Tài liệu Nhân một trường hợp nhồi máu cơ tim cấp ở bệnh nhân trẻ tuổi có biểu hiện blốc nhánh phải do bệnh thân chung nhánh trái mạch vành được can thiệp cấp cứu thành công: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 79
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP
Ở BỆNH NHÂN TRẺ TUỔI CÓ BIỂU HIỆN BLỐC NHÁNH PHẢI
DO BỆNH THÂN CHUNG NHÁNH TRÁI MẠCH VÀNH
ĐƯỢC CAN THIỆP CẤP CỨU THÀNH CÔNG
Nguyễn Văn Sĩ*, Đoàn Hữu Huy**, Nguyễn Xuân Vinh**, Phan Thanh Hải Nam*,
Trương Minh Châu**, Nguyễn Đỗ Anh**, Nguyễn Hoàng Hải**
TÓM TẮT
Nhồi máu cơ tim cấp ở người trẻ tuổi ngày càng trở nên phổ biến, thường được nhận định là có tiên lượng
tốt hơn so với dân số lớn tuổi. Chúng tôi báo cáo một trường hợp nhồi máu cơ tim cấp biểu hiện hiếm gặp ở một
bệnh nhân 35 tuổi có hình ảnh điện tâm đồ là blốc nhánh phải mới xuất hiện do bệnh thân chung nhánh trái mạch
vành và sau đó được can thiệp đặt stent mạch vành cấp cứu thành công tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định.
Từ khóa: nhồi máu cơ tim cấp, người trẻ, blốc nhánh phải, bệnh thân chung nhánh trái mạch vành, can
thiệp mạch vành
ABSTRACT
ACUTE MYOCARDIAL INFARCTIO...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 03/07/2023 | Lượt xem: 354 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân một trường hợp nhồi máu cơ tim cấp ở bệnh nhân trẻ tuổi có biểu hiện blốc nhánh phải do bệnh thân chung nhánh trái mạch vành được can thiệp cấp cứu thành công, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 79
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP
Ở BỆNH NHÂN TRẺ TUỔI CÓ BIỂU HIỆN BLỐC NHÁNH PHẢI
DO BỆNH THÂN CHUNG NHÁNH TRÁI MẠCH VÀNH
ĐƯỢC CAN THIỆP CẤP CỨU THÀNH CÔNG
Nguyễn Văn Sĩ*, Đoàn Hữu Huy**, Nguyễn Xuân Vinh**, Phan Thanh Hải Nam*,
Trương Minh Châu**, Nguyễn Đỗ Anh**, Nguyễn Hoàng Hải**
TÓM TẮT
Nhồi máu cơ tim cấp ở người trẻ tuổi ngày càng trở nên phổ biến, thường được nhận định là có tiên lượng
tốt hơn so với dân số lớn tuổi. Chúng tôi báo cáo một trường hợp nhồi máu cơ tim cấp biểu hiện hiếm gặp ở một
bệnh nhân 35 tuổi có hình ảnh điện tâm đồ là blốc nhánh phải mới xuất hiện do bệnh thân chung nhánh trái mạch
vành và sau đó được can thiệp đặt stent mạch vành cấp cứu thành công tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định.
Từ khóa: nhồi máu cơ tim cấp, người trẻ, blốc nhánh phải, bệnh thân chung nhánh trái mạch vành, can
thiệp mạch vành
ABSTRACT
ACUTE MYOCARDIAL INFARCTION IN A YOUNG PATIENT HAVING RIGHT BUNDLE BRANCH
BLOCK DUE TO LEFT MAIN CORONARY ARTERY DISEASE TREATED SUCCESSFULLY BY
EMERGENCY PERCUTANOUS CORONARY INTERVENTION, A CASE REPORT
Nguyen Van Si, Doan Huu Huy, Nguyen Xuan Vinh, Phan Thanh Hai Nam,
Truong Minh Chau, Nguyen Do Anh, Nguyen Hoang Hai
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 79 - 84
Introduction: Acute myocardial infarction in the young is getting more prevalent which is generally
considered to have good prognosis than the older population. We report a rare case of myocardial infarction in a
35-year-old patient having electrocardiogram of new right bundle branch block due to left main coronary artery
which was treated successfully by emergency percutanous coronary intervention.
Keywords: acute myocardial infarction, young patient, right bundle branch block, left main coronary artery
disease, percutanous coronary intervention
MÔ TẢ TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG
Bệnh nhân nam, 35 tuổi, nhập viện vào bệnh
viện quận Bình Thạnh với triệu chứng đau ngực
cấp. Bệnh nhân mô tả cơn đau ngực xuất hiện
trước nhập viện khoảng 2 giờ 30 phút khi bệnh
nhân đang xem ti vi với tính chất thắt nặng lan
ra hai tay, đau dữ dội kèm vã mồ hôi, cơn đau
kéo dài khoảng 30 phút không giảm khiến bệnh
nhân phải nhập viện. Tiền căn của bệnh nhân
không ghi nhận gì đặc biệt ngoại trừ hút thuốc lá
1 gói/ngày trong 20 năm và hiện tại vẫn còn hút.
Tại bệnh viện quận Bình Thạnh, bệnh nhân
tỉnh táo nhưng ghi nhận có huyết áp khó đo và
điện tâm đồ có hình ảnh rối loạn nhịp thất (Hình
1A). Với chẩn đoán: Theo dõi nhồi máu cơ tim
cấp – Loạn nhịp thất, bệnh nhân được chuyển
đến bệnh viện Nhân Dân Gia Định. Thời gian
bệnh nhân từ lúc nhập bệnh viện quận Bình
Thạnh cho đến lúc chuyển sang bệnh viện Nhân
Dân Gia Định là 30 phút.
Tại khoa cấp cứu bệnh viện Nhân Dân Gia
Định, bệnh nhân vẫn còn đau ngực nhiều, mạch
*Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh **Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Văn Sĩ ĐT: 088886616 Email: dr.si.nguyen@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 80
nhẹ và huyết áp khó đo. Điện tâm đồ lúc này
không còn rối loạn nhịp thất và thay vào đó là
hình ảnh nhịp xoang, với blốc nhánh phải hoàn
toàn, phức bộ QRS giãn rộng 0.13 giây và có
dạng qR ở V1 (Hình 1B). Siêu âm tim cấp cứu
cho thấy tim đập nhanh, giảm động vách liên
thất, thành sau và thành bên, phân suất tống
máu 42-45% và không có ghi nhận các biến
chứng cơ học. Bệnh nhân được chuyển vào khoa
Tim mạch can thiệp với chẩn đoán: Choáng tim
– Theo dõi nhồi máu cơ tim cấp giờ thứ 3. Chẩn
đoán này được khẳng định sau đó với men tim
Troponin T high sensitive tăng có động học
(Bảng 1).
Bảng 1: Kết quả cận lâm sàng
Chỉ số cận lâm sàng Giá trị
Troponin T, high sensitive
(ng/mL)
Lần 1
Lần 2
NT-pro BNP (pg/mL)
Lipid máu (mg/dL)
Cholesterol
Triglyceride
HDL-cholesterol
LDL-cholesterol
Glucose (mg/dL)
Creatinine (mg/dL)
Hemoglobin (g/dL)
0,035
1,66
4,12
222
160
32,8
162,5
122,7
0,8
15,2
Tại khoa tim mạch can thiệp, bệnh nhân tỉnh,
còn đau ngực mức độ 8/10 với sinh hiệu: Mạch
88 lần/phút, huyết áp 90/60 mmHg. Khám thực
thể không ghi nhận rale phổi. Trong lúc bệnh
nhân được chuẩn bị để chụp mạch vành cấp cứu
thì đột ngột mất tri giác, co gồng người và tím
tái. Monitor điện tâm đồ cùng thời điểm có hình
ảnh rung thất. Bệnh nhân được shock điện khử
rung 3 lần với mức năng lượng 360 J và điện tâm
đồ trở về nhịp xoang 90 lần/phút, huyết áp
120/70 mmHg. Bệnh nhân tỉnh sau khử rung với
điểm Glasgow = 13 và được khẩn trương chuyển
vào phòng thông tim. Thuốc điều trị duy trì bao
gồm amiodarone và nor-adrenaline.
Thủ thuật chụp mạch vành được tiến hành
theo đường động mạch đùi phải. Hình ảnh hệ
mạch vành cho thấy có tắc hoàn toàn đoạn gần
thân chung nhánh trái đoạn xa trong khi hệ
động mạch vành phải bình thường (Hình 2A).
Hút huyết khối bằng ALSAP LP ra nhiều huyết
khối đỏ bầm. Chụp kiểm tra ghi nhận hẹp khít
95% thân chung nhánh trái đoạn xa, lan vào lỗ
và đoạn gần động mạch xuống trước trái gây
hẹp 95% (Hình 2B). Sang thương được nong
bằng bóng SAPPHIRE NC 2,5x15 mm, áp lực 12
và 14 atm. Một stent trần kim loại (PROKINETIC
Energy 3,5x26 mm) được đặt vào thân chung
nhánh trái và động mạch xuống trước trái, áp
lực 12 atm. Stent được nong bằng bóng
SAPPHIRE NC 3,5x10 mm, áp lực 18, 20 atm (d =
3,66 mm). Thực hiện kỹ thuật “kissing balloon”
với bóng SAPPHIRE NC 3,5x10 mm trên thân
chung nhánh trái và động mạch xuống trước
trái, bóng SAPPHIRE NC 2,5x15 mm ở thân
chung nhánh trái và động mạch mũ, áp lực 14
atm. Chụp kiểm tra ghi nhận hình ảnh stent
bung tốt, không bóc tách, không hẹp tồn lưu và
có dòng chảy TIMI III (Hình 2C). Thời gian cửa-
bóng là 107 phút và thời gian chẩn đoán-wire là
70 phút.
Sau thủ thuật, bệnh nhân được chuyển
phòng lưu bệnh với tri giác tỉnh táo, triệu chứng
đau ngực chỉ còn âm ỉ mức độ 2/10. Sinh hiệu là
mạch 78 lần/phút, huyết áp 140/70 mmHg. Điện
tâm đồ thực hiện sau thủ thuật là nhịp xoang và
không còn hình ảnh blốc nhánh phải (Hình 1C).
Chẩn đoán sau thủ thuật là Choáng tim –Blốc
nhánh phải hoàn toàn – Rung thất được shock
điện khử rung thành công - Nhồi máu cơ tim cấp
có đoạn ST chênh lên thành trước giờ thứ 3 –
Bệnh thân chung nhánh trái và 1 nhánh mạch
vành đã đặt 1 stent trần kim loại vào thân chung
nhánh trái và động mạch xuống trước trái.
Amiodarone và nor-adrenaline được ngưng sau
thủ thuật can thiệp đặt stent.
Bệnh nhân được điều trị nội khoa duy trì
với: kháng kết tập tiểu cầu kép, atorvastatin liều
cao, ức chế men chuyển và chẹn beta. Điện tâm
đồ những lần tiếp theo không có thay đổi so với
hình ảnh sau can thiệp mạch vành. Siêu âm tim
kiểm tra cho thấy giảm động nhẹ vách liên thất
và thành sau, phân suất tống máu = 57%. Các xét
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 81
nghiệm khác ghi nhận có tăng cholesterol toàn
phần, LDL-cholesterol, triglyceride và giảm
HDL-cholesterol (Bảng 1). Sau 5 ngày điều trị nội
trú không xảy ra biến cố quan trọng, bệnh nhân
được xuất viện và được theo dõi ngoại trú. 2
tuần sau tái khám, bệnh nhân không đau ngực,
bắt đầu thực hiện các hoạt động thường ngày
vừa sức và ngưng thuốc lá.
BÀN LUẬN
Nhồi máu cơ tim cấp là nguyên nhân gây tử
vong hàng đầu trên thế giới. Mặc dù đã có nhiều
nghiên cứu về tình trạng này nhưng vẫn còn có
khoảng trống thông tin ở nhóm bệnh nhân trẻ
tuổi. Nhồi máu cơ tim ở người trẻ tuổi rất cần
được quan tâm bởi tác động bất lợi xảy ra rất lớn
về khả năng lao động, sang chấn tâm lý và gánh
nặng kinh tế xã hội. Chúng tôi giới thiệu một
trường hợp lâm sàng nhồi máu cơ tim cấp ở
người trẻ nhằm góp phần mô tả một số đặc điểm
nổi bật liên quan đến tình trạng lâm sàng này.
Hiện tại vẫn chưa có một tiêu chuẩn thống
nhất về định nghĩa “người trẻ” trong nhồi máu cơ
tim cấp. Khoảng dao động trong các nghiên cứu
thường là 45-55 tuổi. Ngưỡng tuổi 45 thường
được sử dụng và một số tác giả còn khảo sát ở
nhóm bệnh nhân < 35 tuổi(11). Điểm cắt về tuổi
khác nhau sẽ ảnh hưởng đến các đặc điểm của
dân số nghiên cứu bên cạnh sự khác biệt về đặc
điểm địa dư. Theo đoàn hệ Framingham, nguy cơ
10 năm của nhồi máu cơ tim cấp ở người < 55 tuổi
là 51,5/1000 ở nam và 7,4/1000 ở nữ(4). Tác giả Mc
Manus và cộng sự cho thấy nguy cơ này là
66/1000(7). Đối với dân số < 40 tuổi, nguy cơ này là
4% theo tác giả Fournier(2). Cá biệt, theo kết quả
nghiên cứu của tác giả Loughnan trong 6 năm
khảo sát các trường hợp nhập viện ở Melbourne,
Úc, 20% có độ tuổi < 55(6).
Về yếu tố nguy cơ tim mạch, đa số những
bệnh nhân trẻ tuổi là nam giới và đều có một
trong các yếu tố nguy cơ chính, nổi bật là hút
thuốc lá, tiền căn gia đình có bệnh tim mạch sớm
và rối loạn lipid máu. Đái tháo đường và tăng
huyết áp có tần suất thấp hơn so với nhóm dân
số lớn tuổi(11). Trong trường hợp lâm sàng của
chúng tôi, chỉ có yếu tố nguy cơ hút thuốc lá và
rối loạn lipid máu được phát hiện. Điều này
cũng được đề cập đến trong y văn với hút thuốc
lá được cho là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất ở
người trẻ. Nguy cơ tương đối của hút thuốc lá
cao hơn đáng kể so với các yếu tố khác và khi so
sánh về độ ảnh hưởng với nhóm dân số lớn tuổi,
nguy cơ này cũng cao hơn nổi bật ở người trẻ.
Đáng ghi nhận là người trẻ có tỉ lệ hút thuốc lá
rất cao với tần suất dao động từ 51% đến 81%(11).
Rối loạn lipid máu xuất hiện ở khoảng 50% số
người trẻ có nhồi máu cơ tim cấp. Định nghĩa rối
loạn lipid máu cũng thay đổi tùy theo nghiên
cứu bao gồm LDL-cholesterol > 130 mg/dL,
cholesterol toàn phần/HDL-cholesterol > 4,5,
non-HDL-cholesterol > 160 mg/dL, tiền căn có
rối loạn lipid máu hoặc đang điều trị rối loạn
lipid máu(11). Rối loạn lipid máu có tính gia đình
cũng được ghi nhận xuất hiện nhiều hơn với tỉ
suất lưu hành là 38% ở dân số người trẻ có nhồi
máu cơ tim cấp theo nghiên cứu của
Wiesbauer(14).
Biểu hiện lâm sàng của nhồi máu cơ tim cấp
ở người trẻ thường là nhồi máu cơ tim cấp
không có đoạn ST chênh lên với 2/3 trường hợp.
Đa số các tác giả đều có cùng nhận định sang
thương mạch vành ở nhóm dân số này đơn giản
hơn so với nhóm bệnh nhân lớn tuổi. Bệnh một
nhánh mạch vành là chủ yếu và nhánh xuống
trước trái là vị trí thường gặp nhất. Chỉ có 10%
bệnh nhân trẻ tuổi có bệnh lý ba nhánh mạch
vành(11). Tác giả Zimmerman còn ghi nhận 16%
nam giới và 21% nữ giới có hệ mạch vành bình
thường khi chụp cản quang(16).
Bệnh nhân của chúng tôi có biểu hiện đau
ngực điển hình của hội chứng mạch vành cấp.
Biểu hiện điện tâm đồ ở bệnh viện tuyến dưới
gợi ý nhiều đến chẩn đoán này với rối loạn
nhịp thất nguy hiểm. Khi bệnh nhân được
chuyển đến bệnh viện Nhân Dân Gia Định,
điện tâm đồ thay đổi sang dạng blốc nhánh
phải hoàn toàn nhưng tình trạng bệnh nhân
không cải thiện với xuất hiện rung thất được
cứu sống thành công. Về kinh điển, blốc nhánh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 82
trái mới xuất hiện trên bệnh cảnh lâm sàng
phù hợp được xem là tương đương với nhồi
máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên thành
trước do sự thay đổi đoạn ST thứ phát do blốc
nhánh trái làm ẩn đi sự thay đổi nguyên phát
của nhồi máu cơ tim(3). Đối với blốc nhánh
phải, hiện tượng chồng lắp về hình ảnh điện
tâm đồ không được ghi nhận rõ ràng nên vai
trò chẩn đoán trong nhồi máu cơ tim cấp vẫn
còn bàn cãi. Cần lưu ý, blốc nhánh phải có
đoạn ST chênh xuống thứ phát từ V1 đến V4
và điều này có thể làm giảm giả đoạn ST chênh
lên khiến không đạt ngưỡng chẩn đoán trong
nhồi máu cơ tim cấp(10). Tác giả Widimsky và
cộng sự ghi nhận trong nhóm bệnh nhân nhồi
máu cơ tim cấp hồi cứu, 47% trường hợp blốc
nhánh phải hoàn toàn không có đoạn ST chênh
lên trong khi 67% số bệnh nhân này có dòng
chảy TIMI 0-2 khi chụp mạch vành(13). Thực
vậy, mặc dù bệnh nhân của chúng tôi có tắc
hoàn toàn thân chung nhánh trái nhưng không
có biểu hiện đoạn ST chênh lên. Blốc nhánh
phải còn có vai trò tiên lượng khi hiện diện
trong nhồi máu cơ tim cấp. So với nhóm không
có rối loạn dẫn truyền trong thất, nhóm blốc
nhánh phải có tử vong 30 ngày cao hơn gấp 3-
4 lần. Nếu là blốc nhánh phải mới xuất hiện,
điều này liên quan đến độ Killip cao hơn, dòng
chảy TIMI kém hơn và tử vong nội viện cao
hơn. Khi so với blốc nhánh trái, trong nghiên
cứu hồi cứu của Widimsky, blốc nhánh phải có
dòng chảy TIMI 0 là 51,7% khi so với 39,4%
blốc nhánh trái và tử vong nội viện cũng cao
hơn (18,8% so với 13,2%)(13). Độ rộng của phức
bộ QRS có liên quan đến tiên lượng tử vong
trong 30 ngày(9). Theo hướng dẫn điều trị nhồi
máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên của Hội
tim mạch châu Âu 2017, chiến lược can thiệp
mạch vành qua da tiên phát (chụp mạch vành
khẩn và can thiệp khi có chỉ định) cần được
xem xét khi triệu chứng thiếu máu cục bộ kéo
dài xảy ra cùng với sự hiện diện của blốc
nhánh phải(3). Điều này chứng tỏ blốc nhánh
phải hiện đang được nhìn nhận là một dấu
hiệu điện tâm đồ quan trọng trong nhồi máu
cơ tim cấp.
Điều trị nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST
chênh lên ở người trẻ không khác biệt so với dân
số lớn tuổi hơn. Can thiệp mạch vành qua da có
hiệu quả cao hơn so với tái tưới máu bằng thuốc
tiêu huyết khối. Tuy nhiên, nếu thời gian chờ để
can thiệp mạch vành không thuận lợi, thuốc tiêu
huyết khối nên được sử dụng và trẻ tuổi là một
yếu tố tiên lượng tốt sau tiêu huyết khối(11).
Đối với nhóm người trẻ có nhồi máu cơ tim
cấp không có đoạn ST chênh lên, cách thức tiếp
cận còn nhiều bàn cãi. Nghiên cứu của tác giả
Negus năm 1999 cho thấy việc chụp mạch vành
sau nhồi máu cơ tim là không cần thiết ở những
bệnh nhân dưới 40 tuổi, không có biểu hiện triệu
chứng của thiếu máu cục bộ vì không có đối
tượng nào có những đặc điểm này cần phải tái
tưới máu sau đó(8). Cần lưu ý là chỉ có 126 bệnh
nhân trẻ tuổi tham gia vào khảo sát nói trên.
Ngược lại, một nghiên cứu khác cho thấy vài trò
của điều trị xâm lấn có lợi rõ rệt so với điều trị
định hướng theo triệu chứng thiếu máu cục bộ
bất kể nhóm tuổi nhưng hạn chế của nghiên cứu
này là tuổi trung bình của nhóm điều trị can
thiệp là 67(10). Do đó, việc chọn lựa chiến lược
điều trị cho bệnh nhân trẻ tuổi có nhồi máu cơ
tim cấp không có đoạn ST chênh lên cần có thêm
nhiều thử nghiệm lớn và ở thời điểm hiện tại, sự
cân nhắc tùy thuộc theo từng trường hợp và dựa
trên đánh giá của thầy thuốc lâm sàng.
Bệnh nhân của chúng tôi được phân loại là
bệnh nặng ngay từ lúc khởi phát bệnh với đau
ngực dữ dội và dai dẳng, điện tâm đồ có rối loạn
nhịp thất và blốc nhánh phải mới xuất hiện cùng
với biểu hiện nghiêm trọng nhất rung thất được
hồi sức thành công. Các chẩn đoán khác như
viêm cơ tim cấp hay rối loạn nhịp do các nguyên
nhân có thể nghĩ đến trong thời điểm tiếp nhận
nhưng hội chứng mạch vành cấp vẫn cần phải
ưu tiên hàng đầu. Do đó, chiến lược điều trị điều
trị xâm lấn được đặt ra và triển khai tích cực.
Điểm đặc biệt bất ngờ trên trường hợp này là
sang thương phức tạp với hẹp nặng đoạn thân
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 83
chung nhánh trái lan đến lỗ xuất phát động
mạch xuống trước trái. Y văn thế giới hầu như ít
ghi nhận tổn thương thân chung nhánh trái ở
bệnh nhân trẻ tuổi(2,11).
Điều trị bệnh thân chung nhánh trái là một
thách thức trong bệnh lý động mạch vành. Đối
với bệnh động mạch vành mạn, phẫu thuật bắc
cầu mạch vành là điều trị chuẩn trong những
năm trước đây và hiện tại có sự thay đổi về vai
trò của can thiệp mạch vành qua da. Một số thử
nghiệm lớn cho thấy đối với bệnh thân chung
nhánh trái có mức độ phức tạp giải phẫu thấp
đến trung bình, can thiệp mạch vành không kém
hơn so với phẫu thuật bắc cầu mạch vành về dự
hậu sau 3 năm. Xét về tiêu chí phụ, can thiệp
mạch vành qua da liên quan đến giảm tử vong,
đột quỵ, nhồi máu cơ tim trong 30 ngày. Phương
pháp này cũng giúp giảm các biến cố lớn chu
phẫu như rối loạn nhịp, nhiễm trùng, tái phẫu
thuật, chảy máu và truyền máu. Các phân tích
gộp cũng đưa ra kết quả tương tự với tử vong
sau 5 năm không khác biệt giữa hai nhóm điều
trị(1). Theo khuyến cáo điều trị của Hội tim mạch
châu Âu năm 2014, can thiệp mạch vành được
chỉ định ở bệnh thân chung nhánh trái có điểm
SYNTAX ≤ 22 và có thể xem xét khi điểm
SYNTAX 23-32 và không có chỉ định với điểm
SYNTAX cao hơn(15).
Điều trị can thiệp mạch vành cho bệnh thân
chung nhánh trái trong tình huống cấp cứu hiện
chưa được khảo sát đầy đủ. Theo một khảo sát
sổ bộ của Thụy Sỹ, có khoảng 5% bệnh nhân
được can thiệp mạch vành vì nhồi máu cơ tim
cấp có đoạn ST chênh lên được đặt stent vào
thân chung nhánh trái. Tỉ lệ tử vong đối với
nhóm này cao gấp 4 lần so với nhóm không có
tổn thương thân chung. Đặc biệt ở những bệnh
nhân có choáng tim như bệnh nhân của chúng
tôi, tỉ lệ tử vong lên đến 55%. Những đối tượng
này cần được hồi sức tích cực, ổn định huyết
động và can thiệp mạch vành cấp cứu(1). Có một
số nhận định dành cho can thiệp mạch vành qua
da đối với bệnh cảnh cấp tính do bệnh thân
chung nhánh trái: (a) Các nghiên cứu so sánh
can thiệp mạch vành và phẫu thuật bắc cầu đều
bị nhiễu rất nhiều do khác biệt về đặc điểm dân
số giữa hai nhóm, (b) Bệnh nhân có choáng
thường có khuynh hướng được lựa chọn can
thiệp mạch vành, (c) Can thiệp mạch vành đang
dần trở thành một điều trị thay thế thích hợp cho
nhóm dân số này. Sự gia tăng về can thiệp mạch
vành ngoài ra còn có thể có liên quan đến độ
thành thạo về kỹ thuật của bác sĩ can thiệp tim
mạch cũng như có thêm các nghiên cứu chứng
tỏ hiệu quả cũng như độ an toàn của phương
pháp điều trị(5).
Khoa Tim mạch can thiệp, bệnh viện Nhân
Dân Gia Định có kinh nghiệm can thiệp thân
chung nhánh trái với trung bình 15 trường hợp
can thiệp cấp cứu mỗi năm nên trong tình huống
khẩn cấp nói trên, phương pháp can thiệp đặt
stent là lựa chọn phù hợp nhất. Stent phủ thuốc
được ưu tiên lựa chọn hơn so với stent trần kim
loại(6). Đối với nhồi máu cơ tim cấp do bệnh thân
chung nhánh trái mạch vành, loại stent được sử
dụng trong nhóm bệnh nhân này cũng thay đổi
tùy theo khu vực và trung tâm với tiên lượng tốt
hơn được ghi nhận khi sử dụng stent phủ thuốc
nhưng điều này vẫn còn cần thêm nhiều nghiên
cứu(5). Bệnh nhân của chúng tôi được sử dụng
stent trần kim loại với nguy cơ thấp hơn có tình
trạng huyết khối trong stent so với stent phủ
thuốc nhưng có nhược điểm là khả năng cao tái
hẹp trong stent nhất là khi bệnh nhân trẻ tuổi có
thời gian kỳ vọng sống lâu dài. Sự chọn lựa về
loại stent ở điều kiện thực tế còn chịu ảnh hưởng
bởi nhiều yếu tố khách quan như quyết định của
bệnh nhân và thân nhân cũng như khả năng sẵn
có stent trong hoàn cảnh cấp cứu(12).
Việc điều trị sau can thiệp của bệnh nhân
cũng không thể thiếu vai trò của điều trị nội
khoa với các biện pháp thay đổi lối sống và
dùng thuốc. Bệnh nhân của chúng tôi được
hướng dẫn bỏ thuốc lá và tuân thủ điều trị
thuốc. Chiến lược theo dõi được đặt ra với đánh
giá phục hồi chức năng tim sau can thiệp, phát
hiện và điều chỉnh các yếu tố nguy cơ tim mạch.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 84
KẾT LUẬN
Thông qua trường hợp lâm sàng, có thể thấy
nhồi máu cơ tim cấp ở người trẻ có thể diễn tiến
nặng với sang thương mạch vành nguy hiểm ở
thân chung nhánh trái và cần được nhận diện
sớm với các biểu hiện lâm sàng trong đó rối loạn
nhịp thất, blốc nhánh phải hoàn toàn trên điện
tâm đồ là các chỉ điểm quan trọng. Dựa trên thế
mạnh có sẵn về can thiệp mạch vành tại bệnh
viện Nhân Dân Gia Định, phương pháp đặt
stent tái thông cấp cứu vào thân chung nhánh
trái được thực hiện thành công giúp cứu sống
bệnh nhân. Ở bệnh nhân trẻ có kỳ vọng sống lâu
dài, việc theo dõi sau can thiệp cần được chú ý
với vai trò không thể thiếu của điều trị nội khoa
nhằm giúp tái hòa nhập tích cực với xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Fajadet J, Capodanno D, Stone GW (2018). “Management of
left main disease: an update”. Eur Heart J.
2. Fournier JA, Sanchez A, Quero J và cs (1996). « Myocardial
infarction in men aged 40 years or less: a prospective clinical-
angiographic study”. Clin Cardiol, 19:631–6.
3. Ibanez B, James S, Agewall S và cs (2018). “2017 ESC
Guidelines for the management of acute myocardial infarction
in patients presenting with ST-segment elevation: The Task
Force for the management of acute myocardial infarction in
patients presenting with ST-segment elevation of the
European Society of Cardiology (ESC)”. Eur Heart J,
7;39(2):119-177.
4. Kannel WB, Abbott RD (1984). “Incidence and prognosis of
unrecognized myocardial infarction. An update on the
Framingham study”. N Engl J Med, 311:1144–7.
5. Lee MS, Dahodwala MQ (2015). “Percutaneous coronary
intervention for acute myocardial infarction due to
unprotected left main coronary artery occlusion: status update
2014”. Catheter Cardiovasc Interv, 85(3):416-20.
6. Loughnan ME, Nicholls N, Tapper NJ (2008). “Demographic,
seasonal, and spatial differences in acute myocardial
infarction admissions to hospital in Melbourne Australia”. Int
J Health Geogr, 7:42.
7. McManus DD, Piacentine SM, Lessard D và cs (2011). “Thirty-
year (1975 to 2005) trends in the incidence rates, clinical
features, treatment practices, and short-term outcomes of
patients <55 years of age hospitalizedwith an initial
acutemyocardial infarction”. Am J Cardiol, 108:477–82.
8. Negus BH, Willard JE, Glamann DB và cs (1994). “Coronary
anatomy and prognosis of young, asymptomatic survivors of
myocardial infarction”. Am J Med, 96:354–8.
9. Pozen JM, Mankad AK, Owens JT và cs (2015). “New right
bundle branch block as a criterion for emergent coronary
angiography”. N Am J Med Sci, 7(12):569-71.
10. Puymirat E, Taldir G, Aissaoui N và cs (2012). « Use of
invasive strategy in non-ST-segment elevation myocardial
infarction is a major determinant of improved long-term
survival: FAST-MI (French Registry of Acute Coronary
Syndrome)”. JACC Cardiovasc Inter, 5:893–902.
11. Shah N, Kelly AM, Cox N và cs (2016). “Myocardial Infarction
in the "Young": Risk Factors, Presentation, Management and
Prognosis”. Heart Lung Circ, 25(10):955-60.
12. Varghese TG và cs (2015). “Emergency stenting of
unprotected left main coronary artery occlusion using bare
metal stent with good long-term results – A case report”. JICC,
5(4):345-348.
13. Widimsky P, Rohác F, Stásek J và cs (2012). “Primary
angioplasty in acute myocardial infarction with right bundle
branch block: Should new onset right bundle branch block be
added to future guidelines as an indication for reperfusion
therapy?”. Eur Heart J, 33:86-95.
14. Wiesbauer F, Blessberger H, Azar D và cs (2009). “Familial-
combined hyperlipidaemia in very young myocardial
infarction survivors (< or = 40 years of age)”. Eur Heart J,
30:1073–9.
15. Windecker S, Kolh P, Alfonso F và cs (2015). “2014
ESC/EACTS Guidelines on myocardial revascularization”.
Eur Heart J, 35:2541–2619.
16. Zimmerman FH, Cameron A, Fisher LD và cs (1995).
“Myocardial infarction in young adults: angiographic
characterization, risk factors andprognosis (Coronary Artery
Surgery Study Registry)”. J Am Coll Cardiol, 26:654–61.
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 07/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 85
NỒNG ĐỘ ACID URIC HUYẾT THANH
Ở BỆNH NHÂN NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP ST CHÊNH LÊN
Trần Minh Trung*, Hoàng Văn Sỹ*
TÓM TẮT
Mở đầu: Nhồi máu cơ tim cấp là nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật và tử vong trên toàn thế giới. Hiện
nay, có nhiều yếu tố tiên lượng bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp bao gồm các yếu tố lâm sàng và cận lâm sàng.
Trong đó, vai trò acid uric huyết thanh ngày càng được quan tâm ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định nồng độ và tỉ lệ tang acid uric huyết thanh ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim
cấp ST chênh lên.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả có phân tích. Trong thời gian từ
ngày 13/12/2017 đến 31/05/2018 chúng tôi thu thập những bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên được
can thiệp mạch vành qua da tại khoa Tim mạch can thiệp bệnh viện Chợ Rẫy. Tăng acid uric được định nghĩa khi
nồng độ acid uric huyết thanh > 7 mg/dL đối với nam hoặc > 6mg/dL đối với nữ.
Kết quả: Trong tổng số 138 bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên chúng tôi thu thập được, nồng độ
acid uric huyết thanh trung bình là 6,1 ± 1,5 mg/dL, trong đó nam giới là 6,2 ± 1,6 mg/dL và nữ giới là 5,8 ± 1,3
mg/dL. Tỉ lệ tăng acid uric huyết thanh là 31,9%, cụ thể ở nam là 27,4% và ở nữ là 41,9%.
Kết luận: Acid uric huyết thanh là xét nghiệm thường qui trong thực hành lâm sàng. Tăng acid uric huyết
thanh có tần suất tương đối cao ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên. Vì vậy, vai trò của acid uric
huyết thanh cần được quan tâm hơn nữa trong tương lai.
Từ khóa: acid uric, nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên
ABSTRACT
URIC ACID CONCENTRATION IN PATIENTS WITH ST-SEGMENT ELEVATION MYOCARDIAL
INFARCTION
Tran Minh Trung, Hoang Van Sy
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 85 - 90
Introduction: Acute myocardial infarction is the leading cause of morbidity and mortality worldwide. At
present, there are many predictors of acute myocardial infarction including clinical and subclinical factors. In
particular, the role of serum uric acid is increasingly being studied in patients with acute myocardial infarction.
Objectives: Determine of serum uric acid concentrations and hyperuricemia rates in patients with ST
segment elevation myocardial infarction.
Methods: Cross-sectional descriptive analysis study. During the period from 13/12/2017 to 31/05/2018 we
collected patients with acute ST segment elevation myocardial infarction to receive percutaneous coronary
intervention at Cho Ray hospital. Uric acid is defined as serum uric acid > 7 mg/dL for men or > 6 mg/dL for
women.
Results: Of the 138 patients with acute ST segment elevation myocardial infarction, mean serum uric acid
levels were 6.1 ± 1.5 mg/dL, with 6.2 ± 1.6 mg/dL for men and 5.8 ± 1.3 mg/dL for women. Serum
hyperuricemicrates were 31.9%, with 27.4% for men and 41.9% for women.
Conclusions: Serum uric acid is a routine test in clinical practice. Serum uric acid levels are relatively
high in patients with acute myocardial infarction. Therefore, the role of serum uric acid should be considered
*Bộ môn Nội tổng quát, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: TS.BS. Hoàng Văn Sỹ ĐT: 0975979186 Email: hoangvansy@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhan_mot_truong_hop_nhoi_mau_co_tim_cap_o_benh_nhan_tre_tuoi.pdf