Tài liệu Nhận thức về xây dựng bền vững trong “giới xây dựng” ở Việt Nam hiện nay: NHẬN THỨC VỀ XÂY DỰNG BỀN VỮNG
TRONG “GIỚI XÂY DỰNG”
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Lê Hồng Thái * Nguyễn Ngọc Thức **
* Trường Đại học Xây dựng, Hà Nội
** Trường Cao đẳng Xây dựng, Hà Nội
Tóm tắt:
Phát triển bền vững dựa trên ba trụ cột chính là:
Kinh tế, môi trường và xã hội. Ở các nước phát triển, xây
dựng bền vững đã và đang được triển khai ngày càng
sâu, rộng. Tại các nước đang phát triển, mọi vấn đề về
xây dựng bền vững đang được nghiên cứu và việc áp
dụng xây dựng bền vững đang gặp nhiều trở ngại, trong
đó, trở ngại lớn nhất là nhận thức của xã hội, đặc biệt là
của “giới xây dựng”, đang quá hạn chế. Với số liệu điều
tra được từ các thành phần thuộc “giới xây dựng” gồm
nhà thiết kế, nhà thi công, nhà khai thác và cung ứng vật
liệu, người quản lý nhà nước, bài báo cho thấy tình trạng
nhận thức về xây dựng bền vững hiện nay ở Việt Nam:
Những người biết đến xây dựng bền vững và mức độ
nhận thức về nội dung của xây dựng bền vững.
Từ khóa: Xây dựng, xây dựng...
5 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 276 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận thức về xây dựng bền vững trong “giới xây dựng” ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHẬN THỨC VỀ XÂY DỰNG BỀN VỮNG
TRONG “GIỚI XÂY DỰNG”
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Lê Hồng Thái * Nguyễn Ngọc Thức **
* Trường Đại học Xây dựng, Hà Nội
** Trường Cao đẳng Xây dựng, Hà Nội
Tóm tắt:
Phát triển bền vững dựa trên ba trụ cột chính là:
Kinh tế, môi trường và xã hội. Ở các nước phát triển, xây
dựng bền vững đã và đang được triển khai ngày càng
sâu, rộng. Tại các nước đang phát triển, mọi vấn đề về
xây dựng bền vững đang được nghiên cứu và việc áp
dụng xây dựng bền vững đang gặp nhiều trở ngại, trong
đó, trở ngại lớn nhất là nhận thức của xã hội, đặc biệt là
của “giới xây dựng”, đang quá hạn chế. Với số liệu điều
tra được từ các thành phần thuộc “giới xây dựng” gồm
nhà thiết kế, nhà thi công, nhà khai thác và cung ứng vật
liệu, người quản lý nhà nước, bài báo cho thấy tình trạng
nhận thức về xây dựng bền vững hiện nay ở Việt Nam:
Những người biết đến xây dựng bền vững và mức độ
nhận thức về nội dung của xây dựng bền vững.
Từ khóa: Xây dựng, xây dựng bền vững, xây dựng bền
vững ở Việt Nam.
Abstract:
Sustainable development is based on three main
factors: economy, environment and society. In developed
countries, sustainable construction has been implemented
more deeply and widely. In developing countries, all the
issues of sustainable construction are being studied and the
application of sustainable construction has encountered
a lot of obstacles, in which the greatest obstacle is the
awareness of society, especially of the "construction circle",
which is too restrictive. With survey data from "construction
circle" including designers, constructors, operators and
material suppliers, state managers, the article shows the
awareness of sustainable construction in Vietnam today:
those who knows of sustainable construction and their level
of awareness of the content of sustainable construction.
Keywords: Construction, sustainable construction in
Viet Nam
Nhận ngày 25/6/2018, chỉnh sửa ngày 29/6/2018, chấp
nhận đăng ngày 05/7/2018.
Yêu cầu đặt ra cho kỷ nguyên phát triển mới trên toàn cầu, đó là “phát triển để thỏa mãn các nhu cầu hiện tại nhưng không làm tổn hại đến
khả năng thỏa mãn nhu cầu của các thế hệ tương lai”
63Số 60.2018 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
KINH NGHIỆM QUẢN LÝ
Báo cáo Brundland về “Tương
lai chung của chúng ta” của Ủy ban
thế giới về môi trường và phát triển
((WCED) trình bày tại cuộc họp báo
diễn ra ở Brundland London, tháng
4 năm 1987 đã đặt yêu cầu cho kỷ
nguyên phát triển mới trên toàn
cầu. Theo đó, “phát triển để thỏa
mãn các nhu cầu hiện tại nhưng
không làm tổn hại đến khả năng
thỏa mãn nhu cầu của các thế hệ
tương lai” [8]. Các nhà xây dựng
nói chung trên toàn thế giới đã
tích hợp tinh thần đó với các định
hướng phát triển bền vững trong
Tuyên bố Rio De Rareiro về Môi
trường và Phát triển năm 1992
thành chủ trương phát triển của
Ngành được thông qua đầu tiên
tại Hội thảo quản lý lần thứ nhất về
“xây dựng bền vững” năm 1994 ở
Tampa và tiếp đó là trong “Chương
trình nghị sự 21” về Xây dựng bền
vững do Hội đồng Quốc tế về
Nghiên cứu và Sáng tạo trong xây
dựng, báo cáo năm 1999. Từ đó, ở
khắp mọi quốc gia, tại mọi vùng
lãnh thổ đã lan tỏa chủ trương xây
dựng bền vững, mà nội dung của
nó được đặc trưng bởi các tính bền
vững của những yếu tố sau:
Sự bền vững kinh tế, có được nhờ
sử dụng ngày càng hiệu suất hơn các
nguồn tài nguyên;
Sự bền vững môi trường, nhờ tránh
được các tác động gây tổn hại đến môi
trường tự nhiên;
Sự bền vững xã hội, thể hiện ở đảm
bảo thỏa mãn nhu cầu không chỉ cho
khách hàng (người sử dụng), bạn hàng
(nhà cung cấp), những người tham
gia quá trình xây dựng mà còn cho cả
cộng đồng [6, 11].
Tuy nhiên, nhận thức và thực hiện
“xây dựng bền vững” ở các quốc gia
diễn ra theo các cách khác nhau, phụ
thuộc và tình trạng kinh tế, mức đô
thị hóa, hoàn cảnh lịch sử và văn hóa,
khí hậu và chính sách quốc gia [4].
Việt Nam là một trong nhóm
các nước đang phát triển, là nơi yêu
cầu có sự tiếp cận đến thiết lập môi
trường xây dựng bền vững không
như ở các nước phát triển. Bởi vì, vấn
đề không chỉ ở chỗ quy mô, sự ưu tiên
phát triển, năng lực sản xuất và quản
lý và trình độ kỹ năng khác nhau mà
còn vấn đề văn hóa và thế giới quan
còn khác nhau giữa các nhóm nước
phát triển và đang phát triển [4].
Sự tiếp cận đến xây dựng bền vững
trước hết là nhận thức. Với xuất phát
điểm như vậy, bài báo này sẽ đề cập
đến nhận thức của con người, những
vấn đề về xây dựng bền vững cần
phải được nhận thức và thực trạng
nhận thức của “giới xây dựng” Việt
Nam hiện nay về xây dựng bền vững.
BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA
NHẬN THỨC
Sự thay đổi về nhận thức và đạo
đức là điều kiện tiên quyết và là
thành phần tích hợp của phát triển
bền vững [5].
Nhận thức là quá trình biện chứng
của sự phản ánh thế giới khách quan
trong ý thức con người, nhờ đó con
người tư duy và không ngừng tiến
đến gần khách thể. Quá trình biện
chứng đó mang tính tích cực, năng
động, sáng tạo trên cơ sở thực tiễn
[2]. Như vậy, nhận thức là một quá
trình các chủ thể thu lượm các dữ liệu
thực tế về khách thể thông qua cảm
giác sau đó chọn lọc và gán ý nghĩa
phù hợp nhất cho khách thể (môi
trường) [12].
Sự nhận thức của con người là rất
quan trọng. Nó là cội rễ của các hành
động và tham vọng của chúng ta. Có
nhận thức được mới thấy được trách
nhiệm, thấy được các khó khăn, thách
thức và mới có hành động đúng.
Như một sự quy nạp, để thực hiện
xây dựng bền vững, trước hết phải
nhận thức được “xây dựng bền vững”.
Chưa có những ngôi nhà bền vững là
do chưa có sự hiểu biết chung “tính
bền vững là gì?” [10]
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ “XÂY DỰNG
BỀN VỮNG” CẦN ĐƯỢC NHẬN THỨC
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Có hai vấn đề về xây dựng bền
vững cần được nhận thức và lý giải
một cách rõ ràng, minh bạch, đó là là
nội dung của xây dựng bền vững và
trách nhiệm của từng chủ thể tham
gia hoạt động đầu tư xây dựng trong
việc thực hiện xây dựng bền vững.
Phát triển bền vững dựa trên ba trụ cột chính là “kinh tế - môi trường - xã hội”
64 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
KINH NGHIỆM QUẢN LÝ
Về nội dung, tuy có nhiều cách
nhìn nhận về xây dựng bền vững
nhưng có thể hiểu xây dựng bền
vững là cách mà ngành Xây dựng
hành động để đạt được phát triển
bền vững [7]. Theo tư duy đó, xây
dựng bền vững có thể được thể hiện
như là một mô hình mục tiêu chuyển
thể mới, có sự kế thừa mô hình mục
tiêu xây dựng truyền thống (hình 1).
Các vấn đề thuộc 3 trụ cột “kinh
tế - xã hội - môi trường” của xây dựng
bền vững phải được nhận thức một
cách sâu sắc dưới các khía cạnh chính
sau đây:
Môi trường [6, 9]:
+ Sử dụng tài nguyên một cách
hợp lý (có hiệu suất): Giảm thiểu
lượng vật liệu dùng cho các sản
phẩm không tái sử dụng, không tái
chế được.
+ Tránh làm tài nguyên cạn kiệt:
Dùng vật liệu thay thế, các loại tài
nguyên sinh học, tài nguyên tái tạo
được, giảm tiêu thụ năng lượng cho
các hoạt động sản xuất và cung cấp
dịch vụ
+ Tránh làm ô nhiễm môi trường:
Kiểm soát việc xả thải ra môi trường,
sử dụng các loại vật liệu không độc
hại
Kinh tế [9]:
+ Coi trọng chi phí vòng đời của
dự án: Xem xét không chỉ ở giai đoạn
đầu tư xây dựng công trình của dự án
mà cả ở giai đoạn khai thác dự án.
+ Phát triển công cụ kinh tế thích
hợp để thúc đẩy sự tiêu dùng bền
vững (có lợi nhuận hôm nay mà không
ảnh hưởng nhu cầu của tương lai)
+ Đảm bảo chất lượng công trình
và dịch vụ.
Xã hội [6, 9]:
+ Đảm bảo môi trường xây dựng
trong sạch, an toàn và tiện ích, bình
đẳng cho mọi người.
+ Thu hút sự tham gia của cộng
đồng.
+ Coi trọng và đánh giá tác động
của dự án lên sức khỏe và chất lượng
cuộc sống.
+ Hoàn thiện khuôn khổ luật
pháp thích hợp .
Vấn đề thứ hai cần được nhân
thức rõ là trách nhiệm của từng chủ
thể tham gia vào thực hiện dự án đầu
tư xây dựng. Dự án đầu tư xây dựng
thường có thời gian dài, trải qua
nhiều giai đoạn, thu hút đông đảo
các đối tượng hành nghề xây dựng.
Cùng tham gia vào thực hiện dự án
đầu tư xây dựng có các nhà thầu tư
vấn, nhà thầu thi công, nhà thầu thiết
bị, các nhà cung cấp vật tư kỹ thuật
(vật liệu xây dựng, xe máy thi công),
chủ đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước
về đầu tư xây dựng Thực hiện xây
dựng bền vững là trách nhiệm của
tất cả các chủ thể khi đã tham gia vào
vòng đời dự án.
Nhà thiết kế có trách nhiệm đưa
ra những giải pháp thiết kế bền
vững, bao gồm kiến trúc (thoáng,
mát, có tính đa năng, tiết kiệm năng
lượng), kết cấu (cấu tạo và công
nghệ mới), kỹ thuật (đảm bảo quy
trình tự tái chế trong hệ thống kỹ
thuật, khai thác năng lượng gió, mặt
trời); giải pháp vật liệu hiệu quả
(vật liệu địa phương, vật liệu nhẹ, vật
liệu than thiện với môi trường, tính
“xuống cấp đồng thời” ); giải pháp sử
dụng đất hợp lý [1].
Nhà thầu thi công có trách nhiệm:
Dùng công nghệ mới, hiện đại, thân
thiện; dùng vật liệu địa phương có
sẵn, tăng cường tái sử dụng vật liệu,
sử dụng vật liệu tái chế được; sử
dụng tiết kiệm các loại tài nguyên;
giảm thải rác, bụi, tiếng ồn, ra môi
trường [1].
Nhà nước đóng góp cho xây
dựng bền vững thông qua việc
ban hành các tiêu chuẩn, định
mức về sự tích hợp và kết nối dự
án với môi trường; về sử dụng hiệu
quả đất đai và các loại năng lượng
(nhằm khống chế giai đoạn thiết
kế); quy định các loại phí làm sạch
môi trường, phí quản lý rác thải xây
dựng, ban hành các yêu cầu về công
nghệ chế sẵn, công nghệ thi công
ít thải (cho giai đoạn thi công); định
mức bảo trì công trình, kiểm soát về
hiệu quả dùng năng lượng, nước,
nguyên liệu và độ bền và độ tin cậy
của chúng [3].
Tuy nhiên, thực tế thực hiện xây
dựng bền vững của từng chủ thể (cá
nhân và doanh nghiệp) phụ thuộc
vào nhận thức của họ về xây dựng
bền vững.
THỰC TRẠNG NHẬN THỨC CỦA
CÁC “GIỚI XÂY DỰNG” HIỆN NAY
VỀ XÂY DỰNG BỀN VỮNG
Để có đánh giá về thực trạng nhận
thức của “giới xây dựng” hiện nay về
xây dựng bền vững, các tác giả bài viết
này với sự hỗ trợ của đồng nghiệp, đã
XÃ HỘI
Đáp ứng thỏa mãn
của con người
KINH TẾ
(Tiêu dùng tiết kiệm
vật liệu/năng lượng)
MÔI TRƯỜNG
(Ít tác động xấu
đến MT)
Chi phí
Chi phí
Thời gian
Thời gian
Chất lượng
Chất lượngMục tiêu truyền thống
Mục tiêu mới
Hình 1. Mục tiêu mới của xây dựng: Xây dựng bền vững [7]
Hình 1. Mục tiêu mới của xây dựng: Xây dựng bền vững [7]
65Số 60.2018 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
KINH NGHIỆM QUẢN LÝ
thực hiện cuộc thăm dò dưới hình
thức phiếu điều tra. Đối tượng điều
tra là các cá nhân đại diện cho nhà
thầu tư vấn thiết kế (các kiến trúc
sư), nhà thầu thi công (các kỹ sư xây
dựng), cơ quan quản lý nhà nước về
xây dựng (nhân viên của các bộ phận
quản lý xây dựng của các ngành và địa
phương) và các nhà cung cấp vật liệu
xây dựng.
Nội dung các phiếu điều tra thống
nhất cho mọi đối tượng, tập trung vào
3 vấn đề chính là nội dung của xây
dựng bền vững, sự cần thiết của xây
dựng bền vững và trách nhiệm của các
thành phần tham gia hoạt động xây
dựng trong việc thực hiện xây dựng
bền vững. Mỗi vấn đề được thể hiện
qua 10 câu hỏi – trả lời, mức độ nhận
thức (hiểu biết vấn đề của người được
hỏi) được xếp thành 5 bậc, từ không
hiểu biết gì đến hiểu biết cặn kẽ nhờ
đã tham gia nghiên cứu, tìm hiểu, ứng
dụng, cụ thể là (1) chưa biết gì, (2) đã
nghe nói, (3) có hiểu biết (4) hiểu biết
tốt và (5) đã nghiên cứu, vận dụng.
Hình ảnh chung về mức nhận thức
của từng nhóm đối tượng được điều
tra được thể hiện tại “biểu đồ nhận
biết của từng nhóm” (hình 2). Sơ đồ
này được thiết lập bằng cách thông
qua câu hỏi khái quát liên quan đến
biết hay không biết cái cái gọi là “xây
dựng bền vững” rồi tính giá trị tương
đối của số người được hỏi có cùng ý
kiến so với tổng số người cùng nhóm
đối tượng.
Hình 2 phản ánh một hiện tượng
là phần nhiều các nhà thiết kế biết xây
dựng bền vững, hiểu và áp dụng phần
nào xây dựng bền vững (25% có biết
+ 60% đã biết chắc chắn qua hội thảo,
sách vở + 5% đã tham gia thực hiện
nguyên lý bền vững trong thiết kế).
Nhà thầu thi công đã biết song chưa
có ai quan tâm thực hiện xây dựng
bền vững. Điều này được lý giải bởi
mục tiêu quan trọng hiện nay của thi
công xây dựng đang là chất lượng và
lợi nhuận! Về phía quản lý nhà nước,
tuy đã quan tâm, có tập huấn, có ban
hành văn bản (đến 60% số người được
điều tra biết xây dựng bền vững qua
hình thức này), song chưa có quy định
cụ thể và bắt buộc để làm cơ sở cho
các quyết định trong quá trình quản
lý hoạt động xây dựng.
Mức độ hiểu biết thực sự của các
đối tượng được hỏi thông qua việc
tổng hợp ý kiến từ các phiếu điều
tra về từng thành phần nội hàm
của xây dựng bền vững, đó là sử
dụng vật liệu thay thế, không thải
rác bừa bãi (nội dung bảo vệ môi
trường); đảm bảo chất lượng công
trình và dịch vụ, sử dụng tiết kiệm
vật liệu bằng cách không chạy theo
lợi nhuận mà khai thác tài nguyên
vô lối (nội dung kinh tế); tạo công
ăn việc làm cho mọi người có nhu
cầu lao động và có hệ thống pháp
luật nghiêm minh về khai thác tài
nguyên, lao động và xả rác thải (nội
Xây dựng bền vững cần được nhận thức, lý giải một cách rõ ràng, minh bạch và trách nhiệm
của từng chủ thể tham gia hoạt động đầu tư xây dựng
Tỷ lệ %
80
70
60
50
40
30
20
10
Chưa
nghe gì
Đã
nghe thấy
Có biết
sơ qua
Biết qua
hội thảo,
sách vở
Đã tham gia
thực hiện
Nhà thầu thiết kế
Nhà thầu thi công
Cung ứng vật việu
Quản lý nhà nước
Hình 2. Mức độ nhận thức chung về xây dựng bền vững của “giới xây dựng” Việt Nam hiện nay
66 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
KINH NGHIỆM QUẢN LÝ
dung xã hội bền vững). Kết quả
được thể hiện ở hình 3.
Sơ đồ (hình 3) cho thấy phần lớn
những người được hỏi có hiểu biết về
nội dung yêu cầu bảo vệ môi trường
của xây dựng bền vững (gần 90% ý
kiến khẳng định dùng vật liệu thay
thế để khỏi làm cạn kiệt tài nguyên
của môi trường và 80 % ý kiến xác
nhận quản lý rác xây dựng) trong khi
đó nhiều ý kiến không đánh giá cao
các nội hàm “công ăn việc làm” (tức
là xã hội phát triển ổn định) và tiêu
dùng một cách hiệu quả vật liệu, năng
lượng (tức là đảm bảo lợi ích kinh tế).
Điều này chứng tỏ sự nhận thức còn
rất phiến diện, cứ cho bền vững là
“bảo vệ môi trường” mà không có sự
cân đối giữa ‘bảo vệ môi trường”, “phát
triển kinh tế” và “phồn vinh xã hội”.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nhân tố khởi động cho quá trình
chuyển động bền vững là nhận thức
và kiến thức [9]. Tuy nhà nước ta đã
quan tâm nhiều song tinh thần bền
vững vẫn chưa có được bước thâm
nhập mạnh mẽ vào xây dựng. Phần
lớn số “người xây dựng” thiếu nhận
thức về xây dựng bền vững. Kiến thức
về xây dựng bền vững còn hạn chế cả
về nội dung lẫn phạm vi được truyền
bá. Việc khai thác tài nguyên, cung cấp
vật liệu, tổ chức thi công trên công
trường v.v còn đang bị thắt chặt bởi
mục tiêu chi phí (kinh tế) là chủ yếu
mà ít bị chi phối bởi các quy định về
đảm bảo sự cân bằng bền vững giữa
kinh tế với môi trường sinh thái và xã
hội.
Đối với ngành Xây dựng của nước
ta hiện nay, việc nâng cao nhận thức
và trang bị kiến thức về xây dựng bền
vững là vấn đề cấp thiết. Giải quyết
nhiệm vụ này trước hết là hoàn chỉnh
hệ thống pháp luật về xây dựng theo
hướng xây dựng bền vững và tăng
cường công tác đào tạo, bồi dưỡng
kiến thức về bền vững trong xây dựng.
Tài liệu tham khảo
1. Phạm Sơn Tùng. Xây dựng bền vững
2. Từ điển bách khoa Việt Nam
3. C. H Yue.”Role of government in
sustainable construction”.
4. Chrisna du Plessis. “ Agenda
21 for sustainable construction in
developing countries” in Programme
for Sustainable Human Settlements,
CSIR Building and Construction
technology, Pretoria, South Africa,
2001
5. Edwin Zaccai. “Sustainable
development: characteristics and
interpretations” in Geographica
Helvetica n0 54, 1999
6. Jamilus Hussin, Ismail Rahman,
Aftab Memon. “The way forward in
sustainable construction: issues and
challenges” in International Journal
of advances in applied science, vol.2,
no.1 March 2013
7. Jonas Saparausska. “The main
aspects of sustainability evaluation
in construction” Httpleidykla.vgtu.
itconferencesMBM 2017
8. Malik Khalfan, Ali Noor,
Tayyab Maqsood,Nawaf Alshanbri,
Amrit Sagoo. “Perceptions toward
Suatainable Construction amongst
Construction Contractors in State
of Victoria, Autralia” in Journal of
Economic, Business and management,
Vol.3, No.10, October 2015
9. Nazirah Abidin. “Investigating
the wareness and application of
sustainable construction concept
by Malaysian developers” in Journal
Habitat International - ELSEVIER
no.34 2010
10. Rekola, Mirkka, Makelainen,
Tarja, and Hakkinen Tarja. “The role of
design management in sustainable
building process” in VIT 29.9.2010
11. Rumin Yin, Vincent Cheng.
“Policy option for suatainable
construction” in the 2005 World
Sustainable Building Conference,
Tokyo, September 2005
12. http:/www.businessdictionary.
com/definition/ “Perception”
20 %
40 %
60 %
80 %
100 %
Dùng VL
thay thế
Quản lý rác
xây dựng
Chất lượng
công trình
Sử dụng hiệu quả
vật liệu, năng lượng
Công ăn
việc làm
Pháp luật
nghiêm
Hình 3. Nhận thức của các chủ thể về khái niệm xây dựng bền vững
67Số 60.2018 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
KINH NGHIỆM QUẢN LÝ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22_2715_2171629.pdf