Tài liệu Nguyên tắc và kỹ xảo trong hoạt động dạy học chữ Hán - Bùi Huy Cường: 46 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chữ Hán là ký hiệu ngôn ngữ của tiếng Hán,
là loại chữ trải qua tiến trình phát triển lâu đời,
với các dấu mốc là các kiểu chữ Giáp cốt - Kim -
Triện - Lệ - Khải - Thảo - Hành. Về mặt kết cấu
chỉnh thể, chữ Hán là sự kết hợp giữa ba yếu tố
hình - âm - nghĩa, tức là mỗi chữ Hán đều có mối
liên hệ giữa âm đọc, hình dạng và ý nghĩa. Đặc
điểm này khác biệt với loại chữ biểu âm như chữ
phiên âm Latinh. Do vậy, hoạt động dạy học chữ
Hán cũng mang những đặc trưng riêng và cần tuân
thủ các nguyên tắc, vận dụng các phương pháp, kỹ
xảo mang tính đặc thù. Những nguyên tắc, phương
pháp và kỹ xảo này có sự khác biệt so với dạy học
các loại ngôn ngữ văn tự khác trên thế giới.
2. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC DẠY HỌC
CHỮ HÁN
2.1. Nguyên tắc “dễ trước khó sau”
Phần lớn các học giả Hán tự của Trung Quốc
đều có chung quan điểm về tính tuần tự “dễ trước
BÙI HUY CƯỜNG*
*Học viện Khoa học Quân sự,...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 584 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyên tắc và kỹ xảo trong hoạt động dạy học chữ Hán - Bùi Huy Cường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
46 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chữ Hán là ký hiệu ngôn ngữ của tiếng Hán,
là loại chữ trải qua tiến trình phát triển lâu đời,
với các dấu mốc là các kiểu chữ Giáp cốt - Kim -
Triện - Lệ - Khải - Thảo - Hành. Về mặt kết cấu
chỉnh thể, chữ Hán là sự kết hợp giữa ba yếu tố
hình - âm - nghĩa, tức là mỗi chữ Hán đều có mối
liên hệ giữa âm đọc, hình dạng và ý nghĩa. Đặc
điểm này khác biệt với loại chữ biểu âm như chữ
phiên âm Latinh. Do vậy, hoạt động dạy học chữ
Hán cũng mang những đặc trưng riêng và cần tuân
thủ các nguyên tắc, vận dụng các phương pháp, kỹ
xảo mang tính đặc thù. Những nguyên tắc, phương
pháp và kỹ xảo này có sự khác biệt so với dạy học
các loại ngôn ngữ văn tự khác trên thế giới.
2. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC DẠY HỌC
CHỮ HÁN
2.1. Nguyên tắc “dễ trước khó sau”
Phần lớn các học giả Hán tự của Trung Quốc
đều có chung quan điểm về tính tuần tự “dễ trước
BÙI HUY CƯỜNG*
*Học viện Khoa học Quân sự, huiqiang1985@gmail.com
Ngày nhận bài: 16/12/2018; ngày sửa chữa: 17/01/2019; ngày duyệt đăng: 25/02/2019
NGUYÊN TẮC VÀ KỸ XẢO
TRONG HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CHỮ HÁN
TÓM TẮT
Chữ Hán là đơn vị cơ bản trong kết cấu ngôn ngữ văn tự tiếng Hán. Học chữ Hán ngoài việc phải
nhớ âm, nhớ nghĩa còn phải nhớ cả mặt chữ. Nếu người học không nhớ được mặt chữ sẽ không
đọc được, không viết được và không biên dịch được. Do vậy, hoạt động dạy học chữ Hán ở giai
đoạn sơ cấp có ý nghĩa then chốt, hiệu quả của nó quyết định lớn đến năng lực thực hành tiếng
Hán tổng hợp của người học ở các giai đoạn tiếp theo. Bài viết chỉ ra và phân tích một số nguyên
tắc, kỹ xảo cơ bản trong hoạt động dạy học chữ Hán, hy vọng có thể bổ sung thêm một số kiến
giải hữu ích cho vấn đề nghiên cứu quan trọng này.
Từ khóa: chữ Hán, dạy học, kỹ xảo, nguyên tắc
khó sau” trong dạy viết chữ Hán, ví dụ Ngô Thế
Hùng (吴世雄, 1998) cho rằng, dạy học chữ Hán
cần phải tiến hành từ dễ đến khó, từ đơn giản đến
phức tạp. Về vấn đề dạy bộ kiện trước hay chữ
chỉnh thể trước, dạy chữ độc thể trước hay chữ hợp
thể trước, có hai quan điểm khác nhau. Tô Anh Hà
(苏英霞, 2015) cho rằng, sau khi nắm vững các
nét chữ người học mới có thể viết được chữ Hán,
đồng thời chỉ ra rằng, bộ kiện nên được dạy viết
trước chữ hoàn chỉnh, chữ độc thể nên được dạy
viết trước chữ hợp thể. Châu Kiện (周健, 2010) lại
cho rằng, trong hoạt động dạy học chữ Hán có lúc
đi từ bộ phận đến chỉnh thể, có lúc đi từ chỉnh thể
đến bộ phận, bởi nghiên cứu tâm lý học đã chứng
minh rằng, con người tri nhận sự vật ở thế giới bên
ngoài, vừa đi từ bộ phận đến chỉnh thể, cũng có cả
từ chỉnh thể đến bộ phận.
Theo chúng tôi, dạy học chữ Hán cần tiến hành
theo nguyên tắc “dễ trước khó sau”, tuy nhiên việc
thực hiện nguyên tắc này cũng cần có sự linh hoạt.
Dạy học chữ Hán không nên cứng nhắc đi từ bộ
kiện đến chỉnh thể, từ chữ độc thể đến chữ hợp thể,
47KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
từ chữ ít nét đến chữ nhiều nét. Điều này có nghĩa
là chúng ta có thể đi từ chỉnh thể đến bộ phận ở
mức độ phù hợp. Dạy chữ nào trước, chữ nào sau
còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, có lúc không
còn phụ thuộc vào số nét của chữ, cũng như độ khó
trong viết và nhớ chữ, mà phụ thuộc vào tính thực
dụng, tần suất sử dụng của chữ đó cao hay thấp,
độ khó trong sử dụng của chữ đó như thế nào,...
Dạy học chữ Hán không đơn thuần chỉ là viết và
nhớ chữ, mà cần kết hợp với dạy học các kiến thức
về ngữ âm, từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ pháp. Ví dụ,
chữ “我” (tôi) tạo bởi 7 nét bút, chữ “了” (rồi) tạo
bởi 2 nét bút, nhưng chữ “我” được dạy sớm hơn
chữ “了” . Bởi lẽ “我” là đại từ nhân xưng, có tính
thực dụng và tần suất sử dụng cao. Chữ “了” mặc
dù ít nét hơn, dễ viết hơn, nhưng là trợ từ, cách sử
dụng tương đối phức tạp. Trọng điểm dạy học chữ
“了” không còn ở phương diện cách viết mà là ở
phương diện ngữ pháp, cho nên chữ Hán này sẽ
phải bố trí ở các bài về sau.
Đơn vị tạo chữ nhỏ nhất là nét, nét cấu thành
bộ, bộ cấu thành chữ, do vậy muốn học tốt chữ
Hán người học cần phải cần mẫn từ những nét bút
đầu tiên. Nét chữ Hán có thể chia thành 2 nhóm, đó
là nhóm nét cơ bản và nhóm nét phái sinh. Nhóm
nét cơ bản gồm 6 nét, đó là: ngang (一), sổ (丨),
phẩy (丿), chấm (丶), mác (㇏), hất (㇀). Nhóm
nét phái sinh gồm 25 nét, được hình thành trên cơ
sở 6 nét cơ bản. Các nét phái sinh thông dụng như:
ngang gập (𠃍), ngang móc (乛), ngang phẩy (フ),
ngang uốn móc (𠃌), sổ gập (𠃊), sổ móc (亅), sổ
hất (𠄌), phẩy chấm (𡿨), phẩy gập (𠃋). Việc nhớ
tên 6 nét cơ bản và một số nét phái sinh thông dụng
là điều bắt buộc đối với người học. Đối với việc
rèn luyện nét chữ, giảng viên cần hướng dẫn cho
học viên về cách cầm bút và động tác viết, khi nào
nhấn bút, khi nào nâng bút để tạo nét đậm và nét
mảnh khác nhau.
Nét là đơn vị cơ bản nhất, nét cấu thành bộ,
bộ cấu thành chữ Hán. Việc phân tích, giảng giải
ý nghĩa các bộ thủ cũng là nội dung hết sức quan
trọng trong dạy học chữ Hán. Hệ thống chữ Hán có
214 bộ thủ, giảng viên không nhất thiết phải giảng
giải ý nghĩa của tất cả 214 bộ thủ này, nhưng cần
phải giới thiệu cho học viên cách viết và ý nghĩa
của các bộ thủ cơ bản, thường gặp, như: “十”
(thập), “亻” (nhân), “八” (bát ), “力” (lực), “讠”
(ngôn), “又” (hựu) , “氵” (chấm thuỷ), “口” (khẩu),
“土” (thổ), “女” (nữ), “山” (sơn), “大” (đại), “扌”
(thủ) , “忄” (tâm đứng), “马” (mã), “心” (tâm) ,
“日” (nhật ), “曰” (viết), “月” (nguyệt), “木” (mộc),
“车” (xa), “火” (hoả), “贝” (bối), “目” (mục), “田”
(điền ), “禾” (hoà), “白” (bạch), “立” (lập), “米”
(mễ). Chúng tôi cho rằng, trong hoạt động dạy học
chữ Hán, giảng viên không những phải phân tích
kết cấu của chữ, mà còn phải phân tích ý nghĩa của
các bộ thủ hoặc bộ kiện tham gia cấu thành chữ
Hán đó. Từ đó giúp học viên hình thành ý thức tìm
hiểu, khám phá nội hàm ẩn chứa bên trong mỗi bộ
thủ, mỗi con chữ, hình thành ý thức nhớ chữ, học
chữ theo bộ thủ.
2.2. Chú trọng thuần thục quy tắc bút thuận
Khi viết những chữ Hán có từ hai nét trở lên,
thông thường đều phải tuân thủ theo các quy tắc
bút thuận, tức là phải tuân thủ nét nào trình bày
trước, nét nào trình bày sau, không được tùy tiện
đảo lộn thứ tự các nét. Quy tắc chính tả chữ Hán
(thường gọi là quy tắc bút thuận) bao gồm 7 quy
tắc như sau: phẩy trước mác sau (VD: 人, 八, 入);
ngang trước sổ sau (VD: 十, 干, 王); trên trước
dưới sau (VD: 三, 竟, 音); trái trước phải sau (VD:
理, 湖, 谢); ngoài trước trong sau (VD: 同, 风,
周); vào nhà trước đóng cửa sau (VD: 国, 圆, 园);
giữa trước hai bên sau (VD: 小, 水, 办). Ngoài 7
quy tắc kể trên, chữ Hán còn tuân theo một số quy
tắc bổ sung khác. Ví dụ, đối với những chữ được
vây kín 3 mặt sẽ có thêm các quy tắc như: khuyết
bên trên - trong trước ngoài sau (VD: 凶, 幽);
khuyết bên phải - trên trước trong sau rồi đến trái
và dưới (VD: 巨, 医, 区). Đối với những chữ có
nét chấm: những chữ có nét chấm bên trên chính
giữa hoặc bên trái thường thì nét chấm viết trước
(VD: 六, 义, 门); những chữ có nét chấm bên phải
phía trên thường thì nét chấm viết sau (VD: 我, 书,
发); những chữ có nét chấm bên trong thường thì
nét chấm viết sau (VD: 叉, 丹, 鸟).
48 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
Có thể nhận thấy rằng, về kết cấu chữ Hán
được tổ hợp theo những quy tắc hết sức chặt chẽ.
Giảng viên cần lấy ví dụ để giới thiệu, giảng giải
kỹ lưỡng về các quy tắc chính tả cơ bản nêu trên,
để học viên hiểu rõ và ghi nhớ. Đồng thời trong
phần dạy viết từ mới ở những bài đầu tiên, giảng
viên cũng nên thường xuyên nhắc lại những quy
tắc đó để học viên nhuần nhuyễn, thành thục hơn,
từng bước hình thành kỹ năng viết chữ Hán đúng
quy tắc bút thuận. Việc nắm vững, vận dụng thành
thục quy tắc bút thuận sẽ giúp ích cho học viên rất
nhiều trong việc trình bày chữ Hán sau này, đặc
biệt là đối với việc rèn luyện kỹ năng viết tốc ký.
Nếu không nắm vững và thuần thục các quy tắc
này, học viên có thể viết sai, viết chậm, đặc biệt là
hình thành thói quen “vẽ chữ”, dẫn đến tình trạng
không ghi chép kịp thời và chính xác các nội dung
bài giảng ở trình độ cao hơn, ảnh hưởng tiêu cực
tới việc nâng cao trình độ các kỹ năng thực hành
tiếng khác. Học giả Hồ Văn Hoa (胡文华, 2008)
cho rằng, nắm vững và tuân thủ quy tắc bút thuận
còn giúp cho học viên viết chữ mỹ quan hơn, có
phong cách hơn.
2.3. Coi trọng tính cân đối của chữ Hán
Trong bài giảng nhập môn, giảng viên cần khái
quát cho học viên về tính cân đối của chữ Hán,
bất luận là chữ một nét hay mấy chục nét cũng
đều nằm trọn trong một ô vuông. Ví dụ, chữ “一”
(“nhất”, hình 1) có 1 nét, chữ “赢” (“doanh”, hình
2) có 17 nét, đều được trình bày cân đối trong một
ô vuông. Nếu viết các nét của chữ vượt ra ngoài
Hình 1: Chữ “nhất” Hình 2: Chữ “doanh”
phạm vi của ô vuông thì chữ Hán đó sẽ không cân
đối, không đúng quy phạm chính tả.
Cần giới thiệu cho học viên các bố cục hình
thức phổ biến của chữ Hán. Các chữ đơn giản,
không chia thành các phần, nhưng khi viết phải
trình bày cân đối trong ô vuông, ví dụ chữ “我”
(ngã), “主” (chủ), “大” (đại), “天” (thiên). Các chữ
được trình bày theo tỷ lệ “trên 1/2, dưới 1/2”, ví
dụ: “早” (tảo), “条” (điều), “杂” (tạp), “志” (chí).
Các chữ được trình bày theo tỷ lệ “trên 1/3, dưới
2/3”, ví dụ: “花” (hoa), “第” (đệ), “箱” (tương/
sương), “萌” (manh). Các chữ được trình bày
theo tỷ lệ “trên 2/3, dưới 1/3”, ví dụ: “热” (nhiệt),
“杰” (kiệt), “煮” (chử), “想” (tưởng). Các chữ
được trình bày theo tỷ lệ “trên 1/3, giữa 1/3, dưới
1/3”, ví dụ: “草” (thảo), “蓝” (lam), “意” (ý), “章”
(chương). Các chữ được trình bày theo tỷ lệ “trái
1/2, phải 1/2” , ví dụ: “相” (tương), “期” (kỳ),
“职” (chức), “银” (ngân). Các chữ được trình bày
theo tỷ lệ “trái 1/3, phải 2/3” , ví dụ: “你” (nhĩ),
“他” (tha), “河” (hà), “诚” (thành). Các chữ được
trình bày theo tỷ lệ “trái 2/3 phải 1/3”, ví dụ: “利”
(lợi), “创” (sang/sáng), “副” (phó), “刘” (lưu).
Các chữ được trình bày theo tỷ lệ “trái 1/3, giữa
1/3, phải 1/3” , ví dụ: “谢” (tạ), “辩” (biện), “涨”
(trướng), “斑” (ban).
Bùi Huy Cường (2016) cho rằng, “giảng viên
nêu gương trong việc viết chữ đúng quy tắc” là
điều hết sức quan trọng. Viết đúng quy tắc ở đây
chủ yếu tập trung ở việc viết chữ cân đối và đúng
thứ tự các nét, các bộ thủ, bộ kiện. Giảng viên chỉn
49KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
chu trong trình bày từng nét chữ sẽ có tác dụng
làm cho học viên hình thành tính cẩn thận, tỉ mỉ
trong học viết chữ. Ngược lại nếu như giảng viên
viết chữ không cân đối, không chỉn chu sẽ làm cho
học viên mô phỏng sai, hoặc sao nhãng các quy
tắc chính tả, ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng dạy
học chữ Hán giai đoạn Hán ngữ cơ sở.
2.4. Coi trọng tính hệ thống trong dạy học
Trong dạy học chữ Hán, chúng ta nên hình
thành thói quen đặt chữ Hán đó vào hệ thống các
chữ có liên quan với nó về mặt cấu tạo và ý nghĩa.
Theo Lương Ngạn Dân (梁彦民, 2004), khi giảng
dạy chữ “戈” (qua: giáo/thương/mâu/mác), nếu
chỉ đi phân tích hình thể hiện tại của nó thì khó có
thể làm cho người học hình dung ra hình ảnh của
“giáo/thương/mâu/mác”. Theo học giả này, giảng
dạy chữ “戈” cần giới thiệu cả những chữ mà
“戈” tham gia cấu thành và mang các ý nghĩa liên
quan với nó, như “戒” (giới: phòng bị), “伐” (phạt:
chặt/đốn/đánh/đánh dẹp), “战” (chiến: chiến tranh/
chiến đấu), “栽” (tài: cắm), “戳” (tróc: chọc/đâm/
xuyên),“戮” (lục: giết/giết hại). Việc dạy học chữ
Hán chú trọng đến tính hệ thống này, giúp người
học không chỉ nắm được kết cấu hình thức mà còn
nắm được ý nghĩa nội tại của chữ Hán đó một cách
tốt hơn.
Tính hệ thống ở đây còn được thể hiện ở mối
liên hệ giữa chữ Hán với phiên âm, từ vựng, ngữ
nghĩa, ngữ pháp. Khi thiết kế bài giảng, xây dựng
giáo trình, giảng viên cần nắm chắc và bám sát
những vấn đề mang tính hệ thống nêu trên để đảm
bảo chất lượng tốt nhất cho bài giảng và giáo trình
biên soạn.
3. MỘT SỐ KỸ XẢO DẠY HỌC CHỮ HÁN
3.1. Mô tả phương thức cấu tạo chữ Hán
Giảng viên cần giới thiệu, phân tích cho học
viên thấy rằng, chữ Hán được cấu tạo dựa trên
những phương thức nhất định, để học viên hiểu
sâu hơn về chữ Hán, hứng thú hơn với việc khám
phá ý nghĩa của loại chữ này, chứ không dừng lại
ở việc học chữ một cách máy móc, thụ động. Cần
mô tả rõ ràng các phương thức cấu tạo cơ bản của
chữ Hán như tượng hình, chỉ sự, hội ý, hình thanh.
Phương pháp dạy học mô tả này cũng góp phần
hiện thực hóa mục tiêu ứng dụng thành tựu nghiên
cứu bản thể ngôn ngữ văn tự vào quá trình dạy học.
Người Trung Quốc từ xa xưa trên cơ sở quan
sát các sự vật hiện tượng ở thế giới xung quanh
đã vẽ lại thành hệ thống những ký hiệu biểu ý, hệ
thống ký hiệu biểu ý này chính là chữ tượng hình.
Chữ tượng hình mặc dù số lượng không nhiều,
nhưng chúng được coi là những chữ nguyên thủy
nhất và là nền móng của hệ thống chữ Hán sau
này. Các chữ được tạo bởi phương thức khác như
chỉ sự, hội ý, hình thanh nhắc đến dưới đây cũng
đều được phát triển trên cơ sở chữ tượng hình, nên
chúng vẫn giữ lại nhiều đặc điểm của loại chữ này.
Hình 3: Chữ “sơn” Hình 4: Chữ “dương” Hình 5: Chữ “ngư”
50 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
Khi ta quan sát bằng mắt thường cũng có thể
thấy được chữ tượng hình có nhiều điểm giống với
những sự vật mà nó biểu thị ý nghĩa. Các chữ “
山” (sơn: núi), “羊” (dương: dê), “鱼” (ngư: cá) ở
hình 3, hình 4, hình 5 trên đây lần lượt rất giống
với hình ảnh ngọn núi, con dê, con cá ngoài thực
tế. Một số chữ tượng hình thường gặp khác như:
“水” (thủy: nước), “日” (nhật: mặt trời), “月”
(nguyệt: trăng), “雨” (vũ: mưa), “门” (môn: cửa),
“木” (mộc: cây), “刀” (đao: dao), “斤” (cân: nửa
ký), “手” (thủ: tay), “目” (mục: mắt), “口” (khẩu:
miệng), “耳” (nhĩ: tai), “人” (nhân: người), “大”
(đại: to), “牛” (ngưu: trâu), “马” (mã: ngựa), “鸟”
(điểu: chim), “犬” (khuyển: chó), “虎” (hổ: hổ/
hùm), “龟” (quy: rùa). Đối với chữ tượng hình,
giảng viên có thể thông qua việc cho học viên quan
sát hiện vật, hình ảnh, cử chỉ, động tác trước rồi
cho luyện viết và nhớ chữ sau, cũng có thể sử dụng
Powerpoint để trình chiếu, giới thiệu quá trình diễn
tiến của những chữ tượng hình đó. Đối với những
chữ tượng hình biểu thị hình ảnh đơn giản, dễ vẽ
như chữ “门” (môn), “刀” (đao), “日” (nhật), “月”
(nguyệt), “山” (sơn) “水” (thủy), “木” (mộc) thì
giảng viên có thể dùng phấn vẽ lên bảng quá trình
diễn tiến của các chữ đó, điều này góp phần đa
dạng hóa phương thức truyền đạt, giúp bài giảng
trở nên sinh động hơn.
“Chỉ sự” là phương thức tạo chữ dựa trên việc
sử dụng những ký hiệu mang tính biểu trưng hoặc
ước lệ. Ví dụ: xem hình 6, 7, 8.
Hình 6: Chữ “bản/bổn” Hình 7: Chữ “trung” Hình 8: Chữ “thượng”
“本” (bổn/bản): gốc cây. Nét ngang ngắn phía
dưới chữ mộc chỉ rõ đó là phần gốc cây (hình 6).
“中” (trung): giữa. Nét sổ biểu thị ở vị trí chính
giữa. Trong giáp cốt tự là hình ảnh của cái cán cờ
cắm thẳng đứng, chính giữa (hình 7).
“上” (thượng): ở trên. Lấy nét ngang dài làm
mốc, nét ngang ngắn ở trên chỉ một vị trí ở bên trên,
nét sổ chỉ sự di chuyển từ dưới lên trên (hình 8).
Giảng viên có thể giới thiệu cho học viên
các chữ được tạo bởi phương thức chỉ sự thường
gặp khác như: “一” (nhất), “二” (nhị), “三” (tam),
“下” (hạ),“爻” (hào) , “寸”(thốn),“刃” (nhẫn),
“元” (nguyên), “示” (thị), “中” (trung), “屯”
(đồn), “末” (mạt), “朱” (chu), “亦” (diệc), “孔”
(khổng), “尤” (vưu), “甘” (cam).
“Hội ý” là kiểu chữ Hán được tạo bởi hai hoặc
nhiều bộ thủ trở lên cùng biểu thị một ý nghĩa.
Loại chữ này không những có thể mô tả lại hình
dạng bên ngoài của sự vật, hiện tượng, mà còn
có thể biểu thị hành vi, động tác của sự vật hiện
tượng, cũng như các khái niệm trừu tượng khác.
Việc phân tích, mô tả phương thức cấu tạo hội
ý của chữ Hán mang đến cho học viên hứng thú
khám phá, phát triển tư duy trừu tượng, nâng cao
hơn hiệu quả quá trình học tập. Ví dụ:
51KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
Hình 9: Chữ “hưu” Hình 10: Chữ “lâm” Hình 11: Chữ “minh”
“休” (hưu: nghỉ ngơi) - người (人) dựa vào
cây (木) để nghỉ ngơi (hình 9). “林” (lâm: rừng)
- nhiều cây thì thành rừng, chữ “林” (lâm) được
tạo bởi hai chữ “木”(mộc) (hình 10). “鸣” (minh:
kêu, hót) tạo bởi bộ “khẩu” (口) và bộ “điểu” (鸟),
trong đó bộ “khẩu” chỉ cái miệng, bộ “điểu” chỉ
con chim (hình 11).
Giảng viên có thể giới thiệu cho học viên các
chữ hội ý thường gặp khác như: “森” (sâm), “打”
(đả), “尘” (trần), “尖” (tiêm), “劣” (liệt), “闷”
(muộn), “看” (khán) , “宿” (túc)...
“Hình thanh” là cách tạo chữ trên cơ sở phối
hợp giữa hai bộ phận: bộ phận biểu ý (hình bàng)
biểu thị ý nghĩa của chữ và bộ phận biểu âm (thanh
bàng) biểu thị âm đọc của chữ. Những chữ Hán
được tạo bởi phương thức này được gọi chung là
chữ hình thanh. “Hình thanh” là nguyên lý tạo ra
được nhiều chữ Hán nhất, số lượng chữ hình thanh
chiếm khoảng 90% trong hệ thống chữ Hán, do vậy
trong hoạt động dạy học chữ Hán chúng ta nên lấy
dạy học chữ hình thanh làm trọng điểm dạy học.
Nắm vững phương thức cấu tạo chữ hình thanh
này rất hữu ích cho học viên trong việc lý giải ý
nghĩa và phán đoán, ghi nhớ âm đọc chữ Hán. Ví
dụ, ba chữ “清” (thanh) , “晴” (tinh/tình), “情”
(tình) đều có chung bộ kiện “青” (thanh) để chỉ
cách đọc chung là “qing”. Còn bộ kiện bên trái của
mỗi chữ để chỉ nghĩa. Chữ “清” (thanh) bên trái có
bộ “chấm thủy” (氵) để biểu thị ý nghĩa là “trong
suốt, trong vắt”. Chữ “晴” (tinh/tình) bên trái có
bộ “nhật” (日) để chỉ “trời nắng”. Chữ “情” (tình)
bên trái có bộ “tâm đứng” (忄) để biểu thị ý nghĩa
là “tình cảm”.
Có 6 cách tổ hợp hình bàng và thanh bàng là:
Trái biểu ý phải biểu âm (VD: 材 (tài), 桐 (đồng), 评
(bình)...); Phải biểu ý trái biểu âm (VD: 攻 (công ), 鸠
(cưu), 期 (kỳ) ...); Trên biểu ý dưới biểu âm (VD:
芽 (nha), 霜 (sương), 竿 (can) ); Dưới biểu ý,
trên biểu âm (VD: 盒 (hấp), 忠 (trung), 驾 (giá)
); Ngoài biểu ý trong biểu âm (VD: 阂 (ngạt),
圆 (viên), 病 (bệnh) );Trong biểu ý ngoài biểu
âm (VD: 问 (vấn), 闷 (muộn), 辩 (biện) ). Trong
hoạt động dạy học, tùy vào từng chữ, giảng viên
có thể phân tích, mô tả ở mức độ phù hợp, làm cho
học viên cảm thấy thú vị trong lý giải và học tập
chữ Hán.
3.2. So sánh những chữ gần giống nhau
Biện Giác Phi (卞觉非, 1999) cho rằng, khi
người học đã có một vốn chữ Hán nhất định, giảng
viên có thể tiến hành so sánh kết cấu, ý nghĩa và
cách dùng của những chữ gần giống nhau để giúp
học viên không bị nhầm lẫn. Các chữ gần giống
nhau có thể chia thành các nhóm để tiến hành so
sánh như: Thừa ngang thiếu chấm: “亨” với “享”,
“兔” với “免”; Trên dài dưới ngắn: “未” với “末”,
“士” với “土”; Trái giống phải khác: “扰” với
“拢”, “伧” với “伦”; Trái khác phải giống: “课”,
52 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
“棵” với “裸”; Trên giống dưới khác: “暮” với
“幕”, “简” với “筒”; Dưới giống trên khác: “籍”
với “藉”; Ngoài giống trong khác: “遣” với “遗”,
“圆” với “圜”; Hai bên giống, ở giữa khác: “辨”,
“辩” với “瓣”.
Chúng tôi cho rằng, giảng viên có thể hướng
dẫn cho học viên hình thành ý thức, thói quen so
sánh những chữ gần giống nhau giúp học viên
tránh được nhầm lẫn trong sử dụng các chữ đó.
Phương pháp so sánh này cũng giúp học viên ghi
nhớ chữ mới nhanh hơn, trên cơ sở liên tưởng, so
sánh với những chữ đã học, điều này cũng hoàn
toàn phù hợp với quy luật tiếp nhận tri thức mới.
Khi so sánh các chữ gần giống nhau, ngoài
việc so sánh cách viết, thì cần chú trọng đến việc
phân biệt ý nghĩa chỉnh thể cũng như ý nghĩa các
bộ phận cấu thành chữ đó, điều này sẽ làm cho học
viên ghi nhớ sâu hơn. Ví dụ, khi so sánh chữ “代”
(đại: thay thế) và chữ “伐” (phạt: đánh dẹp), giảng
viên nên đi sâu phân tích ý nghĩa bộ kiện “戈” và
liệt kê một số chữ tạo bởi bộ kiện này (đã trình bày
ở phần 2.4). Khi nắm được ý nghĩa của bộ kiện
“戈” , học viên sẽ hiểu được sự khác biệt giữa chữ
“代” và chữ “伐” một cách rõ ràng và sâu sắc hơn.
3.3. Sử dụng phương pháp chiết tự
“Chiết tự” là phương pháp dạy học chữ Hán
truyền thống, thường được hiểu là sử dụng những
câu thơ vui, văn vần để bẻ chữ, ghép chữ và giải
chữ, từng được vận dụng trong nhiều lĩnh vực như
thử tài trí tuệ, sáng tác văn chương và là phương
pháp dạy học chữ Hán vô cùng độc đáo mà ông
cha ta từ xa xưa đã sử dụng. Ví dụ:
(1) Cô kia đội nón chờ ai?
Sao cô yên phận đứng hoài thế cô?
(Đố là chữ gì?) - Đáp: Chữ “an”, còn gọi là
chữ “yên” (安).
Chữ “nữ” (女) nghĩa là con gái, bên trên có bộ
“miên” (宀) giống như đội cái nón. “Sao cô yên
phận” đã nói rõ chữ “an/yên” (安) rồi.
(2) Lưỡng nhật bình đầu nhật,
Tứ sơn điên đảo sơn,
Lưỡng vương tranh nhất quốc,
Tứ khẩu tung hoành gian.
(Đố là chữ gì?) - Đáp: Chữ “điền” (田).
Chữ “điền” (田) cắt ra thành hai chữ “nhật”
(日) bằng nhau. Do bốn chữ “sơn” (山) chữ ngược
chữ xuôi tạo thành. Còn có thể tạo bởi 2 chữ
“vương” (王) hoặc 4 chữ “khẩu” (口) ghép thành.
(3) Thị tại môn tiền náo,
Nguyệt lai môn hạ nhàn.
(Đố là chữ gì?) - Đáp: Chữ “náo” (闹) và chữ
“nhàn” (閒) .
Nghĩa của hai câu trên là: chợ ở trước cửa thì
ồn ào, trăng soi xuống cửa thì nhàn hạ.
Chữ “thị” (市) kết hợp với chữ “môn” (门)
thành chữ “náo” (闹).
Chữ “nguyệt” (月) bên trong chữ môn (门)
thành chữ “nhàn” (閒) (“閒” là chữ phồn thể, giản
thể viết là “闲”)
Giảng viên cũng có thể giao cho học viên sưu
tầm, biên soạn câu đố vui để đố lẫn nhau, hoặc đố
vui giữa các nhóm với nhau tạo nên không khí học
tập sôi nổi và tinh thần cầu thị cao trong học tập.
3.4. Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy
học Chữ Hán
Nếu như trước đây khi phân tích nét bút hoặc
quá trình diễn tiến của chữ Hán, giảng viên chủ
yếu thông qua trình bày trên bảng hoặc trên giấy,
thì ngày nay dưới sự hỗ trợ của công nghệ thông
tin, giảng viên có thể thiết kế các bài giảng có tính
trực quan hơn, sinh động hơn nhờ sử dụng tranh,
ảnh điện tử hoặc tạo các đường liên kết với các tệp
âm thanh, video vào trong trình chiếu PowerPoint,
qua đó có thể làm cho hình thức phân tích, giảng
giải chữ Hán phong phú hơn, trực quan hơn, tạo
thêm sự hứng thú học tập chữ Hán cho học viên.
53KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
Ví dụ, khi giảng giải các chữ “鸟” (điểu: chim),
“马” (mã: ngựa), “吃” (ngật: ăn), “睡” (thụy: ngủ)
dưới đây, có thể kết hợp trình chiếu một số hình
vẽ như sau.
鸟 Niǎo Điểu:
Chim
马 Mǎ
Mã:
Ngựa
吃 Chī
Ngật:
Ăn
睡 Shuì
Thụy:
Ngủ
Đặng Thế Tuấn (2018) đề cập một số phần
mềm và trang mạng hỗ trợ dạy học tiếng Trung,
trong đó, phần mềm Writing Master 4.0 tương
đối hữu ích cho dạy học chữ Hán. Trên thực tế,
thông qua các công cụ tìm kiếm khác như Google,
Baidu, YouTube..., chúng ta cũng có thể tìm được
nhiều thông tin, hình ảnh phục vụ giảng dạy chữ
Hán, cũng như hỗ trợ học viên tự học. Chỉ cần có
từ khóa phù hợp là có thể tìm ra được rất nhiều
những tư liệu về dạy học chữ Hán, bước tiếp theo
mà chúng ta phải chú ý thực hiện đó là đánh giá,
sàng lọc nội dung, lựa chọn ra những tư liệu có
chất lượng tốt và độ tin cậy cao, những tư liệu điện
tử này ắt sẽ hữu ích cho hoạt động dạy học chữ
Hán tại nhà trường.
4. KẾT LUẬN
Chữ Hán là sự kết hợp chặt chẽ giữa ba yếu
tố hình-âm-nghĩa, tức là mỗi chữ Hán đều có mối
liên hệ chặt chẽ giữa âm đọc, hình dạng và ý nghĩa.
Hoạt động dạy học chữ Hán cần tuân theo những
nguyên tắc về tính tuần tự, quy tắc viết, tính cân
đối, tính hệ thống. Giảng viên cần mô tả cho học
viên nắm được những phương thức cấu tạo, so sánh
sự giống nhau, khác nhau giữa các chữ. Thông qua
các bài giảng, bài tập và trò chơi chữ Hán phong
phú sinh động làm cho học viên ý thức được rằng:
mỗi chữ Hán đều có thể cho chúng ta hiểu thêm về
tư duy ngôn ngữ của người Trung Quốc, khi ta viết
một chữ Hán, là ta đang phác họa lại một phương
thức tư duy chứ không chỉ đơn thuần là ghi lại một
ký hiệu ngôn ngữ. Cần tạo cho học viên hứng thú
khám phá nội hàm ẩn chứa bên trong của mỗi con
chữ, như đang ngắm một bức tranh, một công trình
nghệ thuật. Làm được như vậy thì hiệu quả của
hoạt động dạy học chữ Hán ắt hẳn sẽ được nâng
cao hơn rất nhiều./.
Tài liệu tham khảo:
Bùi Huy Cường (2016), “Đặc điểm chữ Hán và phương
pháp dạy học chữ Hán giai đoạn cơ sở”, Tạp chí
Khoa học ngoại ngữ Quân sự, số 3, tr.88-94.
Đặng Thế Tuấn (2018), “Ứng dụng công nghệ thông tin
nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ tại Học
viện Khoa Học Quân Sự”, Tạp chí Khoa học ngoại
ngữ Quân sự, số 15, tr.97-102.
卞觉非(1999),汉字教学:教什么?怎么教?,
语言文字应用,第1期。
胡文华(2008),汉字与对外汉字教学,学林出版
社,上海。
梁彦民(2004),汉字部件区别特征与对外汉字教
学,语言教学与研究,第4期。
苏英霞(2015),国际汉语教学:汉字教学方法与
技巧,北京语言大学出版社,北京。
吴世雄(1998),认知心理学的记忆原理对汉字教
学的启迪,语言教学与研究,第4期。
周健(2010),分析字词关系改进字词教学,语言
文字应用,第1期。
54 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
PRINCIPLES AND TECHNIQUES OF TEACHING CHINESE CHARACTERS
BUI HUY CUONG
Abtract: Chinese characters are one of the most basic units of Chinese language. Learning Chinese
characters requires students to remember not only the sound but also the wordface. If the learners
can not remember the wordface, they will not be able to read, write or communicate properly in
Chinese. Therefore, the teaching of Chinese characters during the first year of enrollment plays
an important role in determining the ability to practice the language of learners in the next stage.
This article outlines several principles and techniques in Chinese teaching, hoping to add some
useful insights to this important research knowledge.
Keywords: Han characters, teaching, techniques, principles
Received: 16/12/2018; Revised: 17/01/2019; Accepted for publication: 25/02/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khnnqs_18_3_2019_46_54_bui_huy_cuong_3899_2136258.pdf