Tài liệu Nguyên lý hoạt động của hộp số tự động: Nguyê
Nguồn :
Nếu bạ
sẽ nhậ
chiếc x
n lý hoạ
oto‐hui.co
n đã từn
n ra hai đ
e sử dụn
t động c
m
g điều kh
iều khác
g số cơ k
ủa hộp
iển một
biệt rõ r
hí gài bằ
số tự độ
chiếc ôtô
àng giữa
ng tay.
ng
số tự độ
một chi
ng, chắc
ếc xe số
chắn bạ
tự động v
n
à
Sự khác biệt giữa hộp số tự động và hộp số tay
Trên hộp số tự động, bạn sẽ không tìm thấy bàn đạp ly hợp và cũng
không có cần chuyển số (1, 2, 3, 4..). Bạn chỉ cần thao tác duy nhất là
đưa cần chọn số vào nấc D (drive), sau đó mọi thứ đều là tự động.
Cả hộp số tự động (với bộ biến mô-men) và hộp số cơ khí (với ly hợp
ma sát khô) đều có chức năng giống nhau, nhưng về nguyên lý làm
việc lại hoàn toàn khác nhau. Và nếu tìm hiểu sâu, chúng ta sẽ thấy
hộp số tự động thực hiện những điều vô cùng kinh ngạc.
Trong bài viết này, chúng ta cùng tìm hiểu về hộp số tự động. Chúng
ta sẽ bắt đầu với điểm mấu chốt của toàn bộ hệ thống: bộ bánh răng
hành tinh. Sau đó chúng ta xem cách cá...
24 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1685 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Nguyên lý hoạt động của hộp số tự động, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyê
Nguồn :
Nếu bạ
sẽ nhậ
chiếc x
n lý hoạ
oto‐hui.co
n đã từn
n ra hai đ
e sử dụn
t động c
m
g điều kh
iều khác
g số cơ k
ủa hộp
iển một
biệt rõ r
hí gài bằ
số tự độ
chiếc ôtô
àng giữa
ng tay.
ng
số tự độ
một chi
ng, chắc
ếc xe số
chắn bạ
tự động v
n
à
Sự khác biệt giữa hộp số tự động và hộp số tay
Trên hộp số tự động, bạn sẽ không tìm thấy bàn đạp ly hợp và cũng
không có cần chuyển số (1, 2, 3, 4..). Bạn chỉ cần thao tác duy nhất là
đưa cần chọn số vào nấc D (drive), sau đó mọi thứ đều là tự động.
Cả hộp số tự động (với bộ biến mô-men) và hộp số cơ khí (với ly hợp
ma sát khô) đều có chức năng giống nhau, nhưng về nguyên lý làm
việc lại hoàn toàn khác nhau. Và nếu tìm hiểu sâu, chúng ta sẽ thấy
hộp số tự động thực hiện những điều vô cùng kinh ngạc.
Trong bài viết này, chúng ta cùng tìm hiểu về hộp số tự động. Chúng
ta sẽ bắt đầu với điểm mấu chốt của toàn bộ hệ thống: bộ bánh răng
hành tinh. Sau đó chúng ta xem cách các chi tiết của hộp số được lắp
ghép như thế nào, chúng làm việc ra sao và cuối cùng hãy thảo luận
về một số vấn đề phức tạp liên quan đến điều khiển hộp số tự động.
Cũng giống như hộp số cơ khí, nhiệm vụ chính của hộp số tự động là
cho phép tiếp nhận công suất động cơ ở một phạm vi tốc độ nhất định
nhưng cung cấp theo phạm vi tốc độ lớn hơn ở đầu ra.
Hộp số sử dụng các bánh răng để lợi dụng hiệu quả mô-men của động
cơ và giúp động cơ cung cấp cho bánh xe vùng tốc độ phù hợp nhất
theo các chế độ tải trọng và theo ý muốn của người điều khiển.
Sự khác biệt chủ yếu giữa hộp số tự động và hộp số cơ là hộp số cơ
thay đổi việc gài các bánh răng ăn khớp với nhau để tạo nên giá trị tỷ
số truyền khác nhau giữa trục sơ cấp (nối liền với động cơ) và trục thứ
cấp (nối liền với trục truyền ra các cầu chủ động). Trong khi ở hộp số
tự động thì khác hẳn, bộ bánh răng hành tinh sẽ thực hiện tất cả
những nhiệm vụ phức tạp đó.
Nguyên lý làm việc của bộ truyền bánh răng hành tinh
Khi nhìn vào bên trong một hộp số tự động, bạn thấy có sự sắp đặt
thành từng phần riêng rẽ ở từng không gian hợp lý. Trong số những
thứ đó, bạn thấy:
- Một bộ truyền bánh răng hành tinh.
- Một bộ phanh đai dùng để khoá các phần của bộ truyền bánh răng
hành tinh.
- Một bộ gồm ba mảnh ly hợp ướt làm việc trong dầu dùng để khoá các
phần của bộ truyền.
- Một hệ thống thuỷ lực để điều khiển các ly hợp và phanh đai
- Một bộ bơm bánh răng lớn để luân chuyển dầu truyền động trong
hộp số.
Quan trọng nhất trong hệ thống là bộ truyền bánh răng hành tinh. Việc
đầu tiên là chế tạo ra chúng có các tỷ số ăn khớp khác nhau và sau đó
là giúp cho chúng hoạt động như thế nào. Một hộp số tự động bao gồm
các bộ truyền bánh răng hành tinh cơ sở nhưng được kết hợp thành
một khối trong hộp số
Bất cứ bộ truyền bánh răng hành tinh cơ sở nào cũng có ba phần
chính:
- Bánh răng mặt trời (S)
- Các bánh răng hành tinh và giá bánh răng hành tinh (C)
- Vành răng ngoài (R)
Đầu vào Đầu ra Bị khóa đứng yên Công thức tính Tỷ số truyền
A Sun (S) Planet Carrier (C) Ring (R) 1 + R/S 3.4:1
B Planet Carrier (C) Ring (R) Sun (S) 1 / (1 + S/R) 0.71:1
C Sun (S) Ring (R) Planet Carrier (C) -R/S - 2.4:1
Khi khoá hai trong ba thành phần lại với nhau sẽ khoá toàn bộ cơ cấu
thành một khối (tỷ số truyền là 1:1). Chú ý rằng danh sách tỷ số đầu
tiên ở trên (A) là số truyền giảm – tốc độ trục thứ cấp (đầu ra) nhỏ
hơn tốc độ trục sơ cấp (đầu vào). Thứ hai (B) là số truyền tăng – tốc
độ trục thứ cấp lớn hơn tốc độ trục sơ cấp. Cuối cùng cũng là số truyền
giảm, nhưng chiều chuyển động của trục sơ cấp ngược với trục thứ
cấp, tức là số lùi. Bạn có thể kiểm tra chúng theo sơ đồ mô phỏng sau:
Một bộ truyền bánh răng cơ sở này có thể thực hiện các tỷ số truyền
khác nhau mà không cần gài ăn khớp hay nhả khớp với bất cứ bánh
răng khác. Với hai bộ truyền bánh răng cơ sở ghép liền, chúng ta có
thể nhận được 4 tốc độ tiến và một tốc độ lùi. Chúng ta sẽ bàn về hai
bộ truyền bánh răng cơ sở ghép liền ở phần sau.
Hộp số tự động ghép liền này cũng là một bộ truyền bánh răng hành
tinh, gọi là bộ truyền hành tinh kép, cấu trúc giống như bộ bánh răng
hành tinh đơn nhưng cấu trúc là hai bộ bánh răng hành tinh kết hợp
lại. Nó có một vành răng ngoài luôn gắn với trục thứ cấp của hộp số,
nhưng nó có hai bánh răng mặt trời và hai bộ bánh răng hành tinh.
Hãy xem hình sau:
Ở hình dưới: các bánh răng hành tinh đặt trên một giá. Xem xét kỹ
hơn: bánh răng hành tinh bên phải nằm thấp hơn bánh răng bên trái.
Bánh răng bên phải không ăn khớp với vành răng ngoài, mà ăn khớp
với bánh răng hành tinh bên cạnh. Chỉ có bánh răng hành tinh bên trái
ăn khớp với vành răng mà thôi.
Tiếp theo bạn hãy nhìn vào bên trong của giá bánh răng hành tinh.
Các bánh răng ngắn hơn được ăn khớp với bánh răng mặt trời nhỏ hơn.
Các bánh răng dài hơn được ăn khớp với bánh răng mặt trời lớn hơn
đồng thời với ăn khớp các bánh răng hành tinh nhỏ hơn.
Sơ đồ mô phỏng dưới đây cho thấy các cụm được lắp với nhau như thế
nào trong một hộp số:
Số 1
Ở số 1, bánh răng mặt trời nhỏ hơn là chủ động quay thuận chiều kim
đồng hồ cùng với tuốc-bin của bộ biến mô-men. Giá của bánh răng
hành tinh có xu hướng quay ngược chiều lại nhưng bị khớp một chiều
giữ lại (chỉ cho phép quay cùng chiều kim đồng hồ) và vành răng ngoài
truyền chuyển động ra trục thứ cấp. Bánh răng mặt trời có 30 răng và
vành răng ngoài có 72 răng, vì vậy tỷ số truyền là:
i = - R/S = - 72/30 = - 2.4/1
Vì chuyển động quay là ngược lại theo tỷ số 2.4:1, có nghĩa là chiều
quay của trục thứ cấp ngược với trục sơ cấp. Nhưng chiều của trục thứ
cấp giống như chiều của trục sơ cấp. Bộ bánh răng hành tinh thứ nhất
ăn khớp với bộ bánh răng thứ hai, và bộ bánh răng hành tinh thứ hai
làm quay vành răng. Sự kết hợp này đã đảo chiều của chuyển động.
Bạn có thể thấy điều này cũng sẽ làm cho bánh răng mặt trời to hơn
quay, nhưng vì ly hợp đang nhả nên bánh răng mặt trời to hơn quay
trơn theo chiều ngược lại của tuốc bin (ngược chiều kim đồng hồ).
Số 2
Hộp số này làm những việc thực sự tinh sảo để có được tỷ số truyền
phù hợp cho số 2. Chúng hoạt động như hai bộ bánh răng hành tinh
gài nối tiếp với nhau trên một giá bánh răng hành tinh chung.
Tầng đầu tiên của giá bánh răng hành tinh sử dụng bánh răng mặt trời
to thay thế vành răng. Vì vậy tầng đầu gồm bánh răng mặt trời (bánh
răng mặt trời nhỏ hơn), giá bánh răng hành tinh và vành răng (bánh
răng mặt trời lớn).
Trục sơ cấp là trục bánh răng mặt trời nhỏ, vành răng (bánh răng mặt
trời lớn) bị giữ chặt bởi một chiếc phanh đai, trục thứ cấp là giá bánh
răng hành tinh. Đối với tầng này, với bánh răng mặt trời là trục sơ cấp,
giá bánh răng hành tinh là trục thứ cấp, vành răng bị cố định, ta có
công thức sau:
1+ R/S = 1 + 36/30 = 2.2:1
Giá bánh răng hành tinh quay được 2.2 vòng khi bánh răng mặt trời
nhỏ quay được một vòng. Ở tầng hai, giá bánh răng hành tinh hoạt
động như trục sơ cấp đối với bộ bánh răng hành tinh thứ hai, bánh
răng mặt trời lớn hơn (bị giữ cố định) hoạt động như bánh răng mặt
trời, và vành răng đóng vai trò đầu ra, vì vậy tỷ số truyền là:
1 / (1 + S/R) = 1 / (1 + 36/72) = 0.67:1
Để nhận được sự giảm tốc tổng cộng ở số thứ hai, ta nhân tỷ số truyền
của hai tầng với nhau. 2.2 x 0.67 = 1.41. Điều này tưởng như là phi
lý, nhưng thực tế là như vậy.
Số 3
Đa số các hộp số tự động có một tỷ số 1:1 ở số 3. Bạn nhớ rằng ở
đoạn trước ta đã biết tỷ số 1:1 là do khoá 2 trong 3 phần bất kỳ của
bánh răng hành tinh. Điều này thực sự dễ hơn cả và chúng ta chỉ cần
làm một việc là khoá các bánh răng mặt trời với tuốc-bin.
Nếu cả hai bánh răng mặt trời đều quay cùng tốc độ, các bánh răng
hành tinh sẽ bị khoá do chúng chỉ có thể quay theo chiều ngược lại.
Điều này dẫn đến khoá vành răng với các bánh răng hành tinh và tất
cả quay cùng một khối tạo nên tỷ số truyền 1:1.
Tăng tốc độ
Như đã nói ở trên, sự tăng tốc độ là tốc độ đầu ra lớn hơn tốc độ đầu
vào. Việc làm tăng tốc độ là điều ngược lại với tính chất của hộp giảm
tốc. Ở chế độ truyền lực này, bộ truyền được gài hai bộ truyền hành
tinh thành một bộ truyền làm việc. Ở chế độ tăng tốc trục được nối với
giá bánh răng hành tinh qua ly hợp. Bánh răng mặt trời nhỏ chạy tự do
trên trục, bánh răng mặt trời lớn hơn bị phanh đai tăng tốc giữ lại.
Chúng không nối với tuốc-bin, mà nối trực tiếp với vỏ biến mô. Hãy
nhìn lại sơ đồ của chúng ta, lần này giá bánh răng hành tính sẽ là đầu
vào, bánh răng mặt trời đã cố định còn vành răng là đầu ra. Ta có tỷ
số truyền là:
i = 1 / (1 + S/R) = 1 / (1 + 36/72) = 0.67:1
Vì vậy trục thứ cấp sẽ quay khoảng một vòng khi động cơ quay hai
phần ba vòng. Nếu tốc độ động cơ là 2000 vòng/phút thì tốc độ đầu ra
của hộp số là 3000 vòng/phút. Điều này cho phép chiếc xe chạy ở tốc
độ cao với động cơ tốc độ vẫn ở mức trung bình và nhỏ.
Số lùi
Số lùi gần giống với số 1, ngoại trừ việc thay thế bánh răng mặt trời
nhỏ quay theo tuốc bin của bộ biến mô, bằng bánh răng mặt trời lớn
hơn được dẫn động bởi tuốc bin còn bánh răng mặt trời nhỏ hơn quay
tự do theo chiều ngược lại. Giá bánh răng hành tinh bị phanh đai số lùi
giữ lại. Theo phương trình ở phần trước chúng ta có:
i = - R/S = 72/36 = 2.0:1
Vì vậy tỷ số truyền của số lùi nhỏ hơn tỷ số truyền của số 1 một chút.
Các tỷ số truyền
Hộp số này có 4 số tiến và một số lùi. Hãy nhìn bảng dưới đây:
Số Đầu vào Đầu ra Phần cố định Tỷ số truyền
1 Bánh răng mặt trời 30 răng Vành răng 72 răng Giá bánh răng hành
tinh 2.4:1
2 Bánh răng mặt trời 30 răng Giá bánh răng hành tinh Vành răng 36
răng 2.2:1
Giá bánh răng hành tinh Vành răng 72 răng Bánh răng mặt trời 36
răng 0.67:1
Toàn bộ số 2 1.47:1
3 Bánh răng mặt trời 30,36 răng Vành răng 72 răng 1.0:1
TT Giá bánh răng hành tinh Vành răng 72 răng Bánh răng mặt trời 30
răng 0.67:1
Lùi Bánh răng mặt trời 30 răng Vành răng 72 răng Giá bánh răng hành
tinh 2.0:1
Sau khi đọc những thông tin trên, chắc chắn bạn sẽ ngạc nhiên rằng
những đầu vào khác nhau được ngắt và nối như thế nào? Điều này
được thực hiện bởi một loạt các ly hợp đĩa và phanh đai bên trong hộp
số. Trong phần tiếp theo bạn sẽ được biết chúng làm việc như thế nào.
Ly hợp và phanh dải
Đối với hộp số tự động, khi gài ở chế độ tăng tốc trục (được nối với vỏ
biến mô-men, và bánh đà) được nối với giá bánh răng hành tinh qua ly
hợp. Những bánh răng mặt trời nhỏ chạy trơn trên trục, bánh răng mặt
trời lớn hơn bị phanh đai tăng tốc giữ lại. Không có gì nối với tuốc bin,
chỉ có trục sơ cấp ở hộp biến mô.
Để hộp số tăng tốc độ, rất nhiều chi tiết cần phải ngắt và nối nhờ ly
hợp và các đai. Giá bánh răng hành tinh nối với hộp biến mô nhờ ly
hợp. Bánh răng mặt trời nhỏ nhả khỏi tuốc-bin để chúng có thể quay
trơn tự do. Bánh răng mặt trời lớn bị một phanh đai giữ lại nên không
thể quay được. Mỗi một trục bánh răng gây ra một loạt các vấn đề như
vậy nhờ việc đóng ngắt ly hợp và các phanh đai. Hãy nhìn một chiếc
phanh đai trong hộp số.
Trong hộp số này có hai chiếc đai. Các phanh đai trong hộp số đều chế
tạo từ thép và bao quanh gần hết vành ngoài của truyền động hành
tinh và giữ chặt chúng với vỏ hộp số. Chúng hoạt động được nhờ các
xi-lanh thuỷ lực bên trong hộp số.
Ở hình trên, bạn có thể thấy một trong những chiếc phanh đai bên
trong vỏ hộp số. Khi bánh răng được tháo ra ngoài, chiếc đòn bằng
kim loại được nối với piston làm kích hoạt phanh đai.
Nhìn hình trên bạn thấy có hai chiếc piston có thể dẫn động những
chiếc đai. Áp suất thuỷ lực làm những chiếc piston đẩy những chiếc đai
khoá các bộ bánh răng với vỏ hộp số.
Ly hợp trong hộp số là một cụm phức hợp. Trong hộp số này có 4 ly
hợp ma sát đĩa. Mỗi một ly hợp ma sát đĩa được dẫn động bởi các
piston bên trong ly hợp nhờ áp suất thuỷ lực. Các lò xo giúp các đĩa ly
hợp tách khỏi nhau khi áp suất thuỷ lực giảm đi. Nhìn hình dưới đây
bạn sẽ thấy piston và tang trống của ly hợp. Chú ý vòng bao kín bằng
cao su (rubber seal) của piston, đó là một trong những chi tiết cần
thay thế khi và sửa chữa hộp số.
Hình tiếp theo là cách sắp xếp các đĩa ma sát và các đĩa thép theo thứ
tự. Các đĩa ma sát nằm bên trong sẽ được nối với một trong các bánh
răng còn các đĩa thép nằm bên ngoài thì bị khoá với vỏ của hộp số.
Các đĩa ma sát cần được thay thế khi sửa chữa hộp số.
Sự phức tạp của hộp số tự động
Hộp số tự động trong xe của bạn cần phải làm hàng loạt công việc
phức tạp. Chúng ta khó có thể biết bao nhiêu thao tác khác nhau trong
khi nó làm việc. Tuy nhiên, những đặc điểm chính khi nó làm việc sẽ
được miêu tả qua ví dụ sau:
- Nếu chiếc xe đang ở chế độ tăng tốc (chỉ với hộp số 4 tốc độ), hộp số
sẽ tự động lựa chọn việc ăn khớp bánh răng theo tốc độ xe và vị trí
chân ga.
- Nếu bạn tăng ga nhẹ nhàng, việc sang số sẽ xảy ra từ từ hơn là khi
bạn nhấn mạnh bàn đạp ga.
- Nếu bạn nhấc chân khỏi bàn đạp ga, hộp số sẽ tự động sang các số
thấp hơn.
- Nếu bạn đưa cần số về một số thấp hơn, hộp số sẽ chuyển về số
thấp trừ khi chiếc xe đang chuyển động quá nhanh só với số đó. Nếu
tốc độ xe quá nhanh, nó sẽ đợi tốc độ chậm lại cho phù hợp rồi mới
chuyển sang số thấp hơn.
- Nếu bạn đặt cần chọn số ở số 2, nó sẽ chỉ giảm hoặc tăng số đến số
2, ngay cả khi chiếc xe dừng hẳn, trừ khi bạn di chuyển cần số.
Bạn đã bao giờ nhìn thấy những gì giống như thế này chưa? Đó thực
sự là bộ não của hộp số tự động, nó điều hành tất cả các chức năng và
hơn thế nữa. Những đường rãnh dẫn dầu thuỷ lực đi tới rất nhiều vị trí
khác nhau trong hộp số. Các rãnh đúc chìm trong vật thể kim loại là
những đường dẫn dầu hiệu quả nhất, nếu không có chúng, bao nhiêu
đường ống có thể nối các phần trong hộp số tự động. Đầu tiên chúng
ta hãy bàn về các thành phần chủ yếu của hệ thống thuỷ lực, sau đó
chúng ta xem chúng làm việc với nhau như thế nào.
Hộp số tự động có một chiếc bơm thuỷ lực,thường là kiểu bơm bánh
răng. Bơm này được lắp đặt ngay trên vỏ hộp số. Nó hút dầu từ thùng
chứa dưới đáy hộp số và đẩy dầu vào hệ thống thuỷ lực. Nó cũng cung
cấp dầu cho hệ thống làm mát của hộp số và cả bộ biến mô-men.
Bánh răng trong của bơm nối cùng với vỏ của bộ biến mô, vì vậy nó
quay theo tốc độ của động cơ. Bánh răng ngoài bị quay theo bánh
răng trong bằng các răng của nó, dầu thuỷ lực từ thùng chứa bị hút
lên mặt bên này của khoảng không gian hình lưỡi liềm (hình trên) và
đẩy dầu sang bên kia đi lên hệ thống thuỷ lực.
Điều hành hệ thống dầu là một bộ điều chỉnh thông minh có thể báo
cho hộp số biết chiếc xe đang di chuyển nhanh hay chậm bao nhiêu.
Nó được nối với đầu ra của hộp số, vì vậy chiếc xe càng chuyển động
nhanh thì bộ điều chỉnh cũng được quay nhanh. Bên trong bộ điều
chỉnh là một van lò xo ép có thể mở tùy thuộc vào sự quay nhanh của
bộ điều chỉnh, bộ điều chỉnh quay càng nhanh thì van mở càng lớn.
Đường dầu từ bơm lên bộ điều chỉnh được dẫn qua trục thứ cấp hộp
số.
Chiếc xe càng chạy nhanh, van của bộ điều chỉnh càng mở to và áp
suất của hệ thống thuỷ lực càng lớn...
Để sang số thích hợp, hộp số tự động phải biết động cơ đang làm việc
ở mức tải nào. Có hai cách để nhận biết điều này. Một số chiếc xe có
một chiếc cáp nối bướm ga động cơ với van tiết lưu ở hộp số. Bạn càng
nhấn sâu bàn đạp ga, áp suất tác dụng vào van tiết lưu càng lớn.
Những chiếc xe khác sử dụng bộ van chân không để cung cấp áp suất
cho van tiết lưu.
Van điều khiển vị trí cần chọn số cho biết vị trí đang đặt số. Phụ thuộc
vào số nào được sử dụng, van sẽ cung cấp theo đường dầu phù hợp. Ví
dụ, nếu cần số ở số 3, chiếc van sẽ cung cấp một vòng tuần hoàn để
ngăn cản việc gài vào số khác.
Các van chuyển số cung cấp áp suất thuỷ lực cho ly hợp và các phanh
đai để bó vào bánh răng. Thân khối van thủy lựccủa hộp số có chứa
vài chiếc van chuyển số. Van chuyển số sẽ quyết định khi nào chuyển
từ số này sang số khác. Chúng được bơm cung cấp dầu và đẩy dòng
dầu tới một trong hai mạch vòng để điều khiển bánh răng ở số cần sử
dụng.
Van chuyển số sẽ ngăn việc sang số khi chiếc xe gia tốc quá nhanh.
Nếu chiếc xe tăng tốc nhẹ nhàng, việc sang số sẽ xuất hiện ở một tốc
độ thấp hơn. Hãy xem điều gì xảy ra khi chiếc xe tăng tốc nhẹ nhàng.
Khi tăng tốc độ, áp suất từ bộ điều chỉnh tăng dần. Lực này buộc chiếc
van chuyển số đóng mạch vòng của số thứ nhất lại và mở mạch vòng
số thứ hai ra.
Khi tăng ga đột ngột, van tiết lưu cung cấp áp suất lớn hơn cho van
chuyển số. Điều này nghĩa là áp suất từ bộ điều chỉnh cần phải cao
hơn (và xe chuyển sang số nhanh hơn) do vậy van chuyển số dịch
chuyển sang gài số thứ hai.
Mỗi van sang số đảm nhiệm một phạm vi áp suất khác nhau, do đó khi
chiếc xe chuyển động nhanh hơn, van chuyển số 2 lên số 3 sẽ làm việc
tiếp, vì áp suất từ bộ điều chỉnh đã đủ cao để kích hoạt van này.
Những hộp số được điều khiển bằng điện tử xuất hiện ở một số xe mới
vẫn sử dụng hệ thống thuỷ lực để điều khiển những ly hợp đĩa và các
phanh đai. Nhưng mỗi mạch vòng thuỷ lực được điều khiển bởi một
cuộn dây điện từ. Điều này làm cho hộp số linh hoạt hơn đồng thời cho
phép phối hợp điều khiển hệ thống tốt hơn.
Ở đoạn cuối cùng này, chúng ta nghiên cứu một số phương thức điều
khiển tự động nữa mà hộp số này sử dụng. Những hộp số điều khiển
điện tử còn bổ sung các phần điều khiển hoàn hảo hơn. Trong phần bổ
sung đã thêm vào việc kiểm soát tốc độ động cơ và vị trí bướm ga, tức
là bộ điều khiển hộp số còn điều khiển tốc động cơ, và giám sát cả hệ
thống ABS nếu bàn đạp phanh được nhấn xuống thì chuyển sang chế
độ ABS.
Tổng quan
Sử dụng những hiểu biết trên và với hệ thống điều khiển cao cấp trên
cơ sở lôgic mờ - phương pháp điều khiển sử dụng trí tuệ nhân tạo, các
hệ thống điều khiển điện tử còn có thể làm tiếp những việc sau:
- Chuyển xuống số thấp tự động khi xe xuống dốc để tự điều khiển tốc
độ, lợi dụng phanh động cơ và hạn chế mòn má phanh.
- Tăng số khi phanh và khi bị trượt trơn bánh xe để giảm mô-men
phanh nhờ động cơ
- Ngăn chặn tăng số khi xe chạy trên các đoạn đường vòng và đường
vênh.
Hãy nói gì về các điều tiếp sau: hạn chế việc tăng số khi bạn đang lái
xe trên đoạn đường đường vòng và đường vênh?. Khi bạn lái xe lên
dốc đường đồi núi vòng vèo. Nếu bạn gặp những đoạn đường thẳng,
cần chọn số đang để ở số 2 bạn cần tăng ga bao nhiêu. Nếu bạn gặp
chỗ ngoặt và xuống dốc, bạn nhấc chân khỏi bàn đạp ga và đạp
phanh. Đa số các hộp số sẽ tăng số đến số 3 hay là số truyền tăng tốc
khi bạn nhấc chân khỏi bàn đạp ga. Rồi khi bạn tăng tốc khỏi chỗ
ngoặt, chúng lại giảm số. Nhưng nếu bạn đang điều khiển một chiếc xe
có hộp số cơ khí thông thường, chắc chắn bạn sẽ cho chiếc xe chạy ở
một số duy nhất trong toàn chặng đường. Một vài hộp số tự động có
hệ thống điều khiển cao cấp có thể nhận biết được việc bạn liên tục
cua gấp, nó sẽ không thực hiện tăng giảm số liên tục.
Theo Howstuffwork và Autonet
__________________
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nguyên lý hoạt động của hộp số tự động.pdf