Tài liệu Nhan đề tác phẩm văn học pháp và phương pháp chuyển dịch sang tiếng Việt: 63KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
dịch thuật v
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong xu thế toàn cầu hóa, giao lưu, hợp tác
trên các lĩnh vực phát triển mạnh mẽ, văn học
nước ngoài được du nhập ngày càng nhiều vào
Việt Nam. Độc giả Việt Nam đã từng rất quen
thuộc với những bài thơ ngụ ngôn của La Fontaine,
tiểu thuyết của Victor Hugo hay Balzac tiếp tục
chào đón những ấn phẩm dịch các tác phẩm của
những nhà văn đương đại nổi tiếng của Pháp như
Guillaume Musso, Marc Levy Dịch văn học
ngày càng phát triển ở Việt Nam song cũng đặt ra
không ít vấn đề suy ngẫm không chỉ đối với dịch
giả, nhà nghiên cứu ngôn ngữ mà ngay cả các độc
giả Việt Nam. Tại sao có những nhan đề tác phẩm
NGUYỄN THU HÒA*, VŨ ANH BA**
*Học viện Khoa học Quân sự, hoa.nguyen26178@gmail.com
**Học viện Khoa học Quân sự, vuanhba1161982@gmail.com
Ngày nhận bài: 22/3/2019; ngày sửa chữa: 09/4/2019; ngày duyệt đăng: 15/5/2019
NHAN ĐỀ TÁC PHẨM VĂN HỌC PHÁP
VÀ PHƯƠNG PHÁP CHUYỂN DỊCH
SANG TIẾNG VIỆT...
12 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 839 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhan đề tác phẩm văn học pháp và phương pháp chuyển dịch sang tiếng Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
63KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
dịch thuật v
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong xu thế toàn cầu hóa, giao lưu, hợp tác
trên các lĩnh vực phát triển mạnh mẽ, văn học
nước ngoài được du nhập ngày càng nhiều vào
Việt Nam. Độc giả Việt Nam đã từng rất quen
thuộc với những bài thơ ngụ ngôn của La Fontaine,
tiểu thuyết của Victor Hugo hay Balzac tiếp tục
chào đón những ấn phẩm dịch các tác phẩm của
những nhà văn đương đại nổi tiếng của Pháp như
Guillaume Musso, Marc Levy Dịch văn học
ngày càng phát triển ở Việt Nam song cũng đặt ra
không ít vấn đề suy ngẫm không chỉ đối với dịch
giả, nhà nghiên cứu ngôn ngữ mà ngay cả các độc
giả Việt Nam. Tại sao có những nhan đề tác phẩm
NGUYỄN THU HÒA*, VŨ ANH BA**
*Học viện Khoa học Quân sự, hoa.nguyen26178@gmail.com
**Học viện Khoa học Quân sự, vuanhba1161982@gmail.com
Ngày nhận bài: 22/3/2019; ngày sửa chữa: 09/4/2019; ngày duyệt đăng: 15/5/2019
NHAN ĐỀ TÁC PHẨM VĂN HỌC PHÁP
VÀ PHƯƠNG PHÁP CHUYỂN DỊCH
SANG TIẾNG VIỆT
gần như có chung một cách chuyển dịch sang tiếng
Việt (cho dù được tái bản, được một dịch giả khác
dịch lại) trong khi một số nhan đề có thể có nhiều
cách chuyển dịch khác nhau; mức độ Tín, Đạt,
Nhã cũng khác nhau? Sự khác biệt trong những
cách chuyển dịch đó nói lên điều gì? Ý đồ của dịch
giả và những ấn tượng mà các nhan đề dịch đem
lại cho độc giả như thế nào? Những yếu tố nào gây
khó khăn cho dịch giả và người học tiếng Pháp khi
nghiên cứu và chuyển dịch nhan đề một tác phẩm
văn học Pháp sang tiếng Việt? Những trăn trở đó là
nguồn động lực để chúng tôi mạnh dạn khám phá
khu vườn muôn màu của dịch văn học nói chung
và dịch nhan đề tác phẩm văn học Pháp nói riêng.
TÓM TẮT
Nhan đề là yếu tố không thể tách rời của một tác phẩm văn học, giúp người đọc tiếp cận tác phẩm
một cách nhanh chóng trên nhiều bình diện khác nhau. Cách đặt nhan đề thể hiện khả năng sáng
tạo, ý đồ, tình cảm của mỗi tác giả. Trên thực tế, việc giải mã và chuyển dịch nhan đề tác phẩm
văn học nói chung, nhan đề tác phẩm văn học Pháp nói riêng sang tiếng Việt tưởng chừng đơn
giản song thường đặt ra những vấn đề khó khăn cho dịch giả, những nhà nghiên cứu ngôn ngữ, có
khi còn là tâm điểm gây tranh luận. Trong khuôn khổ bài báo, chúng tôi sẽ trình bày những nét đặc
trưng của nhan đề tác phẩm văn học, nghiên cứu và chia sẻ cảm nhận về những cách chuyển dịch
nhan đề một số tác phẩm văn học Pháp sang tiếng Việt. Hy vọng ít nhiều hữu ích cho các giảng
viên tiếng Pháp nói chung, giảng viên dạy bộ môn văn học Pháp nói riêng cũng như các bạn học
viên, sinh viên học tiếng Pháp trong quá trình tiếp cận ngôn ngữ và văn học Pháp.
Từ khóa: nhan đề, tác phẩm văn học Pháp, chuyển dịch, tiếng Việt
64 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
v Dịch thuật
2. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHAN ĐỀ
TÁC PHẨM VĂN HỌC
2.1. Khái niệm
Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý, 2008,
tr.1149) đưa ra một định nghĩa ngắn gọn cho nhan
đề: “tên đặt cho cuốn sách hoặc bài viết”.
Theo Từ điển Hachette (Mauffrey A., Cohen I,
1987, tr.173), nhan đề là một phát biểu dùng để gọi
tên một văn bản và thường gợi mở nội dung của văn
bản (“énoncé servant à nommer un texte, et qui,
le plus souvent, évoque le contenu de celui-ci”).
Tehrani và Raissonssadati (1974, tr.84) cho
rằng, nhan đề là một tập hợp ngữ đoạn được liên
kết chặt chẽ và trả lời cho một số câu hỏi nhằm
hỗ trợ quá trình đọc hiểu và định hướng cho độc
giả (“ le titre comme un ensemble de syntagmes
étalés les uns sur les autres, répondant à un
certain nombre de questions, qui facilite la lecture
et guide le lecteur”). Eco (1985) thì cho rằng mỗi
nhan đề là một chiếc chìa khóa giải mã (“clef
interprétative”).
Từ các quan điểm đó có thể hiểu rằng, nhan
đề tác phẩm văn học là đầu đề, là tên của một
tác phẩm văn học, thường do người viết (tác giả)
đặt ra. Nhan đề có thể coi như gương mặt của tác
phẩm, là cái nổi bật nhất để phân biệt tác phẩm này
với tác phẩm khác. Việc đặt tên cho“đứa con tinh
thần”của mình, luôn khiến các nhà văn trăn trở bởi
cái tên là nơi gửi gắm rất nhiều thông điệp và tình
cảm của tác giả. Chúng tôi nhìn nhận nhan đề tác
phẩm văn học với tư cách là một yếu tố tiếp cận tác
phẩm đầu tiên, một tín hiệu nghệ thuật có vai trò
định hướng và hỗ trợ quá trình đọc hiểu của độc giả.
Vì lẽ đó, chúng tôi không nghiên cứu các tác phẩm
văn học được đặt theo kiểu vô đề (khuyết danh).
2.2. Chức năng của nhan đề tác phẩm văn học
Nhan đề có ý nghĩa rất quan trọng trong quá
trình tìm hiểu và cảm thụ một tác phẩm văn học.
Mỗi nhan đề thường đảm nhiệm nhiều chức năng.
Theo Tehrani và Raissonssadati (1974, tr.87-88)
nhan đề có ba chức năng chính, bao gồm: chức
năng gọi tên (fonction appellative), chức năng
tham chiếu (fonction référentielle) và chức năng
thu hút độc giả (fonction séductive). Genette
(1987, tr.96) bổ sung thêm chức năng hàm ngôn
(fonction connotative).
- Chức năng gọi tên (fonction appellative):
Đây là chức năng đầu tiên của nhan đề, cho phép
nhận diện một tác phẩm văn học và phân biệt nó
với các tác phẩm văn học khác. Nhan đề những
tác phẩm văn học lớn có sức sống mãnh liệt trong
lòng độc giả, nhiều trường hợp độc giả nhớ tên tác
phẩm hơn tên tác giả.
- Chức năng tham chiếu (fonction référentielle)
hay chức năng thông tin (fonction informative):
Đây là chức năng phổ biến của nhan đề, đặc biệt
là với những nhan đề rõ ràng, mang tính miêu
tả. Chức năng tham chiếu của nhan đề cho phép
người đọc có những thông tin ban đầu xoay quanh
tác phẩm. Ví dụ:
+ về thể loại: Ode à Cassandre (Pierre de
Ronsard), Essais (Montaigne)
+ về sự kiện hoặc nội dung chính: Cinq
semaines en ballon (Jules Verne), Le dernier jour
d’un condamné (Victor Hugo), À la recherche du
temps perdu (Marcel Proust)
+ về địa điểm: Autour de la Lune (Jules Verne),
Aux champs (Guy de Maupassant), L’archipel de
la Manche (Victor Hugo), Le Lac (Lamartine)
+ về thời gian: L’Été (Albert Camus), Demain
dès l’aube (Victor Hugo)
+ về nhân vật chính hoặc đối tượng chính
trong tác phẩm: Le bossu de Notre-Dame (Victor
Hugo), L’homme qui rit (Honoré de Balzac), La
main écorchée (Guy de Maupassant), Les Rougon-
Macquart (Émile Zola), L’homme révolté (Albert
Camus), Les yeux d’Elsa (Louis Aragon)
+ về cảm xúc: Illusions perdues (Honoré de
65KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
dịch thuật v
Balzac), La joie de vivre (Émile Zola), La douleur
(Marguerite Duras)
- Chức năng hàm ngôn (fonction connotative):
Thường một nhan đề có mối quan hệ ẩn dụ với
đối tượng của tác phẩm (nhan đề hàm ẩn) sẽ mang
chức năng hàm ngôn, nhất là với những lối diễn
đạt quen thuộc hoặc những nghĩa mở rộng về văn
hóa. Ví dụ tiểu thuyết Le mythe de Sisyphe của
Albert Camus liên quan đến huyền thoại Hy Lạp
hay nhan đề bài thơ Le dormeur du val của Arthur
Rimbaud gợi lên mối quan hệ ẩn dụ giữa hình ảnh
một người trai trẻ đang ngủ say trong thung lũng
với đối tượng được nói đến chính xác trong bài thơ
là một người lính đã hy sinh, từ đó cho thấy tình
cảm và thông điệp của tác giả gửi gắm qua nhan đề.
- Chức năng thu hút độc giả (fonction séductive):
Ngoài những chức năng cơ bản trên, nhan đề còn
có chức năng thu hút sự quan tâm của độc giả.
Nhiều nhan đề thoạt nhìn thấy, nghe thấy, chúng
ta đã hiếu kỳ muốn tìm đọc tác phẩm trong khi
có những nhan đề không hề gây ấn tượng với độc
giả. Không ít tác phẩm bán chạy, dễ đến với công
chúng cũng một phần nhờ vào nhan đề tác phẩm.
2.3. Đặc điểm cấu tạo của nhan đề tác phẩm
văn học
Xét về cấu tạo hay về mặt hình thái, chúng ta
nhận thấy nhan đề tác phẩm văn học có thể là một
từ, một ngữ, một mệnh đề hoặc một câu và độ dài
ngắn cũng khác nhau.
Trường hợp nhan đề là một mệnh đề hay một
câu, có thể kể đến một số tác phẩm sau: Tous les
hommes sont mortels (Simone de Beauvoir); Il
pleure dans mon cœur (Paul Verlaine); Si c’était
à refaire, Et si c’était vrai, Où es-tu? (Marc
Levy); Parce que je t’aime (Guillaume Musso);
Je voudrais que quelqu’un m’attende quelque
part, Ensemble, c’est tout hay Je l’aimais (Anna
Gavalda), Un cirque passe (Patrick Modiano)
Khi nhan đề là một từ hoặc một ngữ, các từ loại
cấu thành nên nhan đề rất đa dạng; trong đó, danh
từ là từ loại được các tác giả sử dụng nhiều nhất để
đặt tên cho tác phẩm của mình. Nhan đề tác phẩm
văn học có thể là một danh từ hoặc một ngữ danh từ;
có thể là danh từ riêng, danh từ chung, danh từ cụ
thể, danh từ trừu tượng. Nhiều tác giả có xu hướng
sử dụng danh từ riêng chỉ tên nhân vật chính, tên
địa danh quan trọng để đặt tên cho tác phẩm của
mình như: Don Juan (Molière), Madame Bovary
(Flaubert), Eugénie Grandet (Honoré de Balzac),
Le pont Mirabeau (Lamartine), Notre-Dame de
Paris (Victor Hugo)
Nếu là danh từ chung thì thường để chỉ nghề
nghiệp, xuất thân, ngoại hình, tính cách hoặc
mối quan hệ, vị thế của nhân vật chính như: Les
travailleurs de la mer (Victor Hugo), Les Indes
noires (Jules Verne), Le bossu de Notre-Dame
(Victor Hugo), L’avare (Molière), L’amant
(Marguerite Duras), Le Député d’Arcis (Honoré
de Balzac) Không ít trường hợp nhan đề là danh
từ chung chỉ một đối tượng, một sự kiện hoặc một
cảm xúc nổi bật: La peau de chagrin (Honoré
de Balzac), Automne (Paul Verlaine), Voyage au
centre de la Terre (Jules Verne), Les châtiments
(Victor Hugo), La chute (Émile Zola), La douleur
(Marguerite Duras)
Chúng ta cũng biết đến những nhan đề được
cấu tạo từ tính từ [(Fort comme la mort (Guy
de Maupassant), Modeste Mignon (Honoré
de Balzac)]; từ động từ nguyên thể [Écrire
(Marguerite Duras), Fendre l’armure (Anna
Gavalda), Vous revoir (Levy)]; từ trạng từ hoặc
phó từ [Parallèlement (Paul Verlaine), Demain
(Guillaume Musso)]; từ đại từ [Lui?(Guy de
Maupassant), Ceux qui savent comprendront
(Anna Gavalda), Elle et lui (Marc Levy)] hoặc
từ giới từ [Sans dessus dessous, De la Terre à la
Lune (Jules Verne); En famille, Sur l’eau (Guy de
Maupassant)], thậm chí cả thán từ [Ah! Ernesto
(Marguerite Duras)]. Bên cạnh đó, không hiếm
trường hợp nhan đề tác phẩm là những con số: Le
quatorze Juillet (Romain Roland), Cinq semaines
en ballon, Vingt mille lieues sous les mers (Jules
Verne), Quatrevingt-treize (Victor Hugo)
66 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
v Dịch thuật
Tóm lại, cách đặt tên cho tác phẩm văn học rất
phong phú, thể hiện phong cách, ý đồ của mỗi tác
giả. Người thích dài, người thích ngắn, người thích
gây ấn tượng, người thích che giấu ý đồ: Trong
khi Balzac, nhà văn hiện thực Pháp nổi tiếng của
thế kỷ XIX, được biết đến qua những tiểu thuyết
có nhan đề ngắn gọn, rõ ràng và thường liên quan
đến nhân vật chính trong truyện nhằm tái hiện
những cảnh đời khác nhau trong một “Tấn trò đời”
(La Comédie humaine) thì tiểu thuyết gia đương
đại Marc Levy lại thiên về những nhan đề dài và
thường liên quan đến ngôi thứ ba chung chung nào
đó. Nhan đề không chỉ thể hiện phong cách riêng
của từng tác giả mà còn mang dấu ấn thời đại.
Chẳng hạn, với các tác phẩm thế kỷ XVII, XIX,
nhan đề thường là danh từ hoặc ngữ danh từ, có
quan hệ mật thiết với nội dung của tác phẩm trong
khi các tác giả thế kỷ XX, XXI lại có nhiều cách
đặt nhan đề táo bạo hơn và một số tác giả có xu
hướng đặt nhan đề theo kiểu mệnh đề hoặc câu,
mang ý nghĩa hàm ẩn sâu sắc.
2.4. Phân loại nhan đề tác phẩm văn học
Tehrani và Raissonssadati (1974, tr.87-88)
phân loại nhan đề tác phẩm văn học thành nhan đề
tường minh (titres explicites) và nhan đề hàm ẩn
(titres implicites).
Nhan đề tường minh (titres explicites) là những
nhan đề có mối quan hệ chặt chẽ với nội dung của
tác phẩm, có thể hiểu ngay và được hiểu mạch
lạc, ví dụ: Le père Goriot (Honoré de Balzac),
L’invité (Simone de Beauvoir), Mon ami (Guy de
Maupassant), Les misérables (Victor Hugo), Le
docteur Pascal (Émile Zola), Vingt mille lieues
sous les mers (Jules Verne)...
Trái lại, nhan đề hàm ẩn (titres implicites)
không có mối quan hệ tường minh với nội dung
tác phẩm, thường gây khó hiểu (có khi còn gây
hiểu lầm) và khó giải thích cho người đọc bởi việc
sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ,
lối nói ám chỉ, thậm chí nói ngược Chúng ta có
thể kể ra một số nhan đề loại này như: La peau
de chagrin (Honoré de Balzac), Le crève-cœur
(André Breton), Le rouge et le noir (Stendhal),
Le dormeur du val (Arthur Rimbaud), La nausée
(Jean-Paul Sartres), L’endroit et l’envers (Albert
Camus)
Như vậy, có thể phân biệt ngắn gọn sự khác
nhau giữa nhan đề tường minh và nhan đề hàm ẩn
nằm ở tính cụ thể, tường minh hay tính trừu tượng
của nội dung mà mỗi loại nhan đề đem đến cho
người đọc. Thông thường, khi đọc nhan đề tường
minh, người đọc có thể hiểu ngay và hiểu chính
xác thông tin được đề cập còn với nhan đề hàm ẩn
thì thường phải đọc tác phẩm, thậm chí đọc toàn bộ
tác phẩm mới có thể tìm được mối liên hệ giữa nội
dung tác phẩm với nhan đề. Tuy nhiên, việc phân
loại thành nhan đề tường minh và nhan đề hàm ẩn
không phải lúc nào thuần nhất: điều này phụ thuộc
một phần vào khả năng cảm thụ của độc giả, một
phần vào những lớp nghĩa mà một số nhan đề có
thể thâu đựng trong nó.
3. DỊCH NHAN ĐỀ TÁC PHẨM VĂN HỌC
PHÁP SANG TIẾNG VIỆT
3.1. Một số vấn đề liên quan đến dịch nhan
đề tác phẩm văn học Pháp sang tiếng Việt
Theo Nida và Charles (1974), dịch thuật là tái
tạo lại trong ngôn ngữ tiếp nhận (receptor language)
sự tương đương tự nhiên và sát với thông điệp của
ngôn ngữ nguồn (source language), trước hết là về
nghĩa (meaning) và sau đó là phong cách (style).
Dịch văn học cũng vậy và được biết đến là một
lĩnh vực đặc thù, khó khăn, đòi hỏi nhiều thời gian,
công sức, phải qua nhiều khâu, nhiều bước để có
được một bản dịch được độc giả tiếp nhận tích cực.
Dịch giả Trần Đình Hiến, người từng chia sẻ
mất ba tháng để lựa ra cái tên Báu vật của đời cho
bản dịch của nhà văn Trung Quốc Mạc Ngôn (giải
Nobel Văn học năm 2012) mà không dừng lại ở vẻ
đẹp phồn thực của người phụ nữ như cái tên trong
nguyên gốc là Phong nhũ phì đồn, đã khái quát các
bước chuyển dịch một văn bản văn học bằng tiếng
nước ngoài như sau: Từ văn bản (bao gồm văn hóa
trong nguyên tác) → người dịch → văn bản do
67KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
dịch thuật v
người dịch tạo dựng (bao gồm nội hàm văn hóa qua
lăng kính người dịch) → văn bản người dịch công
bố (bao gồm nội hàm văn hóa mà người dịch có
thể công bố) → sự tiếp nhận của độc giả (bao gồm
nội hàm văn hóa qua lăng kính của người dịch).
Rõ ràng dịch văn học không chỉ liên quan đến
hai ngôn ngữ mà cao hơn nữa ở đó là sự giao lưu
liên văn hóa. Dịch văn học cũng được hiểu là một
hoạt động nghệ thuật đòi hỏi cao đối với dịch giả
cũng như sản phẩm dịch của họ. Một nhan đề tác
phẩm văn học nước ngoài nói chung và văn học
Pháp nói riêng được chuyển dịch sang tiếng Việt
đương nhiên cũng phải tuân thủ quy trình trên và
sản phẩm đó thực chất là quá trình xử lý, kết hợp
hài hòa các yếu tố: nguyên văn + bối cảnh văn hóa
trong nguyên văn + dịch văn + bối cảnh văn hóa
trong dịch văn + khí chất, phong cách của tác giả
nguyên tác + khí chất, phong cách dịch giả. Một
sản phẩm dịch văn học nói chung, dịch nhan đề tác
phẩm văn học nói riêng cần đạt đủ ba tiêu chí Tín
- Đạt - Nhã, thể hiện được ý đồ nghệ thuật của tác
giả và có sức thu hút với độc giả.
Chúng tôi nhận thấy, khi dịch một tác phẩm
văn học Pháp, bao gồm cả nhan đề tác phẩm, dịch
giả hoặc người nghiên cứu ngôn ngữ có thể phải
đối mặt với những khó khăn, trở ngại như: thiếu
kiến thức về tiếng Pháp và tiếng Việt; thiếu kiến
thức văn hóa liên quan cả hai nền văn hóa Việt
Nam và Pháp; sự khác biệt về ngôn ngữ giữa tiếng
Pháp và tiếng Việt cũng như khác biệt về văn hóa,
thói quen ngôn ngữ, thị hiếu đọc của hai dân tộc;
hiện tượng đồng nghĩa, đa nghĩa của tiếng Pháp và
tiếng Việt; phong cách đặt nhan đề theo lối chơi
chữ, ám chỉ hay phản nhan đề của một số nhà văn
Pháp... Có trường hợp người dịch hiểu rất rõ vấn
đề của bản dịch song không phải lúc nào cũng có
thể tìm ra phương án tối ưu thỏa mãn mọi độc giả
và đảm bảo tất cả các tiêu chí đối với dịch văn học.
Như chúng ta đã biết, phương pháp và kỹ thuật
dịch rất phong phú, mỗi phương pháp chỉ có thể
phát huy được hiệu quả tối đa khi được sử dụng
đúng cách, đúng chỗ. Căn cứ vào từng nhan đề và
tác phẩm văn học cụ thể, dịch giả có thể lựa chọn
một phương pháp dịch hiệu quả nhất nhằm chuyển
tải rõ nét thông điệp của tác phẩm và tác giả. Trong
phạm vi nghiên cứu, chúng tôi chỉ tập trung vào
một số phương pháp phổ biến và phù hợp với dịch
nhan đề tác phẩm văn học Pháp sang tiếng Việt.
3.2. Phương pháp dịch nhan đề tác phẩm
văn học Pháp sang tiếng Việt
3.2.1. Dịch vay mượn (Emprunt)
Đây là phương pháp dịch đơn giản nhất, dịch
mà không dịch, bằng cách giữ nguyên một từ hoặc
một cách diễn đạt của ngôn ngữ gốc sang ngôn
ngữ đích và thường được sử dụng khi không có từ
tương đương trong ngôn ngữ đích hoặc với những
từ mới (néologisme) và từ đặc biệt thông dụng.
Trong dịch nhan đề tác phẩm văn học Pháp
sang tiếng Việt, phương pháp này thường được
sử dụng cho các danh từ chỉ tên riêng, dưới hai
hình thức: Trước kia, các dịch giả có xu hướng vay
mượn từ nhưng biến tấu cách viết phù hợp với đặc
trưng ngôn ngữ của tiếng Việt: Bố của Xi-mông (Le
papa de Simon, Guy de Maupassant), Người chị
họ Bét-tơ (La cousine Bette, Honoré de Balzac),
Ơgiêni Grăng đê (Eugénie Grandet, Honoré de
Balzac), Bá tước Môngtơ Crixtô (Le comte de
Monte Cristo, Alexandre Dumas), Đôi mắt En-xa
(Les yeux d’Elsa, Louis Aragon Tuy nhiên, hiện
nay, đa số là vay mượn nguyên bản từ gốc tiếng
Pháp: Chú bé thành Paris (Victor Hugo), Bác sỹ
Pascal (Le docteur Pascal, Émile Zola), Oscar và
Bà áo hồng (Eric Emmanuel Schmitt)... Những
tác phẩm được tái bản, dịch mới cũng thường giữ
nguyên gốc các danh từ chỉ tên riêng như trong
tiếng Pháp: Bố của Simon, Bá tước Monte Cristo.
Xu hướng này là hợp thời đại, cho phép đảm bảo
sự chính xác thông tin, đồng thời tái hiện được một
bối cảnh văn hóa cho văn bản thông qua cấp độ
ngôn ngữ được sử dụng.
3.2.2. Dịch sao chép (Calque) và dịch câu
chữ (Traduction littérale)
Dịch sao chép (calque hay traduction mot à
mot trong tiếng Pháp, word-for-word trong tiếng
68 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
v Dịch thuật
Anh) là cách dịch theo kiểu sao chép bản gốc -
vay mượn và dịch. Đây là phương pháp dịch phổ
biến đối với nhan đề tác phẩm văn học từ tiếng
Pháp sang tiếng Việt, nhất là dạng đặc biệt của nó:
dịch câu chữ (traduction littérale), nghĩa là dịch sát
từng từ, từng chữ, không thay đổi trật tự từ trong
văn bản gốc. Ví dụ, các truyện ngắn Une vie, La
main écorchée, Fort comme la mort của Guy de
Maupassant được dịch tương ứng thành Một cuộc
đời, Bàn tay bị lột da, Mạnh như cái chết (nhiều
dịch giả, Nhà xuất bản Thời đại, 2011); Lê Đình
Chí dịch nhan đề Le voleur d’ombres của Marc
Levy sang tiếng Việt là Người trộm bóng (Nhà
xuất bản Hội Nhà văn, 2012); Dans le café de la
jeunesse perdue được Trần Bạch Lan dịch thành
Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối (Nhà xuất bản
Văn học, 2014).
Trên thực tế, có những nhan đề tác phẩm văn
học đòi hỏi người dịch phải trung thành tuyệt đối
với câu từ của bản gốc, bởi sự triệt tiêu một yếu tố
ngôn ngữ nhỏ trong bản gốc có thể dẫn đến hiểu sai
ý đồ của tác giả. Trường hợp tiểu thuyết Le Rouge
et le Noir của Stendhal khi chuyển sang tiếng Việt
nếu phóng tác thành Đỏ đen theo phương pháp
collocation (sử dụng những cụm từ có xu hướng
kết hợp với nhau tạo thành những ngữ cố định)
có lẽ sẽ chỉ gợi ra một canh bạc cuộc đời (như
nhiều độc giả vẫn cảm nhận khi đọc tác phẩm) chứ
không thấy hết ý đồ nghệ thuật của tác giả khi đối
chọi giữa đỏ và đen, giữa vận may và vận rủi, giữa
cái thiện và cái ác. Vì lẽ đó, nhà văn đã quyết định
đổi tên tác phẩm thành Le Rouge et le Noir sau
nhiều ngày đề tên trên bản thảo là Julien (tên nhân
vật chính). Ở đây, dịch giả Đoàn Phú Tứ đã chuyển
sát nghĩa Le Rouge et le Noir sang tiếng Việt là Đỏ
và đen (bản in lần thứ 6, Nhà xuất bản Văn học,
1998). Tương tự như vậy, Trần Thiện Đạo dịch
cuốn L’endroit et l’envers của Albert Camus thành
Bề mặt và bề trái (Nhà xuất bản Giao điểm, 1967).
Tuy nhiên, theo chúng tôi, trường hợp này, phương
án dịch Bề mặt, bề trái cũng là một lựa chọn có thể
xem xét vì không làm thay đổi nghĩa biểu đạt của
văn bản (sự đối lập được thể hiện qua dấu phẩy) và
câu từ cũng nhẹ nhàng hơn trong tiếng Việt.
Quá trình dịch sao chép từ tiếng Pháp sang
tiếng Việt, người dịch có thể gặp một số vấn đề
liên quan chủ yếu đến hiện tượng đa nghĩa, đồng
nghĩa, đòi hỏi những kỹ thuật xử lý tinh tế.
Trước hết liên quan đến từ đa nghĩa tiếng Pháp
(polysémie): Nghiên cứu tác phẩm L’Étranger của
Albert Camus, chúng ta cùng tìm hiểu nghĩa của từ
étranger trong Từ điển Le Robert plus (Trouillez
E., Le Fur D. 2007, tr.366-367):
Étranger (adj):
1. qui est d’une autre nation
2. relatif aux rapports avec les autres nations
3. qui n’appartient pas à un groupe
4. qui n’est pas naturel à/familier de (qqn)
5. qui se tient à l’écart de (qqch)
6. qui ne fait pas partie de
Étranger (n.m):
1. personne dont la nationalité n’est pas celle
d’un pays donné
2. personne qui ne fait pas partie d’un groupe
3. personne inconnue
4. pays étranger
Ở đây, nếu xem xét étranger là một danh từ và
dịch sang thành Người dưng như dịch giả Dương
Tường (Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1995) thì
thật sự chưa chuyển tải đúng thông điệp của tác
giả về nhân vật Meursault, bởi nhân vật này không
phải là người lạ, người dưng, người không quen
biết mà là một người xa lạ, khác biệt với mọi người
trong cách cư xử và hành động. Như vậy, étranger
thực chất là một tính từ được sử dụng như một
danh từ nhằm khắc họa tính cách nhân vật. Những
bản dịch sang tiếng Việt thành Người xa lạ của Võ
Lang (Nhà xuất bản Thời đại mới, 1965), Thanh
Thư (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2017) và Kẻ xa
lạ của Dương Kiến, Bùi Ngọc Dung (Nhà xuất bản
Ngày nay, 1965), Lê Thanh Hoàng Dân, Mai Vi
Phúc (Nhà xuất bản Trẻ, 1973), Nguyễn Văn Dân
(Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội, 2002) đều đã lột
tả được đúng nghĩa của từ étranger.
69KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
dịch thuật v
Trường hợp Oscar et la Dame Rose của Eric
Emmanuel Schmitt lại đặt ra một vấn đề khác
trong dịch sao chép sang tiếng Việt, vừa liên quan
đến hiện tượng đồng nghĩa của từ, vừa liên quan
đến nét văn hóa của người Pháp. Theo nghĩa trong
từ điển, rose có thể là hoa hồng hoặc màu hồng.
Bản dịch nhan đề Oscar và Bà Áo hồng của Ngô
Bảo Châu, Nguyễn Khiếu Anh (Nhà xuất bản Văn
học, 2015) đã dịch sao chép trên cơ sở xác định
đúng nghĩa biểu đạt của từ rose: đó là màu áo của
những người làm việc thiện nguyện chăm sóc các
bệnh nhân, phân biệt với màu áo trắng của các bác
sỹ: Bà Áo hồng trong truyện là một người phụ nữ
cao tuổi, phúc hậu trong chiếc áo thiện nguyện
màu hồng đã cho cậu bé Oscar, một bệnh nhân
ung thư máu, lời khuyên vô giá như một phép màu
giúp cậu vượt qua mười hai ngày cuối đời vô cùng
thanh thản và ý nghĩa. Quyết định chọn phương án
dịch nhan đề là Oscar và Bà Áo hồng của nhóm
dịch giả là chính xác bởi nếu chuyển dịch thành
Oscar và Bà Hoa hồng (như cách dịch bên trong
truyện - đương nhiên không loại trừ trường hợp
nhóm dịch giả có ý đồ riêng) thì đã đi trật văn cảnh
và làm mất đi ý nghĩa biểu tượng của chiếc áo. Đối
chiếu với bản dịch tiếng Anh Oscar and the lady in
pink, chúng ta có thể nhận ra sự tương đồng giữa
cụm từ áo hồng và in pink.
Thứ hai, liên quan đến hiện tượng đồng nghĩa
(synonymie) trong tiếng Việt, đặc biệt là hệ thống
đại từ nhân xưng và mạo từ vốn phong phú hơn
tiếng Pháp rất nhiều. Ví dụ, trong tiếng Pháp, mạo
từ xác định đi với danh từ chỉ người giống đực, số
ít chỉ có các dạng Le hoặc L’ (trước một danh từ
giống đực, số ít bắt đầu bởi một nguyên âm hoặc
phụ âm h câm) song khi chuyển sang tiếng Việt lại
có rất nhiều phương án dịch, có thể là Người, Kẻ,
Gã, Tay, Thằng, Lão, Ông, Chú, Anh, Cậu tùy
vào đặc điểm của nhân vật trong tác phẩm (tính
cách, lứa tuổi, vị thế, vai trò ảnh hưởng) và góc
nhìn của nhà văn, dịch giả. Điều này giải thích tại
sao có những sự khác biệt về cách sử dụng định
ngữ tiếng Việt trong văn bản dịch. Theo đó, tiểu
thuyết L’homme qui rit của Victor Hugo cũng có
hai phiên bản dịch sang tiếng Việt là Thằng cười
(Hoàng Lâm, Lê Chi, Nhà xuất bản Văn học, 2009)
và Người cười (trích nguồn https://websrv1.ctu.
edu.vn/coursewares/supham/lsvhphuongtay/ch1.
htm). Theo chúng tôi, phương án dịch Thằng cười
lột tả rõ nét hơn những nỗi thống khổ mà nhân
vật Gwynplaine với khuôn mặt méo mó, biến dạng
phải chịu đựng vì những mưu đồ chính trị bẩn thỉu,
đồng thời làm nổi bật tính chất bi hài trong tiểu
thuyết, từ đó đem lại cho độc giả nhiều cảm xúc hơn.
Thứ ba, liên quan đến hiện tượng đa nghĩa
trong tiếng Việt. Chúng tôi xin minh chứng bằng
hai bản dịch nhan đề tiểu thuyết Les Misérables
của Victor Hugo: Những kẻ khốn nạn của Nguyễn
Văn Vĩnh (Nhà Trung Bắc Tân Văn, 1967) và
Những người khốn khổ (Nhóm dịch giả: Huỳnh
Lý, Vũ Đình Liên, Lê Trí Viễn, Đỗ Đức Hiếu, Nhà
xuất bản Văn học, 1961, tái bản 1967, 2013). Theo
Từ điển tiếng Việt, từ khốn nạn có hai nghĩa:
1. (cũ) khốn khổ đến mức thảm hại, đáng
thương;
2. hèn mạt, không còn chút nhân cách, đáng
khinh bỉ, nguyền rủa.
Cố nhà văn, dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh (1882-
1936) chuyển dịch sang khốn nạn với nghĩa thứ
nhất, có lẽ do thói quen ngôn ngữ của các cụ thời
đó, cũng có thể do muốn nhấn mạnh đến mức độ
cùng cực của cái đói nghèo, thống khổ mà các nhân
vật phải chống chọi (đương nhiên ở đây không thể
có sự hiểu nhầm theo nghĩa thứ hai vì thông điệp, ý
đồ của Victor Hugo biểu lộ qua các tuyến nhân vật
trong truyện rất rõ ràng). Tuy nhiên, nhiều độc giả
Việt Nam, nhất là các bạn trẻ, thường chỉ hiểu từ
khốn nạn theo nghĩa xấu (nghĩa thứ hai), mà không
biết đến nghĩa cũ của từ nên có vẻ khó ưng ý với
nhan đề dịch Những kẻ khốn nạn của cụ Vĩnh. Bởi
lẽ đó, phương án dịch Những người khốn khổ của
nhóm tác giả Huỳnh Lý, Vũ Đình Liên, Lê Trí
Viễn, Đỗ Đức Hiếu là an toàn, hiệu quả và phù
hợp với thói quen ngôn ngữ của đại đa số người
Việt Nam.
3.2.3. Dịch lược (Suppression)
Tiếng Pháp được biết đến là một ngôn ngữ rất
chặt chẽ về mặt ngữ pháp nên câu tứ thường dài và
70 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
v Dịch thuật
xuất hiện nhiều từ chức năng (mots fonctionnels
ou grammaticaux) chỉ có giá trị về mặt ngữ pháp
để liên kết các từ, các ý trong câu, khác với lối
hành văn thông dụng, gọn gàng của tiếng Anh.
Do đó, khi dịch tiếng Việt (cũng như tiếng Anh)
sang tiếng Pháp, thông thường bản dịch dài hơn và
người dịch thường sử dụng phương pháp dịch mở
rộng (étoffement) để làm rõ nghĩa văn bản và đảm
bảo tính chuẩn mực ngữ pháp. Ngược lại, khi dịch
từ tiếng Pháp sang tiếng Việt, người dịch có xu
hướng giản lược những mots grammaticaux như
giới từ de, đại từ quan hệ qui, que như trong các ví
dụ minh họa dưới đây:
Tiếng Pháp Tiếng Việt
La place de l’Étoile
(Patrick Modiano)
Quảng trường Ngôi sao
(Vũ Đình Phòng, Nxb Văn học, 2000)
Rue des boutiques obscures
(Patrick Modiano)
Phố những cửa hiệu u tối
(Dương Tường, Nxb Hội Nhà văn, 1992)
Notre-Dame de Paris
(Victor Hugo)
Nhà thờ Đức Bà Paris
(Nhị Ca, Nxb Văn học, 2017)
L’homme qui rit
(Victor Hugo)
Thằng cười
(Hoàng Lâm, Lê Chi, Nxb Văn học,
2009)
Le Sumo qui ne pouvait pas
grossir
(Eric Emmanuel Schmitt)
Chàng Sumo không thể béo
(Nguyễn Đình Thành, Nxb Văn học,
2010)
Toutes ces choses qu’on ne
s’est pas dites
(Marc Levy)
Mọi điều ta chưa nói
(Bảo Linh, Nxb Hội Nhà văn, 2008)
Đôi khi đó là sự giản lược một số nét nghĩa
không quá quan trọng trong nhan đề gốc để đảm
bảo sự hài hòa giữa ba tiêu chí Tín, Đạt, Nhã.
Ví dụ nhan đề tiểu thuyết L’amant (Marguerite
Duras) được Trịnh Xuân Hoành dịch thành Người
tình (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 1991) trùng với
phương án của Lê Ngọc Mai (Nhà xuất bản Văn
học, 2007) trên cơ sở lược bớt nét nghĩa thể hiện
giới tính trong danh từ amant. So với bản dịch
Gã nhân tình (Đình Kinh Hiệt, Nhà xuất bản
Trẻ, 1989) có thể độ Tín trong nhan đề dịch của
Trịnh Xuân Hoành và của Lê Ngọc Mai không
bằng nhưng mức độ Đạt và Nhã theo chúng tôi
cảm nhận có phần chênh hơn: với nhan đề Người
tình nhẹ nhàng mà bao quát, dịch giả đã gợi lên
được cả nhân vật nam chính và nữ chính trong câu
chuyện tình éo le và thực tế trong tiểu thuyết của
Duras, hình ảnh nam chính mờ nhạt hơn so với nữ
chính. Thêm nữa, nhan đề Gã nhân tình mặc dù
dịch rất sát nghĩa của danh từ amant song có thể
do quá chú trọng vào chuyển dịch đầy đủ nét nghĩa
về giới tính thông qua từ gã nên đương nhiên phải
ghép cặp với nhân tình. Để rồi cụm từ gã nhân
tình ấy trong tiếng Việt, theo cách hiểu của người
Việt có thể khiến độc giả liên tưởng đến hình ảnh
một gã Sở Khanh trong khi người tình ấy, cho dù
có nhu nhược thuận theo ý gia đình phụ tình cô gái
da trắng để kết hôn với một người con gái khác,
vẫn âm thầm dõi theo nàng, vẫn ấp ủ một tình yêu
mãnh liệt với nàng sau nhiều năm xa cách.
Một kỹ thuật khác trong phương pháp dịch lược
cho phép rút gọn câu từ trong bản dịch tiếng Việt,
đó là sử dụng từ Hán Việt – một hiện tượng độc
đáo trong chuyển dịch Pháp-Việt. Chúng ta từng
biết đến Chanson d’automne của Paul Verlaine với
tựa đề Thu ca hay Harmonie du soir của Charles
Beaudelaire với tựa đề Khúc chiều tà. Đặc biệt độc
giả Việt Nam chắc hẳn không xa lạ với tiểu thuyết
La dame aux camélias của Alexandre Dumas (con)
qua bản dịch của cố nhà báo, nhà văn Bùi Thế Mỹ.
Thành công đầu tiên của ông chính là ở sự sáng tạo
trong dịch nhan đề tác phẩm: ông không dịch sao
chép kiểu Người phụ nữ bên hoa trà mà gói gọn
trong vẻn vẹn ba từ: Trà hoa nữ. Sau này, những
dịch giả trẻ vẫn kế thừa nhan đề Trà hoa nữ cho
bản dịch của mình (Hải Nguyên, Nhà xuất bản
Văn học, 2010). Một nhan đề không chỉ gọn gàng,
đủ ý mà còn làm nổi bật nét đẹp tâm hồn của nàng
kỹ nữ Marguerite Gautier với tình yêu, lòng vị tha,
trong trắng như bông hoa trà. Như vậy, Trà hoa
nữ đã trở thành một hình tượng đẹp, một biệt danh
mỹ học gắn cho Marguerite, thể hiện tính nhân văn
cao cả của tác phẩm.
3.2.4. Dịch chuyển đổi (Transposition)
Phương pháp này kéo theo sự chuyển đổi từ
loại của từ văn bản gốc sang văn bản dịch, làm
cho bản dịch phù hợp với đặc trưng ngôn ngữ
đích, đảm bảo tiêu chí Nhã trong dịch thuật. Dịch
chuyển đổi được áp dụng phổ biến cho những
71KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
dịch thuật v
nhan đề tiếng Pháp cấu tạo là danh từ (ngữ danh
từ): thường được biến đổi thành động từ (bỏ những
từ cái, sự, việc, cuộc) hoặc tính từ cho ngắn gọn
và mềm mại hơn trong tiếng Việt.
Tiếng Pháp Tiếng Việt
Danh từ
Illusions perdues
(Honoré de Balzac)
La chute
(Albert Camus)
Les travailleurs de mer
(Victor Hugo)
La nausée
(Jean-Paul Sartres)
Le malentendu
(Albert Camus)
Động từ
Vỡ mộng
(Trọng Đức, Nxb Văn học, 2001)
Sa đọa
(Trần Thiện Đạo, Nxb Hội nhà văn, 1995)
Lao động biển cả
(Hoàng Lâm, Nxb Văn học, 2015)
Buồn nôn
(Phùng Thăng, Nxb Văn hóa Sài Gòn)
Ngộ nhận
(Bùi Giáng, Nxb. Võ Tánh, 1967)
Danh từ
Clair de lune
(Guy de Maupassant)
Le Rouge et le Noir
(Stendhal)
Tính từ
Sáng trăng
(nhiều dịch giả, Nxb Hội Nhà văn, 2006)
Đỏ và đen
(Đoàn Phú Tứ, Nxb Văn học, 1998)
Danh từ
Sept jours pour une éternité
(Marc Levy)
Trạng từ
Bảy ngày cho mãi mãi
(Hương Lan, Nxb Hội Nhà văn, 2014)
Trạng ngữ
Pour la prochaine fois
(Marc Levy)
Le tour du monde en 80 jours
(Jules Verne)
Danh từ
Kiếp sau
(Hương Lan, Nxb Hội Nhà văn, 2010)
80 ngày vòng quanh thế giới
(Phương Nhung, Nxb Mỹ thuật, 2016)
3.2.5. Dịch tương đương (Équivalence)
Dịch tương đương được hiểu là dịch một thông
điệp trong tổng thể của nó (nhất là khi được sử
dụng cho câu cảm thán, các ngữ cố định, khẩu
ngữ). Người dịch phải hiểu được tình huống trong
ngôn ngữ gốc và phải tìm được một cách diễn đạt
tương đương phù hợp được sử dụng cùng tình
huống như ở ngôn ngữ gốc. Trong dịch tương
đương, phương án dịch cho một từ, một ngữ có
thể khác hoàn toàn với văn bản gốc và chỉ nhấn
mạnh vào sự tương đương về nghĩa biểu đạt. Ví
dụ khi dịch nhan đề cuốn Le ventre de Paris của
văn hào Patrick Modiano, người dịch không thể
dịch nghĩa đen của từ ventre là cái bụng mà phải
hiểu được nét văn hóa ẩn trong cách nói ví von
của người bản ngữ: Đúng là chợ trung tâm Les
Halles được ví như “cái bụng của Paris” nhưng
không thể dịch sang tiếng Việt theo kiểu sao chép
như vậy mà phải chuyển sang nghĩa biểu đạt tương
đương của nó là “Khu chợ của thành phố Paris”
thì độc giả Việt Nam mới có thể hiểu và tiếp nhận
được thông tin.
3.2.6. Dịch thích nghi (Adaptation)
Phương pháp này được sử dụng trong những
trường hợp đặc biệt khi các phương pháp khác đều
không hiệu quả, nhất là khi dịch những tình huống
hoặc thực tế (ví dụ về văn hóa) không có trong
ngôn ngữ đích. Đây là phương pháp rất phổ biến
trong dịch tiêu đề phim và nhan đề tác phẩm văn
học. Ví dụ, nhan đề bài thơ Il pleure dans mon
coeur của Paul Verlaine không thể dịch sao chép
là Nó khóc trong tim tôi mà phải bám vào ý nghĩa
tổng thể của toàn bài để chuyển dịch nhan đề thành
Mưa trong tim.
Cũng có trường hợp nhan đề tác phẩm văn
học Pháp có thể dịch sang tiếng Việt thông qua
các phương pháp dịch kiểu vay mượn hoặc sao
chép song dịch giả có thể sáng tạo trên tinh thần
của tác phẩm nhằm tạo ra một hiệu quả thẩm
mỹ và cũng ghi dấu ấn cá nhân rõ nét. Về điểm
này, cố dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh là người rất
thành công với hai bản dịch Mai nương lệ cốt và
Miếng da lừa. Khi dịch cuốn Manon Lescaut hay
L’histoire du chevalier Grieux et Manon Lescaut
của Abbé Prévost, cụ Vĩnh không dịch vay mượn
từ Manon Lescaut, cũng không lựa chọn phương
án dịch sao chép L’histoire du chevalier Grieux et
Manon Lescaut thành Chuyện của hiệp sĩ Grieux
và Manon Lescaut mà mô phỏng cách phát âm tên
nhân vật nữ Manon Lescaut sang tiếng Việt thành
Mai nương lệ cốt. Đây là một sự chuyển dịch
táo bạo và tài hoa hiếm có. Với cách biến tấu âm
tiết như vậy, dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh đã đem
Manon Lescaut đến gần hơn với độc giả Việt Nam
qua hình tượng một cô gái đẹp (mai nương) mà số
phận éo le (lệ cốt). Theo bạn chí thân của cụ Vĩnh,
Mai nương lệ cốt là cuốn sách cụ gọt giũa công
phu nhất, hơn cả cuốn Ba người ngự lâm pháo thủ
(Les trois mousquetaires). Có lẽ chính tâm huyết
dành cho cuốn tiểu thuyết, dành cho nhân vật đã
thôi thúc dịch giả trau chuốt được cách dịch nhan
đề đẹp đến thế, tình đến thế, sâu sắc đến thế!
72 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
v Dịch thuật
Vẫn lối dịch táo bạo, sắc sảo như vậy, Nguyễn
Văn Vĩnh tiếp tục thành công với bản dịch Miếng da
lừa cho tiểu thuyết La peau de chagrin của Honoré
de Balzac khi gieo từ “lừa” như một lối chơi chữ,
tương ứng với lối chơi chữ trong nguyên gốc tiếng
Pháp. Chúng ta cùng xem xét nghĩa biểu đạt của
danh từ chagrin và ngữ cố định peau de chagrin
liên quan đến tác phẩm:
Theo Từ điển Larousse (https://www.larousse.fr):
1. peau de chèvre de tannage végétal à grain
naturel très apparent;
2. état de déplaisir, de peine, d’affliction.
Theo Từ điển Hachette (Mauffrey A., Cohen I,
1987, tr.173):
1. peine morale, affliction, déplaisir;
2. cuir à surface grenue, préparé à partir de
peaux de chèvre ou de mouton, utilisé pour les
reliures;
3. peau de chagrin: se dit à propos d’une chose
qui se réduit, se rétrécit régulièrement.
Tựu chung lại và căn cứ vào nội dung tác
phẩm, xét cả nghĩa đen và nghĩa bóng thì la peau
de chagrin dùng để chỉ một miếng da thuộc có
những đặc tính sau: bằng da dê hoặc da cừu; đem
lại phiền não, đau khổ; tự co ngắn lại một cách đều
đặn. Như vậy, bản dịch nhan đề Miếng da lừa của
Nguyễn Văn Vĩnh độc đáo ở chỗ lớp nghĩa đen về
chất liệu miếng da mà người đọc tri nhận tức thì
không phải là nghĩa thực, nghĩa cốt lõi mà chính
lớp nghĩa bóng về bản chất của miếng da mới là
chìa khóa của câu chuyện: sự giàu có, quyền lực và
hạnh phúc mà Raphaël có được nhờ miếng da lừa
phép thuật cho anh được thỏa nguyện bằng cách
đổi lại một phần cuộc sống của anh thực chất chỉ
là thứ hạnh phúc, quyền lực và giàu có ảo tưởng,
lừa lọc, đẩy anh đến gần hơn với sự tuyệt vọng,
với cái chết.
Tuy nhiên, không phải cứ nhận biết được những
biện pháp tu từ trong nhan đề nguyên gốc là có
thể chuyển dịch tương ứng sang tiếng Việt được.
Trên thực tế, việc nhà văn sử dụng lối chơi chữ hay
những cách nói ví von, nhiều lớp nghĩa luôn đặt ra
thách thức cho các dịch giả. Lấy ví dụ vở kịch phi
lý En attendant Godot của Samuel Beckett miêu
tả sự chờ đợi vô vọng của hai nhân vật khốn khổ
là Estragon và Vladimir, chờ đợi một người được
gọi là Godot: từ Godot được tác giả sử dụng mang
một ý nghĩa biểu tượng sâu sắc, đó là một biến âm
của từ God (có nghĩa là Thượng đế, Chúa trời).
Như vậy, Godot thực chất không phải là một nhân
vật cụ thể mà là một vị cứu tinh, Đấng cứu thế
vô hình trong tưởng tượng của những người trong
cuộc. Theo đó, nếu trung thành với tiêu chí Tín về
ngôn ngữ thì phương án thông thường và an toàn
là dịch sao chép thành Trong khi chờ đợi Godot
(Mai Vi Phúc, Nhà xuất bản Kỷ nguyên, 1969; Vũ
Đình Phòng, Tạp chí Văn học nước ngoài, số 3,
1997) hoặc Đợi Godot (tương tự bản dịch tiếng
Anh: Waiting for Godot) (Đình Quang, Nhà xuất
bản Thế giới, 1995). Nhưng nếu muốn nhấn mạnh
vào tính chất phi lý, vào sự đợi chờ vô vọng của
Estragon và Vladimir cũng như thân phận bọt bèo,
vô nghĩa của họ thì chúng tôi mạnh dạn đề xuất
một số phương án dịch thích nghi như: Hoài mong
Đấng cứu thế; Thượng đế, Người ở đâu? Song có
lẽ cả hai trường hợp dịch sao chép và dịch thích
nghi trên đều chưa lột tả được nghệ thuật chơi chữ
trong nhan đề gốc.
Ngoài Nguyễn Văn Vĩnh, Bùi Giáng cũng được
xếp vào danh sách những dịch giả có những phương
án dịch thích nghi “đắt”, đặc biệt khi ông chuyển
dịch những tác phẩm của Albert Camus. Không đi
theo lối mòn dịch nhan đề Le mythe de Sisyphe của
Camus thành Huyền thoại Sisyphe, Bùi Giáng đã
chọn cách nhấn mạnh vào nội dung và thông điệp
mà Camus muốn gửi gắm qua hình ảnh vị thần Hy
Lạp Sisyphe vì bị thần linh kết án mà ngày ngày
phải đẩy và lăn một tảng đá lên, xuống núi một
cách vô nghĩa. Vì thế, ông lựa chọn phương án
dịch là Biển Đông xe cát (Nhà xuất bản An Tiêm,
1969) để chuyển tải tính chất phi lý của cuộc đời.
Rõ ràng, việc chuyển dịch thích nghi những yếu
tố ngôn ngữ, văn hóa trong nhan đề tác phẩm văn
học không chỉ phụ thuộc vào khả năng ngôn ngữ
73KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
dịch thuật v
mà còn phụ thuộc vào cảm nhận, sự say mê sáng
tạo và trách nhiệm của những người làm nghề.
Có thể nói, dịch thích nghi là trình độ dịch cao
nhất, đòi hỏi kinh nghiệm xử lý văn bản, xử lý
ngôn ngữ và quan điểm của từng dịch giả về dịch
thuật. Ngay cả những bản dịch nhan đề được coi là
“đắt” đôi khi vẫn phải chấp nhận điều hòa giữa các
tiêu chí Tín, Đạt, Nhã, chấp nhận lược bớt một nét
nghĩa, lớp nghĩa mà ngôn từ trong nhan đề gốc biểu
đạt để ưu tiên cho nét nghĩa, lớp nghĩa hay thông
điệp chính mà tác giả (thậm chí cả dịch giả) muốn
truyền tải tới độc giả. Chẳng hạn: để tạo hiệu quả
nghệ thuật từ lối chơi chữ, trong bản dịch Miếng da
lừa (đã phân tích ở trên), dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh
đã lược đi nét nghĩa thứ ba về tính chất tự co lại của
miếng da. Cũng có khi dịch giả vừa lược bớt, vừa
bổ sung thông tin cho nhan đề như trường hợp bản
dịch Catherine cô bé đeo mắt kính (Hoàng Nhụy,
Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2016): Hoàng Nhụy đã
không vay mượn như nguyên gốc nhan đề tác phẩm
là Catherine Certitude mà chỉ giữ lại tên riêng của
nữ chính và bổ sung một đặc điểm nhận diện của cô
bé là “đeo mắt kính” để làm nổi bật nhân vật trong
hai thế giới đối lập: một thế giới hiện thực bụi bặm,
sắc cạnh khi em đeo kính và một thế giới yên bình,
trong trẻo khi em không đeo kính, nơi Catherine có
thể mặc sức khiêu vũ như trong một giấc mơ.
Như vậy, chúng tôi đã tập trung nghiên cứu một
số nhan đề tác phẩm văn học Pháp được các dịch
giả Việt Nam dịch sang tiếng Việt; thông qua đối
chiếu với văn bản gốc để nhận diện những thuận
lợi và khó khăn cơ bản cho công tác dịch thuật;
đối chiếu các bản dịch để tìm hiểu phương pháp,
kỹ thuật cũng như ý đồ của các dịch giả trong quá
trình xử lý các yếu tố ngôn ngữ, văn hóa và truyền
tải thông điệp của tác giả ứng với từng loại nhan
đề, từng tác phẩm cụ thể. Nếu có đưa ra nhận định
nào bị cho là “không thỏa mãn” không có nghĩa
là chúng tôi muốn áp đặt, phê phán hay hạ thấp
uy tín của một dịch giả nào đó, bởi lẽ bản thân
không phải là một dịch giả, đồng thời cũng hiểu
rất rõ rằng, trong dịch văn học luôn có chỗ cho sự
sáng tạo và không nhất thiết lúc nào chỉ có một
phương án dịch cho cùng một nhan đề tác phẩm.
Mong muốn lớn nhất của chúng tôi là được chia
sẻ một vài cảm nhận với tư cách là một độc giả,
một người nghiên cứu và giảng dạy tiếng Pháp; từ
đó rút ra một số kinh nghiệm cho bản thân và hy
vọng sẽ hữu ích cho các giảng viên tiếng Pháp nói
chung, giảng viên dạy bộ môn văn học Pháp nói
riêng cũng như các bạn học viên, sinh viên học
tiếng Pháp trong quá trình tiếp cận ngôn ngữ và
văn học Pháp.
4. KẾT LUẬN
Nhan đề là yếu tố không thể tách rời của một
tác phẩm văn học, là một yếu tố tiếp cận tác phẩm
đầu tiên, một tín hiệu nghệ thuật có vai trò định
hướng, hỗ trợ quá trình đọc hiểu của độc giả và
khơi gợi hứng thú cho độc giả. Quá trình tìm hiểu
một tác phẩm văn học nước ngoài nói chung, văn
học Pháp nói riêng, người đọc, người dịch thường
bắt đầu từ nhan đề tác phẩm để nắm bắt nội dung,
thông tin chính, song cũng có trường hợp phải kết
thúc câu chuyện mới giải mã được chính xác nội
hàm nhan đề tác phẩm. Trên thực tế, công đoạn
giải mã và chuyển dịch nhan đề tác phẩm văn học
từ tiếng Pháp sang tiếng Việt không phải lúc nào
cũng thuận lợi, đòi hỏi người dịch không chỉ có
kiến thức ngôn ngữ, kiến thức văn hóa mà còn
cần khả năng cảm thụ tác phẩm văn học, khả năng
sáng tạo cũng như khả năng vận dụng linh hoạt các
phương pháp dịch phù hợp với từng loại nhan đề,
từng thể loại và từng tác phẩm cụ thể.
Từ những minh chứng về các phương pháp
dịch nhan đề tác phẩm văn học Pháp sang tiếng
Việt nêu trên, chúng ta nhận thấy một điểm rõ
ràng: Trong cảm thụ và dịch nhan đề tác phẩm văn
học, luôn có chỗ cho những quy tắc và cả những
sự sáng tạo với điều kiện những sự sáng tạo đó
không đi chệch nội dung, thông điệp của tác phẩm
và chạm đến trái tim của độc giả. Một điều nữa mà
chúng tôi muốn nhấn mạnh, đó là bản dịch văn học
Pháp-Việt, trong đó có dịch nhan đề tác phẩm, có
thể mức độ Tín-Đạt-Nhã khác nhau song đều bắt
nguồn từ tình yêu dành cho hai ngôn ngữ, hai nền
văn hóa, hai nền văn học Pháp-Việt nên đều xứng
đáng để chúng ta nghiên cứu, học hỏi, bổ sung và
phát triển./.
74 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
v Dịch thuật
TITLES OF FRENCH LITERARY WORKS AND METHODS OF TRANSLATING THEM
INTO VIETNAMESE
NGUYEN THU HOA, VU ANH BA
Abstract: The title is an inseparable element of a literary work, helping readers access the work
quickly in different dimensions. The way that an author gives his literary work a title express his
proper creativity, intention and affection. In fact, the decoding and translation of literary titles in
general and of French literary titles in particular to the Vietnamese language seems simple but also
poses difficult problems for translators as well as linguistic researchers, even sometimes it can became
a controversial focus. This article presents the features of the literary titles, studying and sharing the
feelings of different methods of translating French literary titles into Vietnamese. Hopefully this
research will be useful for teachers of French in general, lecturers who teach French literature in
particular as well as cadets and students of French in the process of approaching French language
and literature.
Keywords: titles, literary works, translation, French, Vietnamese
Received: 22/3/2019; Revised: 09/4/2019; Accepted: 15/5/2019
Tài liệu tham khảo:
Trần Đình Hiến (2012), Bàn về dịch văn học, Hội thảo “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của văn học dịch hiện nay”
.
Nguyễn Như Ý (2008), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Đại học Quốc gia, TP. Hồ Chí Minh.
Coté M., & Xanthos N. (2008), Du titre littéraire et de ses effets de lecture, Portéeo3.
Eco U. (1985). Lector in fabula. Le rôle du traducteur ou la coopération interprétative dans les textes narratifs,
Grasset, Paris.
Eco U. (2007), Dire presque la même chose: Expérience de la traduction, Grasset, Paris.
Genette G. (1987), Seuils, Coll. “Poétique”, Paris.
Jean-Paul V., Darbelnet J. (1995), A methodology for translation, The Translation Studies Reader, Laurence Venuti.
Larousse Les Dictionnaires de français .
Mauffrey A., Cohen I. (1987), Hachette Le Dictionnaire pratique du français, Hachette, Paris.
Mounin G. (1963), Les problèmes théoriques de la traduction, Gallimard, Paris.
Nida E., Taber C. (1974), The Theory and Practice of Translation, Leiden: Koninklijke.
Tehrani F., Raissonssadati R. (2013), Traduction des titres littéraires, Recherches en langue et Littérature Françaises,
Revue de la Faculté des Lettres et Année 5, No 7.
Trouillez E., Le Fur D. (2007), Dictionnaire Le Robert plus, France Loisirs.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhan_de_tac_pham_van_hoc_phap_va_phuong_phap_chuyen_dich_sang_tieng_viet_3351_2171718.pdf