Tài liệu Nhân một trường hợp tắc tĩnh mạch thận ghép xảy ra muộn sau ghép thận: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 275
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP
TẮC TĨNH MẠCH THẬN GHÉP XẢY RA MUỘN SAU GHÉP THẬN
Hoàng Khắc Chuẩn*, Trần Anh Vũ*, Lý Hoài Tâm*, Nguyễn Duy Điền*, Thái Minh Sâm,
Trịnh Vũ Nghĩa**, Phạm Minh Ánh**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tắc tĩnh mạch thận ghép là một biến chứng ít gặp, hầu hết các trường hợp thường xảy ra vài
tuần sau ghép, tuy nhiên đã có những báo cáo tắc mạch thận ghép xảy ra muộn vài năm sau ghép. Mất thận ghép
là hậu quả thường gặp.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi báo cáo một trường hợp tắc tĩnh mạch thận ghép và
tĩnh mạch chậu đùi khoeo chân phải xảy ra 8 tháng sau ghép. Bệnh nhân được điều trị thành công bằng phương
pháp can thiệp nội mạch bơm thuốc tiêu sợi huyết.
Kết quả: Bệnh nhân được can thiệp nội mạch phục hồi lưu thông tĩnh mạch thận ghép bằng thuốc tiêu sợi
huyết tại chỗ qua ống thông đặt vào tĩnh mạch chậu đùi phải và tĩnh mạch thận ghép. Siê...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 260 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân một trường hợp tắc tĩnh mạch thận ghép xảy ra muộn sau ghép thận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 275
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP
TẮC TĨNH MẠCH THẬN GHÉP XẢY RA MUỘN SAU GHÉP THẬN
Hoàng Khắc Chuẩn*, Trần Anh Vũ*, Lý Hoài Tâm*, Nguyễn Duy Điền*, Thái Minh Sâm,
Trịnh Vũ Nghĩa**, Phạm Minh Ánh**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tắc tĩnh mạch thận ghép là một biến chứng ít gặp, hầu hết các trường hợp thường xảy ra vài
tuần sau ghép, tuy nhiên đã có những báo cáo tắc mạch thận ghép xảy ra muộn vài năm sau ghép. Mất thận ghép
là hậu quả thường gặp.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi báo cáo một trường hợp tắc tĩnh mạch thận ghép và
tĩnh mạch chậu đùi khoeo chân phải xảy ra 8 tháng sau ghép. Bệnh nhân được điều trị thành công bằng phương
pháp can thiệp nội mạch bơm thuốc tiêu sợi huyết.
Kết quả: Bệnh nhân được can thiệp nội mạch phục hồi lưu thông tĩnh mạch thận ghép bằng thuốc tiêu sợi
huyết tại chỗ qua ống thông đặt vào tĩnh mạch chậu đùi phải và tĩnh mạch thận ghép. Siêu âm vào hậu phẫu ngày
thứ 5 ghi nhận: thận ghép tưới máu tốt, RI: 0,71, lưu lượng máu qua tĩnh mạch thận 25cm/s, crea/HT giảm từ
4,3mg/dL lúc nhập viện xuống 1,43 mg/dL.
Kết luận: Chẩn đoán sớm và can thiệp nội mạch bơm thuốc tiêu sợi huyết là phương pháp hiệu quả trong
điều trị tắc tĩnh mạch thận ghép xảy ra muộn.
Từ khóa: thuyên tắc tĩnh mạch thận ghép, ghép thận
ABSTRACT
LATE ALLOGRAFT RENAL VEIN THROMBOSIS: A CASE REPORT
Hoang Khac Chuan, Tran Anh Vu, Ly Hoai Tam, Nguyen Duy Dien, Thai Minh Sam,
Trinh Vu Nghia, Pham Minh Anh
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3 - 2019: 275 – 280
Background: Allograft renal vein thrombosis is a rare phenomenon, most of cases occur in the first week,
however some cases have been described many years after transplantation surgery. Allograft renal loss is the usual
outcome.
Methods: We describe a renal transplantation recipient with allograft renal vein thrombosis associated with
deep venous thrombosis of right lower limb, 8 months after transplantation. He was successfully treated by
percutaneous catheter directed thrombolysis.
Result: The patient was treated with percutaneous catheter directly thrombolysis inside femoral iliac vein
and renal allograft vein. Five days later, the doppler ultrasound was done and revealed complete re-
permeabilization of allograft renal vein, RI: 0.71, with maximal velocity of 25 cm/s, the serum creatinine was
reduced from 4.3mg/dL to 1.43mg/dL.
Conclusion: Early diagnosis and prompt endovascular treatment of the thrombosis might be able to promote
total recovery of allograft renal function after late venous thrombosis.
Keywords: allograft vein thrombosis, kidney transplantation
* Khoa Ngoại Tiết Niệu, BV Chợ Rẫy **Khoa Phẫu thuât mạch máu, BV Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: BS Hoàng Khắc Chuẩn ĐT: 0913846817 Email: hoangkhacchuan@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 276
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ghép thận là một trong các phương pháp
điều trị thay thế thận được ưa chuộng cho bệnh
nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối. Cho đến
nay mặc dù sống còn của mảnh ghép được cải
thiện rất nhiều trong những thập niên qua do
các kỹ thuật ngoại khoa trong ghép thận đã
được gần như hoàn thiện, thuốc ức chế miễn
dịch có những bước cải tiến và đột phá mạnh
mẽ, song các biến chứng sau ghép thận vẫn xảy
ra, trong đó biến chứng về mạch máu là một
trong những biến chứng nguy hiểm nhất có thể
gây mất thận ghép.
Tắc tĩnh mạch thận ghép hiếm gặp và hầu
hết các trường hợp thường xảy ra sớm vài tuần
sau ghép, tuy nhiên có một số trường hợp báo
cáo tắc tĩnh mạch thận ghép xảy ra muộn vài
năm sau ghép đã được báo cáo trên y văn và mất
thận ghép là hậu quả thường gặp. Chúng tôi báo
cáo một trường hợp tắc tĩnh mạch thận ghép và
tĩnh mạch chậu đùi khoeo chân phải xảy ra 8
tháng sau ghép thận và được điều trị thành công
bằng phương pháp can thiệp nội mạch bơm
thuốc tiêu sợi huyết.
TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG
Bệnh nhân (BN): NGUYỄN SỸ N, nam, sinh
năm 1983.
Địa chỉ: Krông Năng, Đắc Lắc.
Nhập viện: 27/6/2017. Số nhập viện:
23170061836.
Tháng 07/2014 bệnh nhân mệt mỏi ăn uống
kém, đi khám bệnh được chẩn đoán bệnh thận
mạn. Tháng 05/2015 bệnh nhân chẩn đoán bệnh
thận mạn giai đoạn cuối và được chạy thận nhân
tạo định kỳ bằng catheter tĩnh mạch đùi phải 6
tuần, sau đó sử dụng tĩnh mạch đầu cẳng tay
trái. Tháng 10/2016 bệnh nhân được ghép thận
từ người hiến là em ruột, không tương hợp HLA
1/6, PRA (-). Thận ghép được lấy từ bên trái có 1
động mạch và 1 tĩnh mạch được nối ghép với
động mạch và tĩnh mạch chậu ngoài. Mạch máu
vùng chậu không ghi nhận bất thường. Cuộc mổ
diễn tiến thuận lợi, thời gian thiếu máu nóng 5
phút, thời gian thiếu máu lạnh 91 phút. Bệnh
nhân có nước tiểu tại bàn, chức năng thận cải
thiện tốt và xuất viện với creatinine huyết thanh
(crea/HT) 1,3 mg/dL. Bệnh nhân được sử dụng
thuốc ức chế miễn dịch dẫn nhập với Simulect
và thuốc ức chế miễn dịch duy trì: Neoral,
Cellcept và Prednisone.
Bệnh nhân theo dõi sau ghép định kỳ với
crea/HT 1,3-1,5 mg/dL. Siêu âm Doppler thận
ghép tại thời điểm 1 tháng sau ghép thận
(11/2016) không phát hiện bất thường.
Cách nhập viện 2 ngày, bệnh nhân thấy phù
nhẹ chân phải, nước tiểu giảm dần, thiểu niệu
sau đó vô niệu vào tối 26/7/2017, kèm với đau
vùng thận ghép, không tiểu máu, nên đã nhập
viện (tại thời điểm 8 tháng sau ghép).
Khám lúc nhập viện (27/6/2017): mạch 90
l/phút, huyết áp 140/70 mmHg, nhiệt độ 370C.
Phù mềm chân phải. Mạch mu chân (+).
Thận ghép ở hố chậu phải, căng to, đau.
Crea/HT: 4,3 mg/dL.
Hồng cầu: 4,7 T/L, hemoglobin: 121 G/L, Hct
39,3%; bạch cầu 14,1 x 109 G/l; tiểu cầu: 235 x
109G/L; Fibrinogen: 2,9 g/L; APTT: 26,2 s; PT:
12,6 s, INR: 1,14; Dimer: >10.000 ng/mL
Các yếu tố đông máu: II: 93,3 (50-150); V:
92,6 (50-150); VII: 122 (50-150); VIII: 114,2 (50-
150); IX: 199,2 (50-150); X: 101,4 (50-150); PAI-1:
6,14 (0,3-3,5).
Các yếu tố chống đông máu trong giới hạn
bình thường: Protein C: 113,8 (70-135); Protein S:
159,5 (62-145); Anti Thrombin: 142 (80-130).
Các xét nghiệm miễn dịch học: kháng thể
kháng nhân, ANCA, các kháng thể màng đáy
cầu thận, kháng thể kháng phospholipid đều
âm tính.
CMV-PCR âm tính.
Siêu âm Doppler ngày 27/6:
Thận ghép nằm ở hố chậu phải kích thước:
65 x 127 x 78 mm, tĩnh mạch thận ghép có huyết
khối gần hoàn toàn, tăng kháng lực động mạch
thận ghép RI: 0,71.
Tĩnh mạch chậu-đùi sâu-khoeo chân phải
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 277
dãn to, đè không xẹp, có huyết khối. Tắc gần
hoàn toàn hệ tĩnh mạch chậu-đùi-khoeo chân
phải do huyết khối.
Bệnh nhân được chẩn đoán: Suy thận cấp,
tắc tĩnh mạch chậu chung, đùi sâu, khoeo chân
phải. Tắc tĩnh mạch thận ghép/ ghép thận.
Bệnh nhân được nhập viện cấp cứu và sử
dụng Heparin bolus tĩnh mạch 5000 UI +
Heparin 10.000 UI SE 5 mL/giờ. Bệnh nhân
được chỉ định can thiệp đặt catheter tĩnh mạch
chậu đùi khoeo phải và tĩnh mạch thận ghép.
Dưới hướng dẫn của siêu âm chọc kim vào
tĩnh mạch khoeo, chụp kiểm tra thấy tĩnh
mạch chậu đùi khoeo phải tắc hoàn toàn, tĩnh
mạch thận ghép tắc hoàn toàn. Bệnh nhân
được đặt catheter bơm thuốc tiêu sợi huyết
Urokinase 180.000 UI vào tĩnh mạch chậu đùi
khoeo phải và tĩnh mạch thận ghép, hút ra
nhiều huyết khối và được duy trì Urokinase
liều 1.000 UI/kg/giờ và Heparin 600 UI/kg/24
giờ. Trong mổ sử dụng 100 ml thuốc cản
quang Xenetix.
Ngay sau can thiệp bệnh nhân có nước tiểu
trở lại, lượng nước tiểu dao động từ 100 – 150
mL/giờ.
Thời gian sử dụng Urokinase trong 60 giờ.
Liều sử dụng 940 UI/kg/giờ.
Biểu đồ 1: Sự thay đổi crea/HT theo diễn biến bệnh
Bảng 1. Kết quả diễn tiến siêu âm Doppler thận ghép và tĩnh mạch chậu đùi khoeo phải
Ngày Kích thước thận ghép (mm) Tĩnh mạchchậu đùi khoeo Tĩnh mạch thận ghép RI
27/6 65 x 127 x 78 Tắc hoàn toàn Tắc hoàn toàn 0,74
29/6 56 x 118 x60
Tắc gần hoàn toàn hệ TM chậu đùi khoeo
chân phải do huyết khối
Hẹp 78% do huyết khối 0,61
30/6 60 x 117 x 56 Bình thường Hẹp 50% tại miệng nối 0,63
3/7 55 x 127 x 62 Bình thường Bình thường 0,54
Bệnh nhân được xuất viện sau 6 ngày nằm
viện với crea/HT 1,43 mg/dL và được sử dụng
kháng đông rivaroxaban (Xarelto) 20 mg/ngày.
Sau 9 tháng theo dõi, không xảy ra huyết khối và
chảy máu, crea/HT của bệnh nhân vẫn ổn định
1,4-1,6 mg/dL. Bệnh nhân vẫn duy trì thuốc
chống đông máu dạng uống Xarelto 20 mg/ngày
(Bảng 1, Biểu đồ 1).
BÀN LUẬN
Ghép thận làm tăng chất lượng cuộc sống và
cải thiện sống còn của bệnh nhân bệnh thận mạn
giai đoạn cuối. Tuy nhiên, chúng ta cần theo dõi
sát bệnh nhân sau ghép thận do có thể xảy ra các
biến chứng nội khoa và ngoại khoa, biến chứng
sớm và muộn, trong đó, tắc tĩnh mạch thận ghép
là một biến chứng hiếm gặp nhưng đáng sợ
trong ghép thận vì thường dẫn tới mất thận
ghép(12). Tắc tĩnh mạch thận ghép giai đoạn sớm
trong vòng hai tuần đầu tiên sau khi mổ ghép
thận với tỷ lệ 0,4-6%(12). Tắc tĩnh mạch thận ghép
giai đoạn trễ sau ngày thứ mười bốn trong ngày
phẫu thuật hiếm gặp hơn với tỷ lệ 0,5-4%(4). Tỉ lệ
huyết khối tĩnh mạch sâu ở bệnh nhân ghép
thận là 2,9/1000(5). Mặc dù biến chứng này có tỉ lệ
rất thấp nhưng có thể xảy ra bất cứ lúc nào sau
ghép thận, trong đó phổ biến nhất là trong tháng
đầu tiên sau phẫu thuật với tần suất 80%, so
sánh với tần suất trong năm đầu tiên là 93%(11).
Tỷ lệ tắc tĩnh mạch thận ghép của chúng tôi
2/675 trường hợp, một trường hợp xảy ra sớm
Crea/HT (mg/dL)
Thời gian (ngày)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 278
trong tuần đầu và một trường hợp xảy ra muộn
sau mổ ghép thận 8 tháng.
Bệnh nhân ghép thận có các nguy cơ bị
huyết khối tắc mạch cao hơn, ngoài các yếu tố
nguy cơ thông thường (đái tháo đường, béo phì,
các biến cố huyết khối trước đây) còn có các
yếu tố liên quan đến quá trình suy thận, ghép
thận như: phẫu thuật, sử dụng thuốc ức chế
miễn dịch, bệnh thận nguyên phát, phương
pháp lọc máu trước đây (bệnh nhân thẩm phân
phúc mạc có nguy cơ cao hơn bệnh nhân lọc
máu), tình trạng đa hồng cầu và nhiễm trùng(3,11).
Các nguyên nhân phổ biến nhất của huyết
khối tĩnh mạch thận ghép giai đoạn sớm thường
liên quan đến lỗi kỹ thuật: xoắn tĩnh mạch thận,
hẹp miệng nối tĩnh mạch, giảm dòng chảy do
giảm thể tích tuần hoàn và tình trạng tăng đông
máu sau mổ(13). Tắc tĩnh mạch thận ghép giai
đoạn muộn ít gặp hơn, có thể là kết quả của tình
trạng tăng đông, bị chèn ép bên ngoài từ nang
bạch mạch, nang giả niệu, máu tụ, khối u hay
huyết khối tĩnh mạch chậu đùi sâu lan lên tĩnh
mạch thận ghép(3).
Số trường hợp báo cáo điều trị thành công
tắc tĩnh mạch thận ghép được ghi nhận trong y
văn rất ít(1).
Melamed ML (2005) báo cáo hai trường hợp
huyết khối tĩnh mạch thận trễ do bệnh cầu thận
màng de novo xảy ra sau 5 và 26 tháng sau ghép
thận. Siêu âm không phát hiện được tắc mạch do
huyết khối mà chẩn đoán dựa trên hình ảnh của
cộng hưởng từ. Cả hai trường hợp đều được
điều trị bằng hút lấy huyết khối qua da và sử
dụng thuốc tiêu sợi huyết. Chức năng thận sau
can thiệp có cải thiện. Một bệnh nhân do đến trễ
nên crea/HT tăng từ 1,9 mg/dL lên 3,5 mg/dL và
chạy thận nhân tạo sau 1 năm(8).
Jill A. Jones (2014) báo cáo 1 trường hợp phụ
nữ 29 tuổi ghép thận- tụy đồng thời, tắc tĩnh
mạch thận ghép sau mổ 8 tháng do tĩnh mạch
thận bị chèn bởi 1 nang buồng trứng lớn bên
phải. Ban đầu bệnh nhân được phẫu thuật lấy
huyết khối, đặt stent và dùng kháng đông
nhưng huyết khối được tái lập lại nên phải can
thiệp phẫu thuật cắt1 thận ghép(4,6).
Krishnaswamy SK (2014) báo cáo 1 trường
hợp bệnh nhân nam, 55 tuổi, ghép thận lần thứ 2
từ người hiến thận sống, lần ghép đầu mất thận
ghép do thải ghép kháng steroid, diễn tiến cuộc
mổ thuận lợi, sau 1 tuần bệnh nhân xuất viện với
lượng nước tiểu 3,5 lít/24 giờ, crea/HT 0,9
mg/dL. 4 tuần sau mổ, bệnh nhập viện vô niệu
và phù chân trái, crea/HT 2,2 mg/dL, siêu âm
cho thấy có huyết khối tĩnh mạch đùi, chậu
ngoài trái và tĩnh mạch thận ghép. Bệnh nhân
được điều trị thành công bằng sử dụng thuốc
tiêu sợi huyết tại chỗ với streptokinase (250.000
IU liều tải và liều duy trì 100.000 IU / giờ trong
12 giờ). Chụp tĩnh mạch sau 12 giờ, thấy còn tắc
một phần tĩnh mạch thận ghép, tiếp tục điều trị
thuốc tiêu sợi huyết tại chỗ trong 6 giờ tiếp theo
sau đó thấy không còn huyết khối tĩnh mạch
thận. Lượng nước tiểu và creatinine huyết thanh
cải thiện dần. Bệnh nhân được bắt đầu sử dụng
thuốc kháng đông uống và aspirin. Crea/HT lúc
xuất viện 0,8 mg/dL và không phát hiện được
các bất thường về rối loạn tăng đông(7).
Ferreira 2016, báo cáo 1 trường hợp tắc tĩnh
mạch thận ghép xảy ra sau 9 năm do huyết khối
tĩnh mạch sâu. Bệnh nhân nhập viện với crea/HT
3,4 mg/dL, vô niệu được chạy thận nhân tạo và
sử dụng heparine liều kháng đông. Sau 5 ngày
bệnh nhân có nước tiểu và chức năng thận hồi
phục dần, crea/HT 2,65 mg/dL và tiếp tục được
sử dụng warfarin. Sau 30 tháng theo dõi không
có biến chứng huyết khối và chảy máu, crea/HT
trong khoảng 1,6 – 1,8 mg/dL. Đây là một trường
hợp tắc mạch thận rất hiếm gặp và được can
thiệp thành công. Không có yếu tố nguy cơ nào
được tìm thấy trên bệnh nhân này(2).
Chẩn đoán sớm luôn là chìa khóa để giảm
tình trạng rối loạn chức năng thận và mất thận
ghép. Triệu chứng lâm sàng điển hình của tắc
tĩnh mạch thận ghép bao gồm: tiểu máu, thiểu
niệu rồi vô niệu, đau vùng thận ghép, phù chi
dưới cùng bên thận ghép và suy thận cấp(1).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 279
Bệnh nhân của chúng tôi có gần đủ các triệu
chứng này ngoại trừ tiểu máu.
Mặc dù chụp mạch máu có thuốc cản quang
là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán tắc mạch máu,
nhưng các kỹ thuật này xâm lấn và có độc tính
trên thận. Hầu hết các trường hợp có thể phát
hiện tắc mạch thận ghép trên siêu âm. Siêu âm
thường là xét nghiệm thường được sử dụng
trong đánh giá rối loạn chức năng ghép thận vì
có thể cho biết đồng thời cả bất thường mạch
máu cũng như biến chứng nhu mô thận và
đường tiết niệu. Tắc tĩnh mạch thận ghép có thể
thấy hình ảnh trên siêu âm thận ghép tăng kích
thước, phù nề, mất phân biệt giới hạn vỏ - tuỷ, tụ
dịch quanh thận ghép, hình ảnh giãn tĩnh mạch
thận và có cấu trúc echo kém trong lòng mạch.
Siêu âm Doppler không có dòng chảy tĩnh mạch
và đảo ngược dòng chảy tâm trương ở động
mạch. Hình ảnh chụp cộng hưởng từ mạch máu
không có độc tính trên thận và độ nhạy cao hơn
siêu âm(2,8).
Điều trị tắc tĩnh mạch thận ghép nhằm duy
trì chức năng thận ghép bao gồm phẫu thuật
và sử dụng thuốc chống đông. Tiên lượng của
những bệnh nhân tắc tĩnh mạch thận ghép
thường xấu vì nguy cơ mất thận ghép rất cao(2).
Hầu hết các trường hợp tắc tĩnh mạch thận
ghép giai đoạn sớm sau mổ thường được điều
trị bằng phẫu thuật lấy huyết khối và điều
chỉnh các biến chứng do lỗi kỹ thuật. Tuy
nhiên, tắc tĩnh mạch thận ghép trong giai đoạn
muộn, tỷ lệ điều trị thành công bảo tồn chức
năng thận ghép thường thấp. Sử dụng thuốc
tiêu sợi huyết thường được lựa chọn để điều
trị trong giai đoạn tắc tĩnh mạch thận ghép xảy
ra trong giai đoạn muộn(7). Can thiệp nội mạch
qua da và/hoặc sử dụng thuốc tiêu sợi huyết
tại chỗ với yếu tố hoạt hóa plasminogen
(streptokinase, urokinase,) có thể có ích
trong trường hợp huyết khối tĩnh mạch thận
cấp hoặc huyết khối tĩnh mạch thận một phần
với mục tiêu tái lập lưu thông lại mạch máu và
bảo tồn thận ghép. Phẫu thuật lấy huyết khối
tái lập lưu thông tĩnh mạch thường thất bại.
Phẫu thuật thám sát và cắt thận ghép là cách
điều trị phổ biến nhất đối với phần lớn các
trường hợp chủ yếu để tránh vỡ thận và tử
vong(9).
Bệnh nhân của chúng tôi có tắc tĩnh mạch
thận ghép 8 tháng sau ghép thận, được can thiệp
nội mạch và sử dụng thuốc tiêu sợi huyết thành
công. Trên bệnh nhân này chúng tôi chưa tìm
được yếu tố nào thực sự gây tình trạng huyết
khối tĩnh mạch thận ghép ngoại trừ bệnh nhân
có tiền căn sử dụng tĩnh mạch chậu ngoài bên
phải để chạy thận nhân tạo trong 6 tuần, tuy
nhiên khi phẫu thuật ghép thận không ghi nhận
bất thường của tĩnh mạch chậu. Chúng tôi đã
tầm soát các yếu tố đông máu, yếu tố chống
đông máu, chỉ ghi nhận tăng PAI-1, gợi ý tình
trạng tăng đông trong khi các xét nghiệm còn lại
bình thường. Chúng tôi tiếp tục các xét nghiệm
miễn dịch của các bệnh lý tự miễn nhằm xác
định gây tăng đông huyết khối nhưng vẫn chưa
xác định được nguyên nhân huyết khối. Trong
trường hợp này chúng tôi chưa xét nghiệm đột
biến gen yếu tố V Leiden và đột biến gen
prothrombin.
Để dự phòng huyết khối trên bệnh nhân có
tắc mạch máu thận ghép, Claudio Ponticelli đã
đưa ra chiến lược dự phòng dựa vào có hay
không có tiền sử hay các yếu tố nguy cơ liên
quan huyết khối, hoặc tắc tĩnh mạch sâu hay
thuyên tắc phổi. Nếu có tiền sử hay các yếu tố
nguy cơ liên quan huyết khối nên tầm soát tình
trạng tăng đông bao gồm: kháng thể kháng
phospholipid, thiếu hụt protein C, protein S, yếu
tố V Leiden, đột biến gen Prothrombin G20210A,
thiếu hụt antithrombin(10).
KẾT LUẬN
Tắc tĩnh mạch thận ghép xảy ra muộn là biến
chứng rất hiếm gặp sau ghép nhưng thường
nghiêm trọng và dẫn đến mất thận ghép. Vấn đề
sống còn là làm sao để chẩn đoán sớm và có
hướng điều trị kịp thời có thể cứu và duy trì
chức năng thận ghép. Can thiệp nội mạch, sử
dụng thuốc tiêu sợi huyết là phương pháp hiệu
quả trong điều trị tắc tĩnh mạch thận ghép xảy ra
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 280
muộn. Bên cạnh đó, cần tầm soát và ghi nhận các
yếu tố nguy cơ để dự phòng huyết khối.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abbott KC, Cruess DF, Agodoa LY, et al (2014). Early renal
insufficiency and late venous thromboembolism after renal
transplantation in the United States. Am J Kidney Dis; 43:120-130.
2. Ferreira C et al (2016). Late Allograft Renal Vein Thrombosis
Treated With Anticoagulation Alone: A Case Report. Transplant
Proc, 48:3095-3098.
3. Giustacchini P, Pisanti F, Citterio F, et al (2002). Renal vein
thrombosis after renal transplantation: an important cause of
graft loss. Transplant Proc, 34:2126-2127.
4. Hogan JL, Rosenthal SJ, Yarlagadda SG, Jones JA et al (2015).
Late-onset renal vein thrombosis: A case report and review of
the literature. International Journal of Surgery Case Reports, 6:73–
76.
5. Humar A, Key N, Ramcharan T, et al (2001). Kidney
retransplants after initial graft loss to vascular thrombosis. Clin
Transplant, 15:6-10.
6. Jones JA, Rosenthal SJ (2014). Late Onset of Renal Vein
Thrombosis After Renal Transplantation. Ultrasound Quarterl;
30(3):228-229.
7. Krishnaswamy SK, et al (2014). Successful thrombolysis of renal
allograft venous thrombosis – A case report. Indian J Transplant,
8(2):57-59.
8. Melamed ML, et al (2005). Combined percutaneous mechanical
and chemical thrombectomy for renal vein thrombosis in
kidney transplant recipients. Am J Transplant, 5(3):621-626.
9. Pillot P, Bardonnaud N, Lillaz J, et al (2012). Risk factors for
surgical complications after renal transplantation and impact on
patient and graft survival. Transplant Proc, 44:2803 -2808.
10. Ponticelli C, Moia M, Montagnino G (2009). Renal allograft
thrombosis. Nephrology Dial Transplant, 24:1388–1393.
11. Ramirez PJ, Gohh RY, Kestin A, et al (2002). Renal allograft loss
due to proximal extension of ileo femoral deep venous
thrombosis. Clin Transplant, 16:310-313.
12. Ripert T, et al (2009). Preventing graft thrombosis after renal
transplantation: a multi center survey of clinical practice.
Transplant Proc, 41(10):4193–4196.
13. Schwieger J, Reiss R, Cohen JL, et al (1993). Acute renal allograft
dysfunction in the setting of deep venous thrombosis: a case of
successful urokinase thrombolysis and a review of the literature.
Am J Kidney Dis; 22:345-350.
Ngày nhận bài báo: 01/04/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 05/05/2019
Ngày bài báo được đăng: 10/06/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhan_mot_truong_hop_tac_tinh_mach_than_ghep_xay_ra_muon_sau.pdf