận dụng
những thuận lợi có được, người Bồ tìm mọi cách tranh cướp thị trường với các thương
nhân khác và mở rộng ảnh hưởng ra những vương quốc còn lại trên bán đảo Đông
Dương
Từ năm 1540, một sứ giả Bồ Đào Nha tên là Mendez Pinto đã ghé qua Côn Đảo
để đi Nam Kỳ, rồi sau đó ngược sông tới Campuchia. Các vua Khơme trong thời kỳ
này luôn lo lắng trước hoạ xâm lăng của phong kiến Xiêm (Siam), nhưng chưa thấy ý
đồ đen tối của thực dân châu Âu nên đã có ý định nhờ họ giúp đỡ về quân sự để chống
lại sự uy hiếp của Xiêm. Vua Satha (1567 - 1594) đã trọng dụng một số người Bồ Đào
Nha có mặt tại đây để mong thiết lập quan hệ hữu hảo với vua Bồ. Tuy nhiên, lúc này
những hoạt động của các chính khách Bồ tỏ ra yếu thế trước chính sách khôn ngoan
cuả Tây Ban Nha nên dần dần Campuchia bị biến thành vương quốc chịu ảnh hưởng
chính của Tây Ban Nha.
Vậy là bằng các cách khác nhau trong thế kỷ XVI, Bồ Đào Nha đã lần lượt xác
lập quyền lực của mình ở Đông Nam Á. Đây được xem là giai đoạn phát triển thịnh
đạt của đế chế Bồ Đào Nha ở phương Đông.
2.2. Tác động của Bồ Đào Nha đến thương mại biển Đông Nam Á
Là thế lực thương mại châu Âu đầu tiên đến Đông Nam Á, Bồ Đào Nha đã có
những tác động khá sâu sắc đến hoạt động giao thương của khu vực này.
Thứ nhất, với đặc điểm của một đế quốc mậu dịch hàng hải ven biển đầu tiên
trong lịch sử, sự xuất hiện của Bồ Đào Nha đã thúc đẩy hoạt động giao thương biển
của Đông Nam Á trở nên sầm uất, sôi động và nhộn nhịp với phạm vi mở rộng hơn
trước đây nhiều lần (trong đó Malacca là một ví dụ điển hình). Nếu nhìn nhận một
cách khách quan, trước khi thế lực phương Tây đầu tiên đến Đông Nam Á thì Malacca
đã đóng một vai trò quan trọng trong giao thương hàng hải ở châu Á. Cảng Malacca là
vị trí tất yếu phải qua của “con đường hương liệu trên biển”, những thương nhân buôn
hương liệu lợi dụng gió Tây Nam vượt qua Ấn Độ Dương đi thẳng đến bán đảo Hương
Liệu sau đó chờ khi gió Đông Bắc sẽ quay về. Sự giàu có của Malacca làm cho quân
đội viễn chinh choáng ngợp, theo giáo sư Lương Ninh: “Malacca được xem là nơi duy
nhất trên thế giới mà người ta có thể mua rất dễ dàng hàng hóa Trung Quốc (đồ sứ,
tơ lụa, gương Tàu), Ấn Độ (ngọc trai, vải bông mịn). Giava và Xumatơra (thóc, lúa,
hành, tỏi, vàng, hồ tiêu, trâu, bò, vũ khí), Tây Á và châu Âu (hàng len) cùng các sản
phẩm địa phương Đông Nam Á lục địa” [4; 229]. Cho nên, đối với Bồ Đào Nha
Malacca có vị trí cực kỳ lợi hại để họ thực hiện chiến lược toàn diện của mình: “Các
con tàu của những người Hồi giáo vẫn còn có thể thu mua các sản phẩm của Bengal,
Miến Điện, Sumatra, quần đảo Spice, Xiêm, Trung Quốc tại trung tâm thương mại lớn
ở Malacca. Albuquerque dự định ngăn chặn việc buôn bán này bằng cách, chiếm biển
nGuyễn thỊ Vĩnh Linh
6
Đỏ, đồng thời tấn công vào đại bản doanh của nền thương mại đó. Hơn nữa Malacca
nằm dưới sự lãnh đạo của vua Hồi giáo, ông ta chiếm Malacca để nhằm thực hiện
nhiệm vụ mà sắc lệnh của Alexandre IV đã giao phó cho ông.” [1; 378, 379]. Và ngay
sau khi chiếm đóng thành công Malacca, Bồ Đào Nha đã lợi dụng vị thế chiến lược
nơi đây để biến thương điếm này trở thành một trong ba chiếc chìa khóa bằng vàng
trên tuyến thương mại nội Á và xuyên Á như một miêu tả của người đương thời: “Nơi
đây buôn bán qua lại tấp nập, vào cuối thế kỷ XVI ở Malacca tàu thuyền đậu san sát,
bốn mùa đông đúc nhân dân không chỉ bán hàng mà còn có nhiều nơi ăn chơi giải trí.
Những người buôn bán ở Malacca đều có gốc tích từ nhiều quốc gia trên thế giới. Sự
giàu có của Malacca đã được Tompies, người đã đến Malacca với tư cách kế toán cho
cơ quan thương mại Bồ Đào Nha nhận xét: “Người ta không kể đánh giá hết giá trị
của Malacca qua tầm vóc và lợi nhuận của nó”. [2; 31]
Bên cạnh đó, do đóng vai trò kết nối giao thương và cung cấp những mặt hàng
quan trọng cho các thương điếm của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ nên quan hệ thương mại
của thương nhân Đông Nam Á cũng được mở rộng. Ví dụ như với Pulicat: Quan hệ
buôn bán với Pulicat cơ bản dựa trên hai nhánh chính. Đầu tiên, các thương thuyền
đến những hải cảng thuộc lãnh thổ Myanmar hiện nay nhưng chia làm hai cấp độ: nếu
tại Martaban và Cosmin (tiếng Miến Điện gọi là Pathein) buôn bán diễn ra rất sôi động
và khối lượng hàng hóa trao đổi khá lớn thì tại Mergui, Pegu, Miến Điện khối lượng
hàng hóa trao đổi là không đáng kể. Nhánh thứ hai đến Malacca và các hải cảng xa
hơn về phía đông của quần đảo Indonesia. Mặt hàng xuất khẩu chính từ Pulicat gồm:
tơ lụa, được sản xuất trên duyên hải Coromandel và chỉ đỏ từ châu thổ Krishna. Hàng
hóa nhập khẩu đến Coromandel bao gồm những mặt hàng như: vàng, rubi, gỗ xây
dựng, thiếc, ngà voi và đồng. Vào năm 1516, Antonio Dinis, người quản lý Bồ Đào
Nha tại Martaban, đã báo cáo lại rằng trung bình 4 hoặc 5 tàu đến buôn bán hàng năm
giữa Cosmin và Coromandel. Việc buôn bán với Malacca cũng được tổ chức xuyên
suốt với một tàu lớn và 5 tàu nhỏ hơn/năm. Bên cạnh trung tâm chính là Malacca, các
thương nhân từ Pulicat cũng có những chuyến tàu thường niên đến Pidie ở phía Bắc
Sumatra, cũng như đi lại từ Pasai đến Coromandel. Mặt hàng chính mà các thương
nhân tại Pulicat thu mua gồm hương liệu của người Indonesia; gỗ, tơ lụa Trung Quốc;
vàng và kim loại thường như thiếc, đồng, thủy ngân và thần sa. Thêm vào đó, họ cũng
đến giao thương cùng với các hải cảng phía bắc của Bengal, Sri Lanka, những hải cảng
khác ở phía nam và các hải cảng vùng duyên hải Malabar.
Như vậy, một tuyến thương mại rộng lớn và thông suốt được hình thành, phát
triển cực kỳ hưng thịnh từ vịnh Bengal thông qua Malacca, đến Sri Lanka, Maldives,
Malabar, và cuối cùng đến Gujarat, Biển Đỏ và vịnh Ba Tư. Trong đó, việc buôn bán
với Malacca vẫn chiếm địa vị thống trị. Điều này đã nói lên phần nào sự phát triển
vượt bậc của giao thương Đông Nam Á trong mạng lưới thương mại Bồ Đào Nha trong
suốt thế kỷ XVI.
nGuyễn thỊ Vĩnh Linh
7
Thứ hai, với tuyến thương mại biển được xây dựng dựa trên hệ thống thương
điếm phân bố dọc duyên hải, giao thương biển của Đông Nam Á đã được tạo cơ hội
lớn để hội nhập với mạng lưới thương mại biển trên toàn thế giới. Chúng ta biết rằng
đến khoảng thế kỷ IX, một mạng lưới thương mại biển tinh vi và rộng lớn đã hình
thành ở châu Á. Mạng lưới này liên kết các hải cảng ở phía Tây Ấn Độ Dương đến
vịnh Bengal và thông qua eo Malacca đến Biển Đông. Sự kết nối giữa Trung Đông,
Đông Phi, Ấn Độ, Đông Nam Á và Trung Quốc góp phần tạo nên một khu vực thương
mại đầy sôi động. Khi Bồ Đào Nha đến đây, mạng lưới này đã được mở rộng về phạm
vi không gian cũng như đa dạng hóa mối quan hệ kinh doanh hàng hóa. Đến khoảng
nửa đầu thế kỷ XVI, Bồ Đào Nha đã xây dựng được hai hệ thống thương điếm lồng
vào nhau: một cho thương mại nội Á và một cho giao thương Á – Âu. Chính sự vận
hành của mạng lưới thương điếm này đã tạo điều kiện thúc đẩy sự hội nhập của thương
mại biển Đông Nam Á vào giao thương quốc tế. Đi sâu phân tích, chúng ta thấy rằng:
trong giai đoạn đầu, gia vị của Đông Nam Á được xác định là một trong những nhóm
mặt hàng chủ lực để đổi lấy vàng tại Đông Phi. Với chức năng trên, các thương điếm
tại Đông Nam Á chỉ đơn thuần là các đại lý thương mại thu mua những mặt hàng cần
thiết vì lúc này vàng mới là mục tiêu chủ yếu của nhà nước thuộc địa Bồ Đào Nha.
Tuy nhiên, khi tuyến thương mại Cape được dựng nên vào đầu thế kỷ XVI theo một
lộ trình cố định từ các địa lý thương mại ven biển về Lisbon, thì Đông Nam Á càng
đóng vai trò quan trọng và hội nhập ngày càng sâu vào mạng lưới thương mại quốc tế
(các đảo thuộc Malaysia và Indonesia hiện nay cung ứng hạt tiêu; gia vị, đinh hương
thì đến từ Moluccar). Lúc bấy giờ trước khi lộ trình Cape được mở ra, những hàng hoá
quan trọng nhất là tiêu, tiếp theo là gia vị đến châu Âu bằng đường bộ và đường biển
với nhiều khó khăn, những cảng biển như Malacca và Calicut làm nhiệm vụ trung
chuyển trước khi được đưa đến Hurmuz và Aden. Tại đây, các thương nhân thuê nhóm
người vượt sa mạc đến cảng miền Đông Địa Trung Hải. Vì thế, các hải cảng Đông
Nam Á đã trở thành những trạm trung chuyển, phân phối, thu mua hàng hóa (đặc biệt
là hương liệu) mang tính toàn cầu. Đặc biệt, với mong muốn nắm độc quyền tuyển
thương mại từ Ấn Độ đến Viễn Đông, A.Albuquerque thể hiện tham vọng muốn nhận
được sự hợp tác của “Cộng đồng mậu dịch thị xã”. Đó là thương nhân người Tamils
hay Kelings1, có vị trí cao trong mậu dịch ở vịnh Bengal và Đông Malacca. Thông qua
Kelings, A.Albuquerque và vài đại diện của ông ở Malacca đã tìm các liên lạc với
những bộ phận khác của vịnh ở miền duyên hải Bengal, miền Nam Á và phía Đông xa
xôi. Vào giữa năm 1511 và 1515 (năm A.Albuquerque chết) hàng loạt những dự án
kinh doanh trên biển được tổ chức trên nền tảng hợp tác giữa quốc vương Bồ Đào Nha
và thương nhân Keiling. Nhiều tàu đã cập bến Martaban của Miến Điện, Pulicat ở
Đông Nam Ấn Độ và Molucca và rồi đến 1518 chúng được thay thế bởi sự kiểm soát
hoàn toàn của Bồ Đào Nha đối với khu vực này. Từ việc kinh doanh này, thường xuyên
1 . Là từ được những người Indonesia và Malaysia bản địa sử dụng để ám chỉ những người có nguồn
gốc từ Ấn Độ đang sinh sống trên các đảo thuộc quần đảo Indonesia và Malay.
nGuyễn thỊ Vĩnh Linh
8
xuất hiện hệ thống Carreiras (được gọi là những lộ trình thương mại thuộc quốc vương)
giữa những cảng được chỉ định tại châu Á như Pulicát và Malacca hay Malacca và
Chittagong (Bengal). Càng ngày hệ thống Carreiras càng đóng vai trò quan trọng trong
việc mậu dịch thương mại và ngoại giao giữa Bồ và các vùng đất khác tại châu Á. Từ
phía Đông cảng Cape Comorin, những “Carreiras” đầu tiên xuất hiện từ bờ biển phía
Tây Ấn Độ đến đảo Banda ở Moluccas xuyên qua Malacca đến Coromandel (là
Pulicat) và đến Pegu thuộc Miến Điện. Rồi tiếp đó theo sau lộ trình này được kéo dài
đến Bengal và đến một cảng chủ tại bán đảo Malay. Những thuyền trưởng này cùng
thời cũng được yêu cầu đóng vai trò của những nhà ngoại giao và những nhà đại sứ
thiết lập mối quan hệ giữa Goa với các Carreiras đã dự định sẵn. Những Carreiras và
những đại sứ của nó đảm bảo việc giao thương và thống trị của Bồ tại các vùng đất ở
châu Á. Chính điều đó đã khiến các hải cảng tại Đông Nam Á cũng như những mặt
hàng từ khu vực này tham gia một cách tích cực vào mạng lưới giao thương trên.
Tuy nhiên, với chiến lược thương mại độc quyền, Bồ Đào Nha cũng gây ra những
tác động tiêu cực đến toàn cảnh bức tranh thương mại biển tại Đông Nam Á. Khi Bồ
Đào Nha đến miền duyên hải Indonesia thì ở đây đang diễn ra cảnh buôn bán tấp nập
giữa cư dân địa phương với những thương nhân đến từ các vùng khác nhau ở châu Á.
Sử dụng sức mạnh quân sự, Bồ Đào Nha đã nhanh chóng chiếm đóng các hải cảng
nằm trên con đường mua bán, vận chuyển hương liệu. Thế là khung cảnh yên bình
trước đây được thay bằng những cuộc tranh chấp đầy mâu thuẫn, căng thẳng và đổ
máu. Một nền thương mại tự do trước đây được thay bằng sự kiểm soát chặt chẽ thông
qua hệ thống califa hay còn gọi là hệ thống lữ hành hoặc việc áp dụng cartaz1.
Không những thế, là thị trường nằm giữa Ấn Độ và Trung Quốc, đôi khi vai trò
của các cảng thị tại Đông Nam Á không được phát huy đầy đủ. Estado da India chỉ
xem các hải cảng ở khu vực này đơn thuần là trạm trung chuyển hàng hóa giữa hai khu
vực quan trọng hơn là Ấn Độ và Trung Quốc. Vì thế, ở một mức độ nhất định, chúng
không được tạo điều kiện để phát huy hết công năng sử dụng và ưu thế của mình. Bên
cạnh đó, do chỉ tập trung vào một số thương điếm nhất định, nên một vài hải cảng
không nằm trong chiến lược của người Bồ Đào Nha rơi vào tình trạng suy tàn, kém
phát triển hơn trước. Do đó, nhân tố Bồ Đào Nha không dẫn đến sự phát triển đồng
đều của thương mại biển trên toàn khu vực. Sự đối đầu giữa Bồ Đào Nha và Tây Ban
Nha cũng dẫn đến một đặc điểm hết sức thú vị là trên cùng một khu vực nhưng một số
cảng thị của Đông Nam Á hầu như không buôn bán với nhau hoặc thuộc hai mạng lưới
thương mại hoàn toàn không giống nhau. Điển hình là trường hợp giữa Manila (thuộc
quyền quản lý của Tây Ban Nha) và Malacca (thuộc Estado da India Bồ Đào Nha).
1 . Đây là hình thức cấp phép trong thương mại đường biển được thực hiện bởi người Bồ Đào Nha từ
đầu thế kỷ XVI đến nửa cuối thế kỷ XVIII. Theo đó, các tàu muốn đến buôn bán với các vùng đất dưới
sự kiểm soát của người Bồ Đào Nha phải được sự cho phép của Estado và phải đóng thuế theo quy định
nếu không sẽ bị tấn công, đánh đắm bởi lực lượng hải quân Bồ Đào Nha tại Ấn Độ dương.
nGuyễn thỊ Vĩnh Linh
9
3 . Kết luận
Bồ Đào Nha là quốc gia phương Tây đầu tiên xác lập quan hệ với Đông Nam Á
thông qua nhiều cách thức khác nhau. Đó có thể là mua chuộc những Hồi vương địa
phương nhằm xây dựng một địa lý thu mua hàng hóa hoặc kiên quyết sử dụng kỹ thuật
hải quân tiên tiến (đặc biệt là pháo binh) nhằm triệt hạ ngay những địch thủ chống đối,
chiếm đóng đất đai và thiết lập pháo đài ven biển. Tại các khu vực khác, càng về sau
thì yếu tố sử dụng bạo lực thắng thế và chi phối chiến lược của người Bồ Đào Nha.
Thế nhưng, đối với Đông Nam Á, Bồ Đào Nha vẫn duy trì chiến lược ngoại giao tương
đối linh hoạt mềm dẻo vì thế quan hệ giữa hai bên là khá hòa hảo.
Sự xuất hiện của Bồ Đào Nha đã dẫn đến nhiều thay đổi trong giao thương đường
biển của khu vực Đông Nam Á. Trên bình diện tích cực, Bồ Đào Nha đã góp phần
thúc đẩy thương mại biển ở khu vực này phát triển cả về phạm vi không gian lẫn đa
dạng hóa mặt hàng buôn bán. Bên cạnh đó, với sự ra đời của hệ thống Carreira (được
gọi là những lộ trình thương mại thuộc quốc vương) giữa những cảng được chỉ định
tại châu Á như Pulicat với Malacca hay Malacca với Chittagong (Bengal), các thương
điếm tại Đông Nam Á cũng được tạo điều kiện để hội nhập mạnh mẽ hơn vào mạng
lưới thương mại biển mang tính quốc tế đầu tiên của thời cận đại. Tuy nhiên, việc thực
thi chế độ độc quyền thương mại hạt tiêu và sự kiểm soát chặt chẽ của Bồ Đào Nha
cũng gây ra những tác động tiêu cực đến hoạt động giao thương nói chung tại một số
cảng biển ở Đông Nam Á.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] D.G.E Hall (1997), Lịch sử Đông Nam Á, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
[2] Nguyễn Thị Huệ (2001), Quan hệ giữa Trung Quốc với một số quốc
gia ở Đông
Nam Á thời trung đại ( đề tài khoa học cấp trường), Huế
[3] Lương Ninh (chủ biên, 2005), Lịch sử Đông Nam Á, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
[4] Lương Ninh (1984), Lịch sử thế giới trung đại (quyển 2), NXB Đại học
và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
[5] Nguyễn Chí Trung (2005), Cư dân Faifo - Hội An trong lịch sử, Trung
tâm quản lý bảo tồn di tích Hội An II. Tài liệu tiếng Anh
[6] Boyajian, J.C (2007), Portuguese Trade in Asia under the Habsburgs,
1580–1640. JHU Press
nGuyễn thỊ Vĩnh Linh
10
[7] Bailey Wallys Diffie và George D. Winius (1977), Foundations of the
Portuguese Empire, 1415-1580, University of Minnesota, Mineapolis
[8] A.R.Disney (2009), A History of Portugal and the Portuguese Empire:
From Beginnings to 1807, Cambridge University Press, London.
[9] Subrahmanyam, Sanjay (1993), The Portuguese Empire in Asia 1500 –
1700, a political and economic history. Longman, London and New York
[10] Nguyễn Văn Kim, Xứ Đàng Trong trong các mối quan hệ và tương tác
quyền lực khu vực, cập nhật ngày 27 tháng 1 năm 2013,
tng-tac-quyn-lc-khu-vcpgsts-nguyn-vn-kim
Title: PORTUGAL IN THE MARITIME COMMERCE OF SOUTHEAST
ASIAN NATIONS (THE XVI - XVII CENTURY)
NGUYEN THI VINH LINH
Quang Nam University
Abstract: Being the first western power to come to Southeast Asia, Portugal had
boosted its influence in the area through a lot of ways. In the scope of the research,
we initially systematized the process of Portuguese powerful expansion in Southeast
Asia, which is started by the event of occupation Goa (1510). On this basis, we analyze
the impact of this process on the maritime commerce in Southeast Asia in the XVI –
XVII century on both positive and negative sides.
Keywords: Portugal, Southeast Asia, maritime commerce.
nGuyễn thỊ Vĩnh Linh
11
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 9_nhan_to_bo_dao_nha_trong_thuong_mai_bien_7174_2130869.pdf