Tài liệu Nhân một trường hợp điều trị thành công tắc tĩnh mạch thận ghép bằng phương pháp can thiệp nội mạch bơm thuốc tiêu sợi huyết: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 129
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP ĐIỀU TRỊ THÀNH CÔNG TẮC TĨNH MẠCH
THẬN GHÉP BẰNG PHƯƠNG PHÁP CAN THIỆP NỘI MẠCH BƠM
THUỐC TIÊU SỢI HUYẾT
Phạm Minh Ánh*, Trịnh Vũ Nghĩa*
TÓM TẮT
Tắc tĩnh mạch thận ghép là một bệnh lý hiếm gặp trên những bệnh nhân ghép thận và hầu hết các trường
hợp đều dẫn tới mất thận ghép. Chúng tôi báo cáo trường hợp đầu tiên tại Việt Nam được can thiệp điều trị cứu
được thận ghép bằng phương pháp can thiệp nội mạch bơm thuốc tiêu sợi huyết. Bệnh nhân nam được ghép thận
với tĩnh mạch thận ghép được nối vào tĩnh mạch chậu ngoài bên phải. 8 tháng sau ghép thận, bệnh nhân xuất hiện
sưng đau đột ngột đùi cẳng bàn chân phải, 2 ngày sau bệnh nhân vô niệu hoàn toàn với Creatinin lúc nhập viện
là 4,3 mg/dL. Siêu âm Doppler cho thấy hình ảnh tắc hoàn toàn tĩnh mạch chậu đùi khoeo bên phải gây ra tắc tĩnh
mạch thận ghép hoàn toàn. Bệnh nhân đã được can thiệp nội mạch phụ...
5 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 244 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân một trường hợp điều trị thành công tắc tĩnh mạch thận ghép bằng phương pháp can thiệp nội mạch bơm thuốc tiêu sợi huyết, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 129
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP ĐIỀU TRỊ THÀNH CÔNG TẮC TĨNH MẠCH
THẬN GHÉP BẰNG PHƯƠNG PHÁP CAN THIỆP NỘI MẠCH BƠM
THUỐC TIÊU SỢI HUYẾT
Phạm Minh Ánh*, Trịnh Vũ Nghĩa*
TÓM TẮT
Tắc tĩnh mạch thận ghép là một bệnh lý hiếm gặp trên những bệnh nhân ghép thận và hầu hết các trường
hợp đều dẫn tới mất thận ghép. Chúng tôi báo cáo trường hợp đầu tiên tại Việt Nam được can thiệp điều trị cứu
được thận ghép bằng phương pháp can thiệp nội mạch bơm thuốc tiêu sợi huyết. Bệnh nhân nam được ghép thận
với tĩnh mạch thận ghép được nối vào tĩnh mạch chậu ngoài bên phải. 8 tháng sau ghép thận, bệnh nhân xuất hiện
sưng đau đột ngột đùi cẳng bàn chân phải, 2 ngày sau bệnh nhân vô niệu hoàn toàn với Creatinin lúc nhập viện
là 4,3 mg/dL. Siêu âm Doppler cho thấy hình ảnh tắc hoàn toàn tĩnh mạch chậu đùi khoeo bên phải gây ra tắc tĩnh
mạch thận ghép hoàn toàn. Bệnh nhân đã được can thiệp nội mạch phục hồi lưu thông tĩnh mạch thận bằng thuốc
tiêu sợi huyết tại chỗ qua ống thông đặt vào tĩnh mạch chậu đùi phải và tĩnh mạch thận ghép. Tuần hoàn tĩnh
mạch thận và chức năng thận được cải thiện rõ rệt. Bệnh nhân được cho xuất viện sau 6 ngày với Creatinin là
1,43 mg/dL. Can thiệp nội mạch bơm thuốc tiêu sợi huyết là lựa chọn hàng đầu trong điều trị tắc tĩnh mạch thận
ghép do huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới.
Từ khóa: Can thiệp nội tĩnh mạch, tiêu sợi huyết, tắc tĩnh mạch sâu, tắc tĩnh mạch thận ghép
ABSTRACT
SUCCESFUL CATHETER DIRECTED THROMBOLYSIS OF RENAL ALLOGRAFT VENOUS
OCCLUSION: A CASE REPORT
Pham Minh Anh, Trinh Vu Nghia
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 129 – 133
Renal allograft venous thrombosis is a rare disease within renal transplatation patient and most of case
resulting in loss transplated kidney. We report the first case in Vietnam salvage transplanted kidney by
percutaneous catheter directed thrombolysis. Male patient underwent renal transplantation with renal vein
anastomosed to right externel iliac vein. 8 month after, he suddenly had right thigh and right leg swelling, 2 days
after he developed anuria with creatinin in hospitalized time was 4.3 mg/dL. Doppler ultrasound showed extensive
venous thrombosis of whole right iliac – femoral – popliteal venous which caused total renal allograft venous
thrombosis. The patient was treated with percutaneous catheter directed thrombolysis inside femoral iliac vein and
renal allograft vein. Renal vein circulation and renal function was remakable improved. He was discharged after 6
days with Creatinin was 1.43 mg/dL. Percutaneous catheter directed thrombolysis is the first choice when treat
renal allograft venous thrombosis due to lower limb deep venous thrombosis.
Keywords: Endovenous, catheter directed thrombolysis, deep venous thrombolysis, allograft venous occlu sion
MỞ ĐẦU
Tắc tĩnh mạch thận ghép là một bệnh lý hiếm
gặp trên những bệnh nhân ghép thận và hầu hết
các trường hợp đều dẫn tới mất thận ghép(1).
Trên lâm sàng bệnh nhân thường đột ngột vô
niệu + sưng nề vị trí ghép thận. Nguyên nhân tắc
tĩnh mạch thận ghép thường do xoắn hay hẹp
* Khoa Phẫu thuật mạch máu bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: TS Phạm Minh Ánh ĐT: 0913560956 Email: phamminhanhcr@ymail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 130
miệng nối tĩnh mạch thận (thường tắc giai đoạn
sớm) hay do u, nang vùng chậu chèn ép hoặc do
huyết khối tĩnh mạch sâu vùng chậu đùi gây tắc
tĩnh mạch thận ghép. Tỷ lệ tắc tĩnh mạch thận
ghép trên các bệnh nhân ghép thận khoảng 0,5-
4% với tiên lượng rất xấu(2).
Trường hợp lâm sàng
Bệnh nhân nam. Sinh năm 1983.
Nhập viện: 27/06/2017
SNV: 2170061836
Địa chỉ: Thôn Tân Tiến, ĐliêYa, Krông Năng,
Đăk Lăk
Bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối đã
ghép thận P đồng loại từ người hiến tạng cách 8
tháng tại bệnh viện Chợ Rẫy. Bệnh nhân đang
dùng đơn thuốc:
Adalat LA 30mg 1v
Alzole 40mg 1v
Betalock Zok v50 mg
CellCept v 500mg 1v
Hydrocolacyl v5mg 1v x 2
Sandimmun Neoral v25mg 3v x 2
Động mạch, tĩnh mạch thận ghép nối vào
ĐM, TM chậu ngoài P. Cách nhập viện 2 ngày
bệnh nhân có sưng đùi cẳng bàn chân P tăng
dần. Vô niệu hoàn toàn từ tối 26/6. Creatinin
máu từ mức 1,4 mg/Dl lên 4,3mg/Dl.
Siêu âm ngày 27/6: Thận ghép nằm ở hố
chậu P d= 65x127x78, kích thước to, phù nề. Tĩnh
mạch thận ghép có huyết khối gần hoàn toàn.
Tăng kháng lực động mạch thận ghép.
Bệnh nhân được cho nhập viện cấp cứu. Cho
sử dụng Heparin bolus TM 5000UI + Heparin
10.000UI SE 5ml/h. Bệnh nhân được chỉ định can
thiệp đặt catheter tĩnh mạch chậu đùi khoeo và
TM thận ghép lúc 16h. Bệnh nhân được ngưng
thuốc ức chế miễn dịch Neoral và Cellcept và
được phẫu thuật lúc 20h cùng ngày.
Trình tự phẫu thuật
Dưới hướng dẫn của siêu âm chọc kim vào
tĩnh mạch khoeo. Chụp kiểm tra thấy TM chậu
đùi khoeo phải tắc hoàn toàn, tĩnh mạch thận
ghép tắc hoàn toàn. Bệnh nhân đã được đặt
catheter bơm thuốc tiêu sợi huyết Urokinase
180.000 UI vào tĩnh mạch chậu đùi khoeo P và
tĩnh mạch thận ghép, hút ra nhiều huyết khối và
được duy trì Urokinase liều 1000UI/Kg/hr và
Heparin 600 UI/kg/24hr. Trong mổ sử dụng
100ml thuốc cản quang Xenetix.
Hình 1: Tĩnh mạch thận ghép trước và sau can thiệp
Ngay sau can thiệp bệnh nhân có nước tiểu
trở lại. Số lượng nước tiểu 200ml/2h – 300ml/2h.
Sau đó nước tiểu khoảng 6l/24hr (có sử dụng lợi
tiểu Furosemid 20mg 1A). Lượng nước tiểu của
bệnh nhân bình thường khoảng 4l/24hr.
Bảng 1: Tiến triển chức năng thận
Ngày-
giờ
BUN
(mg/dL)
Cre
(mg/dL)
eGFR
(mL/min)
K+
(mmol/l)
9h 27/06 35 4,3 16,89 3,5
BỆNH NHÂN PHẪU THUẬT LÚC 21h 27/06
7h 28/06 51 5,90 mg/dL 11,72 4,4
11h30
28/6
53 6,11 11,26 4,1
10h 29/6 51 4,25 17,12 3,7
19h 29/6 50 3,52 21,28 3,8
15h 30/6 29 2,15 37.58 3,4
6h 01/07 32 1,62 52,1 3,9
10h 01/07 31 1,48 57,83 3,6
11h 02/07 23 1,27 >60ml 3,4
10h 03/07 20 1,43 58,28 3,1
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 131
Tiến triển kết quả siêu âm
Trong quá trình theo dõi sau mổ, aPTT dao
động từ 31,2 đến 97,8 và sau đó duy trì ổn định ở
mức 75 giây. Fibrinogen từ 1,14 đến 1,52. Nước
tiểu từ 150 – 300 ml/h.
Bảng 2: Kết quả siêu âm
Ngày Kích thước thận TM chậu đùi khoeo Tĩnh mạch thận ghép RL ĐM thận ghép
27/6 65x127x78 Tắc hoàn toàn Tắc hoàn toàn 0,74
BỆNH NHÂN PHẪU THUẬT LÚC 21h 27/06. Trong can thiệp chụp TM chậu đùi khoeo và TM thận ghép tắc hoàn toàn.
29/6: Sáng 56x118x60 Tắc gần hoàn toàn hệ tĩnh mạch chậu
đùi khoeo chân P do huyết khối
hẹp 78% do huyết khối 0,61
29/6: Chiều 56x118x60 Hẹp 75% 0,63
30/6 Chiều 60x117x56 Bình thường Hẹp 50% tại miệng nối 0,71
3/7 Sáng 55x127x62 Bình thường Bình thường 0,54
Thời gian sử dụng Urokinase: 60h. Liều sử
dụng 940UI/kg/Hr.
Heparin 600 UI/kg/24hr.
KS: Zolifast 1gx2x 5 ngày
Solumedrol 40mg 1A TMC
Naprozol 20mg 1A TMC
Furosemid 20mg 1Ax2, sau đó chuyển sang
Furosemid 40mg 1vx2 ngày 30/6 và Furosemid
40mg 1 ngày 3/7.
Bệnh nhân được cho xuất viện sau 6 ngày
nằm viện với Creatinin ở mức 1,43 và được cho
sử dụng thuốc kháng đông Xarelto 20mg/ ngày.
BÀN LUẬN
Tắc tĩnh mạch thận ghép là một bệnh lý hiếm
gặp và hầu hết các trường hợp thường dẫn đến
mất thận ghép do thận trở nên phù nề, thiếu
máu nuôi và hoại tử thận hoặc có thể vỡ
thận.Triệu chứng lâm sàng thể hiện bằng vô
niệu, sưng đau vùng thận ghép. Trên siêu âm
Doppler có thể thấy rõ hình ảnh tĩnh mạch thận
ghép bị tắc. Khi được chẩn đoán xác định tắc
tĩnh mạch thận ghép, bệnh nhân cần được phải
can thiệp sớm để phục hồi lưu thông tĩnh mạch
thận. Phẫu thuật mở hiện ít được đặt ra do nguy
cơ khi gây mê nhiều, tỷ lệ thất bại cao vì phải
phẫu thuật lại, tĩnh mạch thận ghép có thành
mỏng, dễ rách, dễ tắc lại. Hơn nữa bệnh nhân
đang dùng thuốc ức chế miễn dịch nên khả năng
nhiễm trùng đối với một cuộc mổ lớn là rất cao.
Gần đây can thiệp nội mạch với ưu thế ít xâm
lấn đã chứng minh được vai trò trong điều trị
huyết khối tĩnh mạch sâu. Can thiệp nội mạch
bơm thuốc tiêu sợi huyết đã trở thành phẫu
thuật thường quy tại khoa Phẫu thuật mạch máu
bệnh viện Chợ Rẫy. Do đó khi gặp phải bệnh
cảnh tắc tĩnh mạch thận ghép rất hiếm gặp
nhưng chỉ định can thiệp nội mạch bơm thuốc
tiêu sợi huyết đã được đặt ra ngay và là lựa chọn
số 1 vì các trường hợp trước đây tắc tĩnh mạch
thận ghép được phẫu thuật lại hoặc điều trị bảo
tồn bằng thuốc kháng đông đều thất bại và dẫn
đến hậu quả mất thận ghép. Số trường hợp báo
cáo điều trị thành công tắc tĩnh mạch thận ghép
được ghi nhận trong y văn thế giới còn rất ít.
Năm 2005 tác giả Michal L. Melamed báo cáo 2
trường hợp tại bệnh viện John Hopkin, trong đó
có 1 trường hợp tắc tĩnh mạch thận ghép do
huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới, được điều trị
thành công trên hình ảnh học bằng hút huyết
khối qua da + bơm thuốc tiêu sợi huyết. Tuy
nhiên trường hợp này phải tiến hành lọc máu
nhiều lần trong quá trình nằm viện do được
nhập viện muộn và sau đó phải ghép thận lại do
thận hoại tử không hồi phục(3) Tác giá Ferreira
vào năm 2016 báo cáo điều trị thành công một
trường hợp tắc tĩnh mạch thận ghép do huyết
khối tĩnh mạch sâu bằng thuốc kháng đông
nhưng bệnh nhân phải tiển hành lọc máu do vô
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 132
niệu trong những ngày đầu nằm viện vì tĩnh
mạch thận chưa được tái thông. Bệnh nhân được
xuất viện với Creatinin ở mức 1.8 mg/dL cao hơn
bình thường(4). Năm 2014, tác giả Sampath
Kumar báo cáo 1 trường hợp điều trị thành công
tắc tĩnh mạch thận ghép bằng can thiệp bơm
thuốc tiêu sợi huyết streptokinase(5).
Về thời gian chẩn đoán và phẫu thuật
Khi bị tắc tĩnh mạch thận, thận ghép sẽ phù
nề, căng cứng, dẫn tới cản trở máu tới nuôi thận
và dẫn đến hoại tử thận không hồi phục. Do đó
vấn đề chẩn đoán sớm và sớm can thiệp để phục
hồi lưu thông tĩnh mạch thận là rất quan trọng
nhằm đảm bảo chức năng thận sau phẫu thuật
được phục hồi tốt. Như trường hợp của tác giả
Michal L. Melamed, bệnh nhân được can thiệp
phục hồi lưu thông mạch rất tốt nhưng do nhập
viện muộn nên chức năng thận không hồi phục
và phải ghép thận lại(3). Trường hợp của chúng
tôi được chẩn đoán sớm và can thiệp sớm nên
bệnh nhân có kết quả tốt, chức năng thận phục
hồi ở mức bình thường.
Về phương pháp can thiệp phục hồi lưu thông
mạch
Hiện có 2 phương pháp chính được áp
dụng là điều trị nội khoa bằng thuốc kháng
đông và can thiệp. Phương pháp sử dụng thuốc
kháng đông, trong y văn thế giới chỉ báo cáo
thành công duy nhất 1 trường hợp, tuy nhiên
bệnh nhân này phải chạy thận nhiều lần trong
quá trình nằm viện và xuất viện với Creatinin ở
mức cao hơn bình thường(4). Phương pháp can
thiệp phẫu thuật không thấy được nhắc đến
trong y văn do độ khó cao, tĩnh mạch thận ghép
mỏng dễ rách, dễ tắc lại, bệnh nhân đang dùng
thuốc ức chế miễn dịch dễ nhiễm trùng dẫn tới
hầu hết các trường hợp là thất bại. Trên thực tế
các trường hợp trước đây tại bệnh viện Chợ
Rẫy, tắc tĩnh mạch thận ghép được phẫu thuật
đều thất bại dẫn đến phải lấy bỏ thận ghép,
thậm chí tử vong.
Phương pháp can thiệp gần đây được áp
dụng ngày càng nhiều và đã chứng minh được
vai trò trong việc điều trị tắc tĩnh mạch thận
ghép. Đã có một số tác giả báo cáo việc điều trị
tắc tĩnh mạch thận ghép bằng can thiệp nội
mạch(3,5). Can thiệp nội mạch có ưu thế là ít xâm
lấn, bảo tồn được tính nguyên vẹn của tĩnh mạch
nên khi tắc tĩnh mạch thận không phải do yếu tố
kỹ thuật hoặc do chèn ép từ bên ngoài bắt buộc
phải phẫu thuật thì can thiệp nội mạch là lựa
chọn hàng đầu.
Về thuốc tiêu sợi huyết sử dụng trong can thiệp
Các thuốc tiêu sợi huyết sử dụng trong can
thiệp tắc tĩnh mạch thận được nhắc tới trong y
văn là Streptokinase và Urokinase. Hiện chưa
có tài liệu nào công bố về sử dụng các thuốc
tiêu sợi huyết mới như Alteplase hay
Reteplase trong điều trị tắc tĩnh mạch thận
ghép. Chúng tôi lựa chọn Urokinase vì
Urokinase có ít biến chứng hơn Streptokinase
khi sử dụng. Khi dùng thuốc tiêu sợi huyết
bơm trực tiếp vào huyết khối giúp giảm liều
của thuốc tiêu sợi huyết và qua đó giảm được
các biến chứng do tác dụng phụ của thuốc.
KẾT LUẬN
Tắc tĩnh mạch thận ghép là một bệnh hiếm
gặp và thường dẫn đến mất thận ghép. Với việc
chẩn đoán sớm và can thiệp sớm bằng can thiệp
nội mạch bơm thuốc tiêu sợi huyết, kết quả điều
trị tắc tĩnh mạch thận ghép cho thấy kết quả
đáng khích lệ. Can thiệp nội mạch bơm thuốc
tiêu sợi huyết là lựa chọn hàng đầu trong điều trị
tắc tĩnh mạch thận ghép do huyết khối tĩnh
mạch sâu chi dưới.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 133
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giustacchini P, et al (2002). Renal vein thrombosis after renal
transplantation: an important cause of graft loss. Transplant
Proc, 34(6): p. 2126-7.
2. Hogan JL, et al (2015). Late-onset renal vein thrombosis: A
case report and review of the literature. Int J Surg Case Rep, 6C:
p. 73-6.
3. Melamed ML, et al (2005). Combined percutaneous
mechanical and chemical thrombectomy for renal vein
thrombosis in kidney transplant recipients. Am J Transplant,
5(3): p. 621-6.
4. Ferreira C, et al (2016). Late Allograft Renal Vein Thrombosis
Treated With Anticoagulation Alone: A Case Report.
Transplant Proc, 48(9): p. 3095-3098.
5. Krishnaswamy SK, et al (2014). Successful thrombolysis of
renal allograft venous thrombosis – A case report. Indian
Journal of Transplantation, 8(2): p. 57-59
Ngày nhận toàn văn: 24/11/2017
Ngày nhận bài nhận xét: 25/12/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhan_mot_truong_hop_dieu_tri_thanh_cong_tac_tinh_mach_than_g.pdf