Tài liệu Nhân 72 trường hợp ung thư tế bào gai vùng đầu cổ có khảo sát biểu hiện EGFR, P16: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 6
NHÂN 72 TRƯỜNG HỢP UNG THƯ TẾ BÀO GAI VÙNG ĐẦU CỔ
CÓ KHẢO SÁT BIỂU HIỆN EGFR, P16
Trần Ngọc Tường Linh*, Hứa Thị Ngọc Hà*, Trần Minh Trường*
TÓM TẮT
Mở đầu: Ung thư tế bào gai vùng đầu cổ là một trong những ung thư thường gặp trên thế giới. Tiên lượng
bệnh phụ thuộc phần lớn vào giai đoạn ung thư khi phát hiện bệnh. Ngoài ra, những yếu tố khác có thể ảnh
hưởng đến tiên lượng bệnh gồm: yếu tố nguy cơ, mức độ mô học ung thư, và gần đây được bàn luận rộng rãi là
biểu hiện của EGFR và biểu hiện p16 (phản ánh tình trạng nhiễm HPV). Trong đó, biểu hiện EGFR càng cao thì
tiên lượng càng xấu, ngược lại, biểu hiện p16 dương tính lại là một yếu tố tiên lượng tốt.
Mục tiêu: Khảo sát các yếu tố nguy cơ chính, đặc điểm lâm sàng và giải phẫu bệnh của ung thư tế bào gai
vùng đầu cổ đồng thời xác định mối liên quan giữa các yếu tố trên với kết quả biểu hiện EGFR và p16.
Phư...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 345 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân 72 trường hợp ung thư tế bào gai vùng đầu cổ có khảo sát biểu hiện EGFR, P16, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 6
NHÂN 72 TRƯỜNG HỢP UNG THƯ TẾ BÀO GAI VÙNG ĐẦU CỔ
CÓ KHẢO SÁT BIỂU HIỆN EGFR, P16
Trần Ngọc Tường Linh*, Hứa Thị Ngọc Hà*, Trần Minh Trường*
TÓM TẮT
Mở đầu: Ung thư tế bào gai vùng đầu cổ là một trong những ung thư thường gặp trên thế giới. Tiên lượng
bệnh phụ thuộc phần lớn vào giai đoạn ung thư khi phát hiện bệnh. Ngoài ra, những yếu tố khác có thể ảnh
hưởng đến tiên lượng bệnh gồm: yếu tố nguy cơ, mức độ mô học ung thư, và gần đây được bàn luận rộng rãi là
biểu hiện của EGFR và biểu hiện p16 (phản ánh tình trạng nhiễm HPV). Trong đó, biểu hiện EGFR càng cao thì
tiên lượng càng xấu, ngược lại, biểu hiện p16 dương tính lại là một yếu tố tiên lượng tốt.
Mục tiêu: Khảo sát các yếu tố nguy cơ chính, đặc điểm lâm sàng và giải phẫu bệnh của ung thư tế bào gai
vùng đầu cổ đồng thời xác định mối liên quan giữa các yếu tố trên với kết quả biểu hiện EGFR và p16.
Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: mô tả cắt ngang. Đối tượng nghiên cứu gồm 72 trường hợp
carcinôm tế bào gai vùng đầu cổ được chẩn đoán và phẫu thuật tại khoa Tai Mũi Họng – Bệnh viện Chợ Rẫy và
Bệnh viện Đại học Y dược từ tháng 9/2014 đến tháng 5/2015.
Kết quả: Khảo sát riêng lẻ từng yếu tố nguy cơ, nhóm bệnh nhân có mức độ hút thuốc lá tích lũy trên 20 gói
– năm chiếm tỉ lệ nhiều nhất (76,39%), tỉ lệ bệnh nhân uống trên 50 đơn vị rượu – năm chiếm đa số (31,94%),
khoảng 68% bệnh nhân trong nghiên cứu chưa bao giờ quan hệ tình dục qua đường miệng, số bệnh nhân quan
hệ tình dục qua đường miệng trên 3 bạn tình chỉ chiếm 6,94%. Về đặc điểm lâm sàng, nhóm bệnh nhân ung thư
ở giai đoạn III và IVA (không có trường hợp IVB nào) chiếm tỉ lệ đa số 70,83%. Về đặc điểm giải phẫu bệnh, đa số
ung thư tế bào gai vùng đầu cổ có độ biệt hóa trung bình và cao (chiếm tỉ lệ lần lượt là 60% và 23%). Tỉ lệ biểu
hiện quá mức EGFR và tỉ lệ biểu hiện p16 dương tính lần lượt là 80,56% và 15,28%. Biểu hiện EGFR không liên
quan đến vị trí ung thư nhưng liên quan có ý nghĩa đến giai đoạn ung thư và độ biệt hóa của ung thư. Biểu hiện
p16 không liên quan tới tuổi, vị trí ung thư, giai đoạn và độ biệt hóa ung thư nhưng có liên quan đến thói quen
quan hệ tình dục bằng đường miệng.
Kết luận: hút thuốc lá và uống rượu nhiều vẫn chiếm tỉ lệ cao trong nhóm bệnh nhân nghiên cứu, đa số các
bệnh nhân đến khám khi bệnh đã tiến triển xa. Tỉ lệ biểu hiện quá mức EGFR trong nghiên cứu chiếm tỉ lệ cao, có
liên quan đến giai đoạn và độ biệt hóa ung thư. Trong khi tỉ lệ biểu hiện p16 chiếm tỉ lệ thấp, có liên quan đến thói
quen tình dục bằng đường miệng.
Từ khóa: carcinôm tế bào gai vùng đầu cổ, biểu hiện EGFR, biểu hiện p16.
ABSTRACT
THE STUDY OF SEVENTY TWO CASES OF HEAD AND NECK SQUAMOUS CELL CARCINOMA
ASSOCIATED WITH EGFR, P16 PROTEIN EXPRESSION
Tran Ngoc Tuong Linh, Hua Thi Ngoc Ha, Tran Minh Truong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 20 - Supplement of No 1 - 2016: 6 - 12
Background: Head and neck squamous cell carcinoma is one of the most frequent cancer in the world. Its
outcome depends most on the cancer stage. Besides, other factors that affect the outcome may include: risk factors,
histologic grade, and most recently, EGFR expression and p16 expression (indicates HPV-associated carcinoma).
While the intensity of EGFR expression, as assessed by immunohistochemistry, has been shown to indicate poor
* Đại học Y dược TPHCM
Tác giả liên lạc: ThS. Trần Ngọc Tường Linh ĐT: 0989047099 Email: tranngoctuonglinh@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Tai Mũi Họng 7
prognosis, p16- positive patients have significantly improved the outcome.
Objective:to study the main risk factors, clinical characteristic, histological result of head and neck
squamous cell carcinoma, to examine the relationship between these factors with EGFR protein overexpression
and p16 protein expression.
Methods: a cross- sectional study with 72 cases of head and neck squamous cell carcinoma diagnosed and
operated at ENT department of Cho Ray Hospital and University Medical Center HCMC from 9/2014 to 5/2015.
Results: in analysing the risk factors of HNSCC, the percentage of cases who smoke cigarette more than 20
pack – year is 76.39%, the percentage of patients who drink alcohol more than 50 alcohol unit – year is 31.94%,
approximately 68% of head and neck cancer in this study never experience oral sex, the percentage of patients who
have more than 3 oral sex partners is 6.94%. The rate of EGFR overexpression and p16- positive expression in
our study is 80.56% and 15.28% respectively. In multivariate analysis, no correlation was found between EGFR
expression and other characteristics such as age, tumor site but with tumor stage and tumor differentiation
significantly. Expression of p16 does not correlate with age, tumor site, tumor stage and tumor differentiation.
P16 expression correlates with oral sex behavior.
Conclusion: heavy cigarette smoking and heavy alcohol drinking are still frequent, most of the head and
neck cancer cases are locally advanced. The overexpression rate of EGFR is high in head and neck squamous cell
carcinoma and correlates with tumor stage and tumor differentiation. While the rate of p16- positive expression is
low and correlates with oral sex behavior.
Keywords: head and neck squamous cell carcinoma, EGFR, p16.
MỞ ĐẦU
Ung thư vùng đầu cổ là nhóm ung thư
thường gặp đứng thứ 6 trên tổng số các loại ung
thư, với khoảng 600 000 trường hợp được chẩn
đoán mỗi năm trên thế giới(9). Trên 85% các ung
thư ở vùng này là những ung thư biểu mô, đặc
biệt là ung thư tế bào gai (ung thư tế bào gai
vùng đầu cổ - head and neck squamous cell
carcinoma - HNSCC).
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh hút thuốc
lá và uống rượu là 2 yếu tố nguy cơ chính của
việc hình thành ung thư tế bào gai vùng đầu cổ.
Mặt khác, thói quen quan hệ tình dục qua đường
miệng cũng được ghi nhận làm tăng khả năng
hình thành ung thư vùng đầu cổ một cách có ý
nghĩa do liên quan đến virút gây u nhú ở người
(human papilloma virus – HPV), đặc biệt là ung
thư vùng họng miệng.
Tình trạng nhiễm HPV đã được chứng minh
là một trong những yếu tố nguy cơ độc lập gây
ra HNSCC, bên cạnh hút thuốc lá và uống rượu
bia. Một phát hiện thú vị trong những năm qua
là, những bệnh nhân HPV (+) có tiên lượng tốt so
với nhóm bệnh nhân HPV (-)(3). Có nhiều cách để
đánh giá tình trạng nhiễm HPV, trong đó đánh
giá biểu hiện của p16 qua hóa mô miễn dịch đã
được chứng minh là một xét nghiệm đáng tin
cậy và có phần ưu thế hơn khi so sánh với các
phương pháp khác (như PCR, miễn dịch huỳnh
quang) để xác định tình trạng nhiễm HPV.(11)
Những ưu điểm của đánh giá biểu hiện p16 bao
gồm: độ nhạy cao, liên quan đến con đường
HPV gây ung thư và kỹ thuật thực hiện không
quá phức tạp.
Thụ thể yếu tố tăng trưởng thượng bì
(EGFR) là một mắt xích quan trọng trong chuỗi
con đường tín hiệu hình thành và phát triển ung
thư tế bào gai vùng đầu cổ. Hoạt hóa quá mức
EGFR sẽ dẫn đến rối loạn tăng sinh tế bào, tăng
sinh mạch máu, tăng sự xâm nhập và di căn của
khối u. Về phương diện điều trị, xuất hiện các
phương pháp điều trị nhắm trúng đích vào con
đường hoạt hóa EGFR. Do sự tác động có chọn
lọc, các thuốc này cũng giảm các tác dụng phụ
mà thuốc hóa trị thường gặp. Về phương diện
tiên lượng, biểu hiện quá mức EGFR là một yếu
tố tiên lượng xấu đến tỉ lệ sống còn chung, tỉ lệ
tái tái phát tại chỗ và tỉ lệ di căn xa(2).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 8
Như vậy, việc nghiên cứu biểu hiện của
EGFR và tình trạng nhiễm HPV (qua đánh giá
biểu hiện p16) rõ ràng đem lại những thông tin
hữu ích cho thầy thuốc cũng như bệnh nhân
trên cả 2 phương diện tiên lượng cũng như
điều trị. Giá trị tiên lượng dự hậu bệnh nhân
qua biểu hiện p16 và biểu hiện EGFR đặt ra
vấn đề cho các nhà ung thư học lựa chọn các
phác đồ điều trị phù hợp cho từng nhóm bệnh
nhân. Nhóm bệnh nhân được đánh giá tiên
lượng xấu có thể sẽ được điều trị với phác đồ
điều trị tích cực hơn(4).
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
72 bệnh nhân được chẩn đoán carcinoma tế
bào gai vùng đầu cổ (khoang miệng, họng
miệng, hạ họng, thanh quản) nhập khoa và
được phẫu thuật tại khoa Tai Mũi Họng –
Bệnh Viện Chợ Rẫy và Bệnh viện Đại học Y
Dược từ tháng 9/2014- 5/2015.
Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang mô tả
Các bước tiến hành
Những bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu
sẽ được ghi nhận phần hành chánh, yếu tố nguy
cơ, triệu chứng lâm sàng, phân độ TNM, kết quả
cận lâm sàng, kết quả giải phẫu bệnh.
Đánh giá các yếu tố nguy cơ gây ung thư tế
bào gai vùng đầu cổ:
Hút thuốc lá: đo lường mức độ theo số gói –
năm.
Uống rượu: đo lường mức độ theo đơn vị
rượu – năm với 1 đơn vị rượu = 250 ml bia nồng
độ 5% = 30 ml rượu nồng độ 40% = 10 gram cồn
nguyên chất (theo Tổ chức y tế thế giới).
Sinh hoạt tình dục qua đường miệng: đánh
giá qua số lượng bạn tình sinh hoạt qua đường
miệng, thông tin được thu thập qua phỏng vấn
kín.
Các mẫu bệnh phẩm sau phẫu thuật của
bệnh nhân sẽ được cố định bằng formol đệm
trung tính 10% trong vòng 30 phút từ lúc lấy
mẫu ra khỏi cơ thể. Bệnh phẩm sẽ được cố định
trong 6–48 giờ.
Đọc kết quả trên tiêu bản nhuộm
Hematoxyline eosine:
Loại mô học: carcinoma tế bào gai
Độ mô học: biệt hóa cao, biệt hóa trung bình,
biệt hóa kém.
Đánh giá mức độ xâm lấn của khối u.
Khảo sát kết quả nhuộm hóa mô miễn dịch
EGFR, p16 dưới kính hiển vi quang học cùng với
bác sĩ Giải phẫu bệnh có kinh nghiệm về hóa mô
miễn dịch.
Cách đánh giá biểu hiện EGFR trên
carcinoma tế bào gai vùng đầu cổ.
Sử dụng hệ thống đánh giá biểu hiện của
EGFR dựa vào tỉ lệ tế bào bắt màu màng bào
tương và cường độ bắt màu màng bào tương(12).
Cường độ bắt màu màng bào tương: 0 điểm
4 điểm (không bắt màu bắt màu rất đậm).
Tỉ lệ tế bào bắt màu màng bào tương: 0 3
điểm ( theo các khoảng 10% - 50% - 80%- 100%).
Mức độ biểu hiện của EGFR sẽ được đánh
giá bởi tích điểm của 2 thông số trên, trên
thang điểm từ 0 đến 12: biểu hiện thấp (0 – 3
điểm), biểu hiện cao hay biểu hiện quá mức (4
– 12 điểm).
Cách đánh giá biểu hiện p16 trên carcinoma
tế bào gai vùng đầu cổ.
Đánh giá bán định lượng dựa vào cường
độ bắt màu và tỉ lệ tế bào bắt màu nhân và bào
tương(12).
Cường độ bắt màu nhân và bào tương: từ 0
3 điểm ( không bắt màu bắt màu đậm.
Tỉ lệ tế bào bắt màu nhân và bào tương: từ
0 3 điểm ( theo các khoảng 10% - 50% - 80%
- 100%).
Biểu hiện của p16 sẽ được đánh giá dựa trên
tích điểm 2 thông số trên: âm tính ( < 3 điểm),
dương tính (≥ 4 điểm).
Xử lý số liệu: số liệu trong các phiếu thu thập
được tổng hợp, phân tích và xử lý bằng phần
mềm Stata 10.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Tai Mũi Họng 9
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
Về các yếu tố nguy cơ
Mức độ hút thuốc lá
Nghiên cứu chúng tôi ghi nhận chỉ có 5 bệnh
nhân không hút thuốc lá (6,94%), và tất cả nhóm
này đều là bệnh nhân nữ. 100% bệnh nhân nam
có hút thuốc lá. Nhóm bệnh nhân có mức độ hút
thuốc lá tích lũy trên 20 gói – năm chiếm tỉ lệ
(76,39%). Tỉ lệ này cao hơn hẳn so với nghiên
cứu đa trung tâm đánh giá nguy cơ của thuốc lá
và rượu trong ung thư đầu cổ của Mia Hashibe
và cộng sự (2007) (30%)(8).
Bảng 1: Mức độ hút thuốc lá
Mức độ hút thuốc
lá tích lũy
(gói- năm)
Chúng tôi, 2015
Mia Hashibe và cs.,
2007
N = 72 % N = 1574 %
Chưa bao giờ hút 5 6,94% 854 54,25%
0-20 gói - năm 17 23,61% 247 15,69%
20- 40 gói - năm 40 55,56% 200 12,7%
> 40 gói - năm 15 20,83% 263 16,7%
Mức độ uống rượu
Bảng 2: Mức độ uống rượu
Mức độ uống rượu tích lũy
(đơn vị rượu/ ngày x số năm uống)
N=72 %
Chưa bao giờ uống 10 13,89%
<10 13 18,06%
11-30 17 23,61%
31-50 9 12,5%
>50 23 31,94%
Nghiên cứu của nhóm Mai Hashibe và cs.(8)
nhằm đánh giá nguy cơ của rượu trong việc
hình thành ung thư đầu cổ ghi nhận chỉ nhóm
bệnh nhân có số rượu uống tích lũy > 50 đơn vị
rượu – năm có thể làm tăng nguy cơ bị ung thư
đầu cổ một cách có ý nghĩa (OR = 1,87 với 95%
độ tin cậy từ 1,27 đến 2,75). Tỉ lệ uống rượu tích
lũy >50 đơn vị rượu - năm qua thu thập được
trong nghiên cứu chúng tôi (31,94%) cao so với
nghiên cứu đa trung tâm của Mai Hashibe và cs.
(16,82% ). Điều này cho thấy cùng với hút thuốc
lá, uống rượu cũng là một yếu tố nguy cơ quan
trọng trong việc hình thành ung thư ở nhóm
bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi.
Thói quen sinh hoạt tình dục qua đường miệng
Bảng 3: Số lượng bạn tình qua đường miệng
Số lượng bạn tình qua
đường miệng
0 1-2 ≥3
Khoang miệng 6 5 2
Họng miệng 4 2 1
Hạ họng 5 2 0
Thanh quản 34 9 2
HNSCC xét chung 49
(68,06%)
18
(25%)
5
(6,94%)
68,06% bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu
chưa bao giờ quan hệ tình dục qua đường
miệng. Số bệnh nhân quan hệ tình dục qua
đường miệng trên 3 bạn tình chỉ chiếm 6,94%. Số
liệu này phản ánh việc quan hệ tình dục qua
đường miệng không phải là thói quen phổ biến
trong sinh hoạt tình dục ở nhóm bệnh nhân
nghiên cứu và điều này có thể dự đoán rằng
quan hệ tình dục qua đường miệng không phải
là 1 yếu tố nguy cơ ảnh hưởng có ý nghĩa đến
việc gây ra khối ung thư trong nhóm bệnh nhân
nghiên cứu này.
Về giai đoạn và đặc điểm mô học của ung thư
Giai đoạn ung thư
Bảng 4: Giai đoạn ung thư
Giai đoạn
ung thư
I II III IVA
Khoang miệng
(n= 13)
1
(7,69%)
8
(61,53%)
3
(23,07%)
1
(7,69%)
Họng miệng
(n= 7)
1
(14,28%)
1
(14,28%)
4
(57,14%)
1
(14,28%)
Hạ họng (n=7) 0 0
2
(28,57%)
5
(71,42%)
Thanh quản
(n=45)
6
(13,33%)
4 (8,89%)
26
(57,77%)
9 (20%)
Tổng (n=72)
8
(11,11%)
13
(18,06%)
35
(48,61%)
16
(22,22%)
Trong nghiên cứu này, 100% nhóm bệnh
nhân ung thư vùng hạ họng đến khám khi khối
ung thư đã ở giai đoạn tiến triển xa (III hoặc
IVA). Ghi nhận này cũng tương tự như trong các
y văn trong nước và quốc tế, ung thư vùng hạ
họng thường có triệu chứng âm thầm và bệnh
nhân đến khám lúc khối ung thư đã phát triển.
Bên cạnh đó, do vị trí nằm sâu nên các bác sĩ có
thể bỏ sót vùng này khi khám và lầm lẫn triệu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 10
chứng rối loạn nuốt do ung thư với các triệu
chứng rối loạn chức năng khác của cơ thể.
Nhìn chung, các bệnh nhân đến khám vẫn
còn ở giai đoạn muộn (giai đoạn III và IV
chiếm 70,83%), kết quả nghiên cứu cho thấy
việc phổ biến người dân tầm soát các bệnh lý
ung thư vùng đầu cổ còn cần được tuyên
truyền rộng rãi hơn.
Về đặc điềm mô học
Đa số ung thư tế bào gai vùng đầu cổ có độ
biệt hóa trung bình và cao (chiếm tỉ lệ lần lượt là
60% và 23%), độ biệt hóa kém chiếm tỉ lệ thấp
nhất (17%). Điều này phù hợp với y văn trong
nước và quốc tế, nghiên cứu của Eriksen và cs
trên 336 trường hợp ghi nhận các trường hợp có
độ biệt hóa trung bình-cao chiếm đa số với 63%
các trường hợp(6).
Về biểu hiện EGFR
Qua 72 trường hợp được khảo sát, tỉ lệ biểu
hiện quá mức EGFR là 80,56%.
Bảng 5: Liên quan giữa biểu hiện EGFR và các
đặc tính được khảo sát
Đặc điểm Biểu hiện
EGFR thấp
Biểu hiện quá
mức EGFR
p
Giới
Nam 18% 75%
0,6
Nữ 1,4% 5,6%
Tuổi
<50 tuổi 5,6% 15,3%
0,33 50 – 59 tuổi 6,9% 19,4%
≥ 60 tuổi 6,9% 45,8%
Vị trí ung
thư
Khoang
miệng
2,8% 15.3%
0,059 Họng miệng 2,8% 6.9%
Hạ họng 5,6% 4,2%
Thanh quản 8,3% 54,2%
Giai đoạn
ung thư
I 0% 11,11%
0,045
II 2,78% 15,28%
III 6,94% 41,67%
IV 9,72% 12,5%
Độ biệt
hóa
Kém 8,3% 8,3%
0,017 Trung bình 6,9% 52,8%
Cao 4,2% 19,4%
Bảng trên cho thấy mức độ biểu hiện của
EGFR không khác biệt theo tuổi, giới, vị trí ung
thư. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa mức
độ biểu hiện EGFR và giai đoạn ung thư cũng
như độ biệt hóa ung thư.
Sử dụng bảng điểm đánh giá biểu hiện
EGFR dựa trên độ bắt màu của tế bào và diện
tích quang trường có tế bào bắt màu màng bào
tương dùng trong nghiên cứu của Young và
cộng sự(12), chúng tôi ghi nhận có 80,56% trường
hợp có biểu hiện EGFR quá mức. Kết quả này
cũng phù hợp với các nghiên cứu của các tác giả
khác với tỉ lệ EGFR biểu hiện quá mức dao động
trong khoảng từ 60-80%(4,7,12).
Khi phân tích mối liên quan giữa biểu hiện
EGFR và giai đoạn ung thư, chúng tôi ghi nhận
có sự khác biệt có ý nghĩa giữa biểu hiện EGFR
và giai đoạn ung thư (p = 0,045 < 0,05). Sự khác
biệt này cũng được ghi nhận trong nghiên cứu
của Eriksen và cộng sự.(7) Tương tự, chúng tôi
cũng ghi nhận mức độ biểu hiện EGFR và mức
độ biệt hóa của ung thư có liên quan một cách có
ý nghĩa thống kê (p = 0,017). So sánh với nghiên
cứu của 2 nhóm tác giả Eriksen(7) và Bentzen(4), 2
nghiên cứu đều nhận định mức độ biệt hóa càng
cao thì mức độ biểu hiện của EGFR càng cao (p
<0,01). Giải thích điều này, các tác giả ghi nhận
rằng mức độ biểu hiện EGFR cao cũng như mức
độ biệt hóa cao đều có liên quan đến tỉ lệ tái lập
tế bào ung thư khi xạ trị (repopulation rate) và
đều có tương quan với sự thành công của
phương pháp xạ trị tăng tốc phân liều liên tục
(continuous hyperfractionated accelerated
radiotherapy-CHART).
Từ sự tương quan giữa mức độ biểu hiện
EGFR với độ biệt hóa cũng như từ sự thành công
của ứng dụng phương pháp xạ trị tăng cường ở
nhóm biểu hiện EGFR cao và độ biệt hóa cao, các
tác giả đã đồng ý ghi nhận rằng mức độ biểu
hiện EGFR và độ biệt hóa của ung thư là 2 dấu
ấn sinh học có giá trị trong việc tiên lượng đáp
ứng của bệnh nhân khi ứng dụng phương pháp
xạ trị tăng tốc phân liều liên tục(4,7).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Tai Mũi Họng 11
Về biểu hiện p16
Tỉ lệ bệnh nhân có biểu hiện p16 trong
nghiên cứu là 15,28%.
Bảng 7: Liên quan giữa biểu hiện p16 và các đặc
tính được khảo sát
Đặc điểm p16 (-) p16 (+) p
Giới
Nam 79,2% 13,9%
0,575
Nữ 5,6% 1,4%
Tuổi
<50 tuổi 16,7% 4,2%
0,506 50 – 59 tuổi 20,8% 5,6%
≥ 60 tuổi 47,2% 5,6%
Vị trí ung thư
Khoang miệng 13,9% 4,2%
0,383
Họng miệng 6,9% 2,8%
Hạ họng 9,7% 0,0%
Thanh quản 54,2% 8,3%
Giai đoạn ung thư
I 6,9% 4,2%
0,332
II 15,3% 2,8%
III 43,1% 5,6%
IV 19,4% 2,8%
Độ biệt hóa
Kém 12,5% 4,2%
0,173 Trung bình 54,2% 5,6%
Cao 18,1% 5,6%
Số lượng bạn tình
qua đường âm đạo
1 37,5% 9,7%
0,22 2-5 37,5% 2,8%
≥ 6 9,7% 2,8%
Số lượng bạn tình
qua đường miệng
0 62,5% 5,6%
0,027 1-2 18,1% 6.9%
3-5 4,2% 2,8%
Biểu hiện EGFR
Biểu hiện EGFR
thấp
13,9% 5,6%
0,207
Biểu hiện quá
mức EGFR
70,8% 9,7%
Bảng trên cho thấy biểu hiện p16 không
khác biệt theo tuổi, giới, vị trí ung thư, giai
đoạn ung thư, độ biệt hóa của ung thư, số
lượng bạn tình qua đường âm đạo cũng như
mức độ biểu hiện của EGFR. Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê giữa biểu hiện 16 và số lượng
bạn tình qua đường miệng.
Nhóm bệnh nhân có biểu hiện p16 (+)
chiếm 15,28%. Số liệu thu thập được cho thấy
tỉ lệ biểu hiện p16 ở bệnh nhân ung thư vùng
đầu cổ chúng tôi thấp hơn hẳn so với các báo
cáo ở quốc tế.
Bảng 8: Biểu hiện p16 qua các nghiên cứu
Nghiên cứu n Tỉ lệ p16 (+) Nơi thực hiện
Chúng tôi, 2015 72 15,28% Việt Nam
Young và cộng sự,
2011
(12)
212 57% Úc
Lassen và cộng sự,
2010
(10)
331 25% Đan Mạch
Ở Việt Nam, hiện chưa có nghiên cứu nào
khảo sát về biểu hiện của p16 ở ung thư vùng
đầu cổ. Tuy nhiên, nghiên cứu của tác giả Lê
Thanh Lâm về tỷ lệ nhiễm HPV trong ung thư
vùng đầu cổ bằng phương pháp PCR ( tại Bệnh
Viện Chợ Rẫy năm 2011) ghi nhận chỉ có 8,5% số
trường hợp có PCR HPV (+)(1). Từ kết quả nghiên
cứu của chúng tôi và tác giả Lê Thanh Lâm, có
thể nhận thấy rằng tỉ lệ ung thư vùng đầu cổ có
nhiễm HPV tại nơi chúng tôi thực hiện nghiên
cứu (thông qua khảo sát hóa mô miễn dịch p16
hoặc PCR HPV) là không cao.
Nhằm giải thích cho nhận định này, chúng
tôi nhận thấy thói quen tình dục bằng đường
miệng, yếu tố liên quan rất có ý nghĩa đến tình
trạng nhiễm HPV ở ung thư vùng đầu cổ, không
phổ biến trong những bệnh nhân chúng tôi
nghiên cứu. Với 68% các trường hợp trong
nghiên cứu, bệnh nhân chưa bao giờ thực hiện
quan hệ tình dục bằng đường miệng và chỉ có
6,94% số bệnh nhân có số lượng quan hệ tình
dục bằng đường miệng trên 3 người. Nhằm để
so sánh, số lượng bệnh nhân đã từng quan hệ
bằng đường miệng ở nghiên cứu của Souza và
cộng sự(5) (tại bệnh viện Johns Hopkins năm
2007) là 88%, trong đó số lượng bệnh nhân có
trên 5 bạn tình qua đường miệng là 42%.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu trên 72 trường hợp ung thư
tế bào gai vùng đầu cổ được chẩn đoán và điều
trị tại Bệnh Viện Chợ Rẫy và Bệnh Viện Đại Học
Y Dược từ tháng 9/2014 đến tháng 5/2015, chúng
tôi rút ra một số kết luận sau.
Về các yếu tố nguy cơ có thể gây ung thư tế
bào gai vùng đầu cổ được khảo sát trong
nghiên cứu
Đa số các bệnh nhân đều hút thuốc lá và
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 12
uống rượu nhiều (hút thuốc lá > 20 gói –năm
chiếm 76%, uống rượu trên 50 đơn vị rượu –
năm chiếm 31,94%). Đây cũng có thể là 2 yếu tố
nguy cơ gây bệnh chủ yếu trong nhóm bệnh
nhân chúng tôi nghiên cứu.
Quan hệ tình dục qua đường miệng không
phổ biến trong nhóm bệnh nhân nghiên cứu
(68,06% trường hợp chưa từng quan hệ tình dục
qua đường miệng).
Về giai đoạn bệnh và đặc điểm mô học của
ung thư tế bào gai đầu cổ
Đa số các bệnh nhân ung thư tế bào gai vùng
đầu cổ đến khám ở giai đoạn muộn III-IV
(70,83%%).
Độ biệt hóa trung bình chiếm chủ yếu trong
ung thư tế bào gai vùng đầu cổ (60%).
Về tỉ lệ biểu hiện quá mức EGFR
Biểu hiện quá mức EGFR chiếm tỉ lệ cao
(80,56%).
Biểu hiện EGFR không liên quan đến vị trí
ung thư nhưng liên quan có ý nghĩa đến giai
đoạn ung thư và độ biệt hóa của ung thư.
Về tỉ lệ biểu hiện p16
Biểu hiện p16 (+) chiếm tỉ lệ thấp 15,28%.
Biểu hiện p16 không liên quan tới tuổi, vị trí
ung thư, giai đoạn và độ biệt hóa ung thư. Biểu
hiện p16 có liên quan đến thói quen quan hệ tình
dục bằng đường miệng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ang KK, et al (2002), "Impact of epidermal growth factor
receptor expression on survival and pattern of relapse in
patients with advanced head and neck carcinoma", Cancer
Res, 62(24), 7350-6.
2. Ang KK, et al (2010), "Human papillomavirus and survival of
patients with oropharyngeal cancer", N Engl J Med, 363(1), 24-
35.
3. Bentzen SM, et al (2005), "Epidermal growth factor receptor
expression in pretreatment biopsies from head and neck
squamous cell carcinoma as a predictive factor for a benefit
from accelerated radiation therapy in a randomized
controlled trial", J Clin Oncol, 23(24), 5560-7.
4. D'Souza G, et al (2007), "Case-control study of human
papillomavirus and oropharyngeal cancer", N Engl J Med,
356(19), 1944-56.
5. Eriksen JG, et al (2004), "The prognostic value of epidermal
growth factor receptor is related to tumor differentiation and
the overall treatment time of radiotherapy in squamous cell
carcinomas of the head and neck", Int J Radiat Oncol Biol Phys,
58(2), 561-6.
6. Eriksen JG, et al (2005), "The influence of epidermal growth
factor receptor and tumor differentiation on the response to
accelerated radiotherapy of squamous cell carcinomas of the
head and neck in the randomized DAHANCA 6 and 7
study", Radiother Oncol, 74(2), 93-100.
7. Hashibe M, et al (2007), "Alcohol drinking in never users of
tobacco, cigarette smoking in never drinkers, and the risk of
head and neck cancer: pooled analysis in the International
Head and Neck Cancer Epidemiology Consortium", J Natl
Cancer Inst, 99(10), 777-89
8. Jemal A. et al (2011), "Global cancer statistics", CA Cancer J
Clin, 61(2), 69-90.
9. Lassen P, et al (2010), "HPV-associated p16-expression and
response to hypoxic modification of radiotherapy in head and
neck cancer", Radiother Oncol, 94(1), 30-5
10. Lê Thanh Lâm và Nguyễn Thị Ngọc Dung (2011), Xác định týp
HPV trong các tổn thương ung thư vùng mũi họng, Luận văn tốt
nghiệp Bác sĩ Nội trú, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, Hồ
Chí Minh.
11. Robinson M, Sloan P, and Shaw R (2010), "Refining the
diagnosis of oropharyngeal squamous cell carcinoma using
human papillomavirus testing", Oral Oncol, 46(7), 492-6
12. Young RJ, et al (2011), "Relationship between epidermal
growth factor receptor status, p16(INK4A), and outcome in
head and neck squamous cell carcinoma", Cancer Epidemiol
Biomarkers Prev, 20(6), 1230-7.
Ngày nhận bài báo: 20/11/2015
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 29/11/2015
Ngày bài báo được đăng: 10/2/2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhan_72_truong_hop_ung_thu_te_bao_gai_vung_dau_co_co_khao_sa.pdf