Tài liệu Nguy cơ té ngã ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú và các yếu tố liên quan: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 133
NGUY CƠ TÉ NGÃ Ở NGƯỜI BỆNH CAO TUỔI ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ
VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Vũ Ngô Thanh Huyền*, Trần Thụy Khánh Linh**, Faye Hummel***
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Té ngã ở người cao tuổi gây ra nhiều biến chứng, di chứng, làm tiêu tốn nhiều tiền của cho quá
trình chăm sóc và điều trị. Té ngã là sự cố y khoa không mong muốn có thể phòng ngừa được. Việc sử dụng một
công cụ cụ thể đã được xác định có giá trị lâm sàng để đánh giá nguy cơ té ngã và các yếu tố liên quan là một
trong những bước quan trọng trong công tác phòng ngừa té ngã, bảo đảm an toàn cho người bệnh khi nằm viện.
Mục tiêu: Đánh giá mức độ nguy cơ té ngã và các yếu tố liên quan ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú.
Phương pháp: Thiết kế cắt ngang mô tả được tiến hành trên 81 người bệnh nội trú ≥60 tuổi tại các khoa lâm
sàng của một bệnh viện khám chữa bệnh bằng Y dược cổ truyền Thành phố Hồ Chí Mi...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 349 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguy cơ té ngã ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú và các yếu tố liên quan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 133
NGUY CƠ TÉ NGÃ Ở NGƯỜI BỆNH CAO TUỔI ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ
VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Vũ Ngô Thanh Huyền*, Trần Thụy Khánh Linh**, Faye Hummel***
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Té ngã ở người cao tuổi gây ra nhiều biến chứng, di chứng, làm tiêu tốn nhiều tiền của cho quá
trình chăm sóc và điều trị. Té ngã là sự cố y khoa không mong muốn có thể phòng ngừa được. Việc sử dụng một
công cụ cụ thể đã được xác định có giá trị lâm sàng để đánh giá nguy cơ té ngã và các yếu tố liên quan là một
trong những bước quan trọng trong công tác phòng ngừa té ngã, bảo đảm an toàn cho người bệnh khi nằm viện.
Mục tiêu: Đánh giá mức độ nguy cơ té ngã và các yếu tố liên quan ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú.
Phương pháp: Thiết kế cắt ngang mô tả được tiến hành trên 81 người bệnh nội trú ≥60 tuổi tại các khoa lâm
sàng của một bệnh viện khám chữa bệnh bằng Y dược cổ truyền Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 04 đến tháng
05 năm 2019. Thang đo Morse được sử dụng để đánh giá mức độ nguy cơ té ngã.
Kết quả: Tại điểm cắt 45 của thang đo Morse, 64,2% người bệnh có nguy cơ té ngã cao. Người bệnh
cao tuổi sử dụng từ 4 loại thuốc trở lên có nguy cơ té ngã cao hơn so với người bệnh cao tuổi sử dụng ít hơn
4 loại thuốc, với OR=3,36 (khoảng tin cậy 95%: 1,16-9,73), p=0,03; Người bệnh cao tuổi sử dụng thuốc điều
trị tăng huyết áp có nguy cơ té ngã cao hơn so với người bệnh không sử dụng thuốc điều trị tăng huyết áp,
với OR=7,818 (khoảng tin cậy 95%: 2,77-2,09), p <0,001; Người bệnh cao tuổi có chỉ định tập vật lý trị liệu
có nguy cơ té ngã cao hơn so với người bệnh không có chỉ định tập vật lý trị liệu với OR = 6,05 (khoảng tin
cậy 95%: 1,99–8,33), p=0,01.
Kết luận: Việc sử dụng thang đo Morse xác định mức độ nguy cơ té ngã ở người cao tuổi và tìm các yếu tố
liên quan giúp điều dưỡng định hướng hành động can thiệp phù hợp trong phòng ngừa té ngã, bảo đảm an toàn
cho người bệnh khi nằm viện, cải thiện chất lượng chăm sóc dựa trên bằng chứng khoa học.
Từ khóa: té ngã, người cao tuổi, công cụ đánh giá nguy cơ té ngã, an toàn người bệnh
ABSTRACT
RELEVANT FACTORS AND RISK OF FALLS IN ELDERLY INPATIENTS
Vu Ngo Thanh Huyen, Tran Thuy Khanh Linh, Faye Humel
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 133 – 139
Background: The issue of falling in the elderly cause complications and sequalae, which cost a lot in medical
care and treatment. Falling issue is an unexpected medical problem that can be prevented. Using a specific tool
identified with actual values in assessing the risk of falling and finding related factors is one important step in
preventing falling and ensuring safety for inpatients.
Objectives: Assessing the risky level of falling and related factors in elderly inpatients.
Methods: Descriptive cross-sectional design. The study was conducted on 81 inpatients over 60 years old in
Clinical Departments of the hospital applying traditional medicine method in Ho Chi Minh City from April to
May, 2019. Using Morse Fall Scale to assess the risk of falling.
Results: At the cut-off point 45 of the Morse scale, the proportion of the patients with a high risk of falling is
*Viện Y Dược Học Dân Tộc TP. Hồ Chí Minh
**Bộ môn Điều dưỡng, Khoa Điều dưỡng – Kỹ thuật y học, Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
***Đại học Bắc Colorado, Mỹ
Tác giả liên lạc: CN. Vũ Ngô Thanh Huyền ĐT: 0934004054 Email: thanhhuyendieuduong@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 134
64.2%. Elderly patients who use 4 or more drugs are at a higher risk of falling than elderly patients who use less
than 4 drugs, in which, OR = 3.36 (95% CI: 1.16- 9.73), p = 0.03; Elderly patients who use blood pressure drugs
have a higher risk of falling than patients who do not use blood pressure drugs, in which, OR = 7.818 (95% CI:
2.77 - 2.09), p <0.001; Elderly patients who are assigned to physical therapy are at a higher risk of falling than
patients who do not practice physical therapy, in which, OR = 6.05 (95% CI: 1.99 – 8.33), p = 0.01.
Conclusions: Using Morse Fall Scale to determine the risk of falling in the elderly and finding related
factors will help nurses to be oriented with appropriate interventions in preventing falling, ensuring safety for
inpatients and improving the quality of scientific evidence-based care.
Key words: falls, elderly, tools for assessing risk of falling, patient safety
ĐẶT VẤN ĐỀ
Té ngã ở người cao tuổi là một vấn đề
nghiêm trọng để lại hậu quả nặng nề cho các
cá nhân, gia đình và hệ thống y tế. Trên thế
giới, ước tính có 646.000 trường hợp té ngã tử
vong xảy ra mỗi năm, khiến nó trở thành
nguyên nhân thứ hai gây tử vong do thương
tích không chủ ý, sau chấn thương giao thông
đường bộ(14). Trong môi trường bệnh viện, té
ngã là sự kiện bất lợi thường gặp thứ ba được
báo cáo bởi Hệ thống Notivisa của Cơ quan
Giám sát Y tế Quốc gia (ANVISA)(14). Điều trị
té ngã có thể kéo dài thời gian nằm viện, gây
thêm gánh nặng kinh tế cho chi phí y tế và
cũng như hậu quả pháp lý. Vì vậy vấn đề
phòng ngừa té ngã, phòng ngừa những tổn
thương từ nhẹ đến nặng hoặc tử vong do té
ngã gây ra là cần thiết trong các cơ sở y tế.
Phòng ngừa té ngã là một trong những mục
tiêu quan trọng mà Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)
muốn hướng tới. Tại Việt Nam, Bộ Y tế đã ban
hành Thông tư 43 hướng dẫn phòng ngừa sự cố
y khoa trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
Trong đó, người bệnh tử vong hoặc di chứng
nghiêm trọng do té ngã trong lúc được chăm sóc
y tế tại cơ sở y tế là sự cố y khoa nghiêm trọng
cần báo cáo bắt buộc. Hơn nữa, đánh giá mức độ
nguy cơ té ngã là một trong những chỉ số đánh
giá chất lượng bệnh viện, liên quan đến an toàn
của người bệnh, đặc biệt là đối với người cao
tuổi(6). Vì vậy, các cơ sở y tế cần thiết sử dụng các
công cụ cụ thể, được xác nhận hợp lệ, cho phép
đánh giá chính xác về nguy cơ té ngã để họ có
thể ngăn ngừa và giảm các nguy cơ này trong
môi trường bệnh viện. Trong nghiên cứu này,
chúng tôi áp dụng thang đo té ngã Morse- một
công cụ đã được sử dụng tại nhiều nước trên thế
giới để đánh giá mức độ nguy cơ té ngã tại bệnh
viện một cách hiệu quả(15). Việc xác định mức độ
nguy cơ té ngã và các yếu tố liên quan sẽ hỗ trợ
việc định hướng chăm sóc của điều dưỡng để
thực hiện các biện pháp can thiệp góp phần
phòng ngừa hoặc giảm tỉ lệ té ngã trong bệnh
viện. Ngoài ra, việc sử dụng một công cụ cụ thể
sẽ bổ sung vào quy trình chăm sóc hỗ trợ điều
dưỡng lập kế hoạch chăm sóc, hành động can
thiệp phù hợp theo từng mức độ nguy cơ nhằm
đáp ứng nhu cầu của người bệnh khi nằm viện.
Đối tượng điều trị và chăm sóc tại Viện Y
dược học dân tộc Thành phố Hồ Chí Minh là
người cao tuổi, đa bệnh lý mãn tính, có nhiều
yếu tố nguy cơ té ngã nên chúng tôi thực hiện đề
tài nghiên cứu “Các yếu tố liên quan và nguy cơ
té ngã ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú”.
Với mong muốn qua việc xác định các yếu tố
liên quan và đánh giá, dự đoán được nguy cơ té
ngã sẽ giúp ích cho điều dưỡng phân loại, triển
khai chương trình phòng chống té ngã phù hợp
với người bệnh tại Viện Y dược học dân tộc
Thành phố Hồ Chí Minh.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định mức độ nguy cơ té ngã ở người
bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại Viện Y dược học
dân tộc TP. Hồ Chí Minh.
Xác định các yếu tố liên quan đến mức độ
nguy cơ té ngã ở người bệnh cao tuổi điều trị nội
trú tại Viện y dược học dân tộc TP. Hồ Chí Minh.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 135
ĐỐ TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Người bệnh ≥ 60 tuổi đang điều trị nội trú
các khoa lâm sàng của một bệnh viện khám chữa
bệnh bằng Y, Dược cổ truyền Thành phố Hồ Chí
Minh từ tháng 4 đến tháng 5 năm 2019.
Tiêu chuẩn chọn vào
Người bệnh Việt Nam ≥60 tuổi, điều trị nội
trú, đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Người bệnh không đồng ý tham gia nghiên
cứu, người bệnh đã tham gia nghiên cứu này
trước đó (người bệnh tái nhập viện trong thời
gian nghiên cứu), người bệnh liệt hoàn toàn,
không đứng được, người bệnh nặng, hôn mê,
cấp cứu, có vấn đề về tâm thần, giao tiếp.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Cỡ mẫu
Có 81 người bệnh (NB).
Kỹ thuật chọn mẫu
Chọn mẫu thuận tiện.
Phương pháp thu thập số liệu
Thu thập thông tin người bệnh theo phiếu
thu thập thông tin soạn sẵn. Sử dụng thang đo
Morse để đánh giá nguy cơ té ngã ở người
bệnh. Thực hiện đo cân nặng, chiều cao, đo
huyết áp xác định hạ huyết áp tư thế, đo thị
lực cho người bệnh. Ghi nhận tình trạng thuốc
đang sử dụng và chỉ định tập vật lý trị liệu qua
hồ sơ bệnh án. Mức độ nguy cơ té ngã của
người bệnh được thể hiện thông qua điểm số
nguy cơ té ngã được đánh giá bằng thang đo
Morse. Có 2 mức độ nguy cơ té ngã là nguy cơ
té ngã cao khi tổng điểm thang đo Morse ≥ 45
điểm và nguy cơ té ngã thấp khi tổng điểm
thang đo Morse từ 0 – 44 điểm.
Quản lý và phân tích số liệu
Sử dụng phần mềm SPSS 22.0.
Sử dụng phép kiểm Chi bình phương, hoặc
Fisher khi tần suất vọng trị của ít nhất một ô
trong Crosstabs nhỏ hơn 5 để phân tích đơn biến
các yếu tố nguy cơ. Các yếu tố có liên quan đến
mức độ nguy cơ té ngã trong phân tích đơn biến
gồm sử dụng từ 4 loại thuốc trở lên, sử dụng
thuốc huyết áp, vật lý trị liệu được đưa vào phân
tích hồi quy đa biến binary logistics.
Nghiên cứu sử dụng mức ý nghĩa α= 0,05 và
khoảng tin cậy 95%.
Y đức
Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng Y
đức Trường Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh số
11/ĐHYD-HĐĐD.
KẾT QUẢ
Trong 81 người bệnh tham gia nghiên cứu
với độ tuổi từ 60 đến 92 tuổi, nữ chiếm 69,1%, độ
tuổi từ 60-79 chiếm 84,0%, với tuổi trung bình là
71,2 tuổi (± 7,6). Phần lớn (82,7%) báo cáo có học
vấn từ tiểu học trở lên, nhưng vẫn còn số lượng
17,3% người bệnh không biết chữ.
Bảng 1. Phân bố người bệnh theo tiêu chí đánh giá
của thang đo Morse
Thang đo Morse Số NB Tỷ lệ (%)
Tiền sử té
ngã
Có 14 17,3
Không 67 82,7
Chẩn đoán
thứ phát
Có 63 77,8
Không 18 22,2
Sự hiện diện
truyền dịch
Có 7 8,6
Không 74 91,4
Dụng cụ hỗ
trợ
Không sử dụng 40 49,4
Có sự hỗ trợ 29 35,8
Vịn nội thất 12 14,8
Dáng đi
Bình thường 4 4,9
Suy yếu 31 38,3
Suy yếu, không thăng bằng 46 56,8
Tình trạng
tâm thần
Định hướng được bản thân 53 65,4
Quên có giới hạn/Không có
khả năng nhận biết hiện
thực/lơ mơ
28 34,6
Trong tiền sử té ngã, 17,3% người bệnh cho
biết đã từng bị té ngã trong vòng 12 tháng vừa
qua. Về chẩn đoán thứ phát, hơn hai phần ba
tổng số người bệnh (77,8%) được chẩn đoán mắc
nhiều hơn một bệnh. Tỷ lệ thấp 8,6% người bệnh
được ghi nhận có sự hiện diện của truyền dịch.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 136
Liên quan đến dụng cụ hỗ trợ, một nửa người
bệnh (49,4%) không sử dụng, một phần ba người
bệnh (35,8%) có cần sự hỗ trợ của dụng cụ hoặc
điều dưỡng, 14,8% người bệnh phải vịn nội thất
như tường, bàn ghế khi đi lại. Về dáng đi, hơn
một nửa người bệnh có dáng đi suy yếu, không
thăng bằng (56,8%) 38,3% người bệnh có dáng đi
suy yếu. Liên quan tình trạng tâm thần, phần lớn
người bệnh định hướng được bản thân (65,4%)
(Bảng 1). Mức độ nguy cơ té ngã của người bệnh:
phần lớn người bệnh cao tuổi điều trị nội trú có
mức độ nguy cơ té ngã cao (64,2%).
Bảng 2. Mối liên quan giữa đặc điểm người bệnh đến
mức độ nguy cơ té ngã theo thang đo Morse
Đặc điểm
Nguy cơ té ngã
OR (KTC 95%) p Thấp
n (%)
Cao
n (%)
Giới
Nam 8(9,9) 17(21,0)
1,28 (0,47- 3,47) 0,803
Nữ 21(25,9) 35(43,2)
Nhóm tuổi
60-79 25(30,9) 43(53,1)
1,30 (0,37- 4,70) 0,762
≥80 4(4,9) 9(11,1)
OR (Odds ratio): tỷ suất chênh; KTC: khoảng tin cậy,
p: ý nghĩa thống kê
Trong nghiên cứu, 43,2% nữ có mức độ nguy
cơ té ngã cao, gấp đôi tỷ lệ mức độ nguy cơ té
ngã cao ở nam. Hơn một nửa người bệnh trong
độ tuổi từ 60-79 tuổi (53,1%) có mức độ nguy cơ
té ngã cao. Sự khác biệt về mức độ nguy cơ té
ngã theo giới tính và nhóm tuổi không có ý
nghĩa thống kê (p >0,05) (Bảng 2).
Người bệnh có chỉ định tập vật lý trị liệu
có nguy cơ té ngã cao hơn so với người bệnh
không tập vật lý trị liệu với OR=6,05 (KTC
95%: 1,99–8,33), p=0,01. Người bệnh sử dụng
từ 4 loại thuốc trở lên có nguy cơ té ngã cao
hơn so với người bệnh sử dụng ít hơn 4 loại
thuốc, với OR=3,36 (KTC 95%: 1,16-9,73),
p=0,03. Người bệnh sử dụng thuốc huyết áp có
nguy cơ té ngã cao hơn so với người bệnh
không sử dụng thuốc huyết áp, với OR=7,818
(KTC 95%: 2,77-2,09), p <0,001. Sự khác biệt về
mức độ nguy cơ té ngã theo các yếu tố chỉ số
khối cơ thể, giảm thị lực, hạ huyết áp tư thế, sử
dụng thuốc thần kinh, thuốc kháng viêm,
thuốc lợi tiểu không có ý nghĩa thống kê
(p>0,05) (Bảng 3).
Bảng 3. Mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ đến mức độ nguy cơ té ngã theo thang đo Morse.
Yếu tố nguy cơ
Nguy cơ té ngã
OR (KTC 95%) p
Thấp n (%) Cao n (%)
BMI
Thiếu cân 1 (1,2) 6 (7,4)
0,226
a
Bình thường 18 (22,2) 36 (44,4)
Thừa cân, béo phì 10 (12,3) 10 (12,3)
Vật lý trị liệu
Có 5 (6,2) 29 (35,8) 6,05
(1,99 – 8,33)
0,010
Không 24 (29,6) 23 (28,4)
Giảm thị lực
Có 29 (35,8) 48 (59,3)
1,60 (1,35 - 1,91) 0,291
Không 0 (0,0) 4 (4,9)
Hạ huyết áp tư thế
Có 7(8,6) 24 (29,6) 2,69
(0,99 - 7,40)
0,06
Không 22 (27,2) 28 (34,6)
≥ 4 thuốc
Có 18 (22,2) 44 (54,3) 3,36
(1,16 - 9,73)
0,03
Không 11 (13,6) 8(9,9)
Thuốc thần kinh
Có 9 (11,1) 12 (14,8) 0,67 0,598
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 137
Yếu tố nguy cơ
Nguy cơ té ngã
OR (KTC 95%) p
Thấp n (%) Cao n (%)
Không 20 (24,7) 40 (49,4) (0,24 - 1,84)
Thuốc huyết áp
Có 11 (13,6) 43 (53,1) 7,82
(2,77 - 2,09)
<0,001
Không 18 (22,2) 9 (11,1)
Thuốc kháng viêm
Có 3(3,7) 3(3,7) 0,53
(0,10 - 2,82)
0,661
Không 26 (32,1) 49 (60,5)
Thuốc lợi tiểu
Có 3 (3,7) 3 (3,7) 0,53
(0,10 – 2,82)
0,451
Không 26 (32,1) 49 (60,5)
Kiểm định chi bình phương, OR (Odds ratio): tỉ suất chênh; KTC: khoảng tin cậy; p: ý nghĩa thống kê;
a Fisher’s exact; BMI: chỉ số khối cơ thể
Bảng 4. Kết quả phân tích đa biến về mối liên quan
giữa các yếu tố sử dụng ≥4 loại thuốc, thuốc huyết áp
và vật lý trị liệu đến mức độ nguy cơ té ngã theo
thang đo Morse
Yếu tố nguy cơ OR CI 95% p
Sử dụng ≥ 4 loại thuốc 0,92 0,23- 3,62 0,901
Sử dụng thuốc huyết áp 0,16 0,05- 0,60 0,006
Vật lý trị liệu 0,22 0,07- 0,72 0,012
Mô hình hồi quy đa biến; OR (Odds ratio): tỉ suất chênh;
CI: khoảng tin cậy; p: ý nghĩa thống kê
Sử dụng thuốc huyết áp là yếu tố ảnh
hưởng đến mức độ nguy cơ té ngã ở người
bệnh cao tuổi điều trị nội trú với OR=0,16
(KTC 95%: 0,05-0,60), p=0,006. Vật lý trị liệu
ảnh hưởng đến mức độ nguy cơ té ngã với
OR=0,22 (KTC 95%: 0,07-0,72), p=0,012 (Bảng 4).
BÀN LUẬN
Nghiên cứu không tìm thấy mối tương quan
giữa tuổi đến mức độ nguy cơ té ngã. Tuy nhiên,
té ngã liên quan đến vấn đề thể chất có nguồn
gốc từ quá trình lão hóa. Sự thay đổi chức năng
và cấu trúc trong giai đoạn lão hóa làm giảm sức
mạnh cơ bắp. Sự suy giảm về sức mạnh cơ bắp
và sự linh hoạt của khớp có thể làm thay đổi sự
đi lại hoặc đứng lên, ngồi xuống ghế của người
cao tuổi(3).
Chúng tôi không tìm thấy mối tương quan
giữa giới tính đến mức độ nguy cơ té ngã. Tuy
nhiên Painter(5) đã cho rằng phụ nữ té ngã
thường xuyên hơn nam giới trong nhóm tuổi từ
71 đến 80 tuổi.
Tỷ lệ người bệnh cho biết đã té ngã trong 12
tháng vừa qua là 17,3%. Một nghiên cứu đã
chứng minh người cao tuổi bị té ngã trong 6
tháng qua có nguy cơ té ngã cao hơn 1,675 lần so
với người không tiền sử té ngã(6).
Gần 80% người bệnh cao tuổi tham gia trong
nghiên cứu này có chẩn đoán mắc nhiều hơn 1
bệnh. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu
của Falcao(6) có 80,3%. Tại Việt Nam trung bình 1
người cao tuổi Việt Nam mắc 3 bệnh(12). Theo
một nghiên cứu ở Canada, bệnh cao huyết áp
làm tăng nguy cơ té ngã(14). Bệnh cơ xương khớp
làm tăng nguy cơ té ngã 2,4 lần(1). Đái tháo
đường làm tăng nguy cơ gấp đôi té ngã(12).
Tỷ lệ người bệnh cao tuổi đang truyền dịch
gần 9%. Kết quả này thấp hơn nhiều so với
nghiên cứu tại Braxin của Falcao(6) gần 70%. Có
sự khác biệt này là do đặc trưng của Viện Y dược
học Dân tộc là áp dụng các phương pháp không
dùng thuốc như châm cứu, xoa bóp bấm huyệt,
vật lý trị liệu, cấy chỉ, ôn châm để điều trị cho
người bệnh(2).
Khoảng 49% người bệnh đi lại không cần sử
dụng sự hỗ trợ từ dụng cụ hoặc điều dưỡng. Tỷ
lệ này chỉ gần bằng một nửa so với nghiên cứu
của Falcao(6) tại Braxin là 86%. Tỷ lệ người bệnh
cần sự hỗ trợ từ dụng cụ hoặc điều dưỡng khi đi
lại trong nghiên cứu là 36%, cao gấp ba lần so
với kết quả của Falcao(6) là 9,5%. Tỷ lệ người
bệnh phải vịn nội thất như bàn ghế, tường để đi
lại khoảng 15%, cao gấp ba lần nghiên cứu của
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 138
Falcao(6) là 5,6%.
Số người bệnh có dáng đi suy yếu, không
thăng bằng chiếm tỉ lệ cao nhất gần 60%, cao hơn
nhiều so với nghiên cứu tại Braxin của Falcao(6)
là 11%. Người bệnh có dáng đi yếu ớt hoặc ngồi
xe lăn khi đi lại có tỷ lệ 38,3%. Trong nghiên cứu,
hơn một nửa người bệnh có bệnh lý di chứng tai
biến mạch máu não, cơ xương khớp và ung thư
với dáng đi suy yếu, không thăng bằng. Điều
dưỡng cần chú trọng việc có thân nhân chăm sóc
hỗ trợ đi lại khi cần.
Liên quan đến tình trạng tâm thần, nghiên
cứu ghi nhận được 65,4% người bệnh định
hướng được bản thân. Kết quả này thấp hơn
kết quả nghiên cứu của Falcao(6) có 95,1%. Tuổi
tác và lão hóa là nguyên nhân chính gây nên
tình trạng lú lẫn ở người cao tuổi. Bệnh lý đột
quỵ, tai biến mạch máu não gây tổn thương tế
bào não dẫn đến giảm trí nhớ. Việc sử dụng
các thuốc huyết áp, thuốc an thần cũng gây
giảm trí nhớ ở người cao tuổi(12). Điều dưỡng
cần cảnh báo với người nhà người bệnh về
tình trạng tâm thần. Điều dưỡng hướng dẫn
chế độ ăn, quản lý thuốc chặt chẽ không để
người bệnh tự uống thuốc. Mang vòng đeo
tay, bảng có ghi thông tin người bệnh.
Người bệnh có mức độ nguy cơ té ngã cao
chiếm tỷ lệ cao nhất gần 60%. Nghiên cứu của
Falcao và Sarges cũng có mức độ nguy cơ té ngã
cao chiếm tỷ lệ trên 40%(6,9). Nghiên cứu của
Mata có mức độ nguy cơ té ngã cao chiếm tỷ lệ
thấp nhất khoảng 35%(8). Các nghiên cứu trên đã
chứng minh ít nhất một phần ba số người bệnh
nhập viện có nguy cơ té ngã cao. Do đó, nhân
viên y tế cần thực hiện các khuyến cáo phòng
ngừa, các giải pháp tác động đến yếu tố nguy cơ
cũng như nguyên nhân gây té ngã để giảm tần
suất xuất hiện tình huống suýt xảy ra té ngã dẫn
đến giảm sự cố té ngã.
Có mối liên quan giữa người bệnh có chỉ
định tập vật lý trị liệu với nguy cơ té ngã. Người
bệnh có chỉ định tập vật lý trị liệu có nguy cơ té
ngã cao hơn so với người bệnh không có chỉ
định tập vật lý trị liệu. Điều này khác biệt với các
nghiên cứu khác vì trong nghiên cứu có 40%
người bệnh di chứng tai biến mạch máu não. Tại
Viện y dược học dân tộc, người bệnh di chứng
tai biến mạch máu não hầu hết đều có chỉ định
tập vật lý trị liệu(7) (theo phác đồ điều trị khoa Y
dược cổ truyền). Mà những đối tượng này đều
có nhiều yếu tố nguy cơ gây té ngã như yếu cơ,
yếu tay chân, đi lại khó khăn, mất thăng bằng
khi đi lại, có các bệnh lý kết hợp, sử dụng nhiều
loại thuốc nên họ có nguy cơ té ngã cao. Điều
này dẫn đến kết quả người bệnh có chỉ định tập
vật lý trị liệu có nguy cơ té ngã cao. Các nghiên
cứu chứng minh biện pháp tập vật lý trị liệu như
thủy trị liệu, tập tăng sức cơ tứ đầu đùi, cơ vai
gây phòng ngừa hoặc giảm nguy cơ té ngã(15).
Điều dưỡng cần phối hợp, trao đổi thống nhất
với bác sĩ về những hướng dẫn chế độ vận động,
tập luyện để tăng sức cơ, các bài tập phải phù
hợp tình trạng bệnh lý và thể trạng người bệnh.
Có mối liên quan giữa việc người bệnh sử
dụng từ 4 loại thuốc trở lên đến mức độ nguy cơ
té ngã. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu
của Milbrandt B, việc sử dụng từ 4 loại thuốc trở
lên, uống thuốc theo toa hoặc không theo toa
làm tăng nguy cơ té ngã ở người cao tuổi(9). Tác
giả đã lý giải rằng việc sử dụng càng nhiều
thuốc càng làm tăng xuất hiện các tác dụng
phụ(9). Việc giảm tổng số thuốc mà người bệnh
đang sử dụng xuống còn bốn hoặc ít hơn nếu có
thể, cũng đã được chứng minh là làm giảm nguy
cơ té ngã(15).
Nghiên cứu cũng tìm thấy mối liên quan
giữa việc sử dụng thuốc huyết áp và mức độ
nguy cơ té ngã. Kết quả này giống với nghiên
cứu của Woolcott C, thuốc điều trị huyết áp có
liên quan đến té ngã(17). Người bệnh sử dụng
thuốc hạ áp có nguy cơ té ngã, và trong một vài
trường hợp nguy cơ này cao hơn gấp tám lần khi
so sánh với các loại thuốc khác(8). Điều dưỡng
cần theo dõi huyết áp, ghi nhận triệu chứng
không mong muốn như chóng mặt, mệt mỏi,
buồn ngủ, lập kế hoạch và thực hiện các can
thiệp trên các triệu chứng đó. Đồng thời hướng
dẫn chế độ ăn ít natri và kiểm soát cân nặng. Cần
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 139
lựa chọn thuốc, điều chỉnh liều tối ưu cho từng
người bệnh sao cho hạn chế tối đa các tác dụng
không mong muốn của thuốc hạ áp.
Không tìm thấy mối tương quan giữa giảm
thị lực và mức độ nguy cơ té ngã. Nghiên cứu
ghi nhận đến 95% người bệnh giảm thị lực trong
đó có tới 59% người bệnh có nguy cơ té ngã cao.
Giảm thị lực là một trong những thay đổi do quá
trình lão hóa gây ra sự giảm ổn định tư thế, tạo
điều kiện cho sự té ngã. Nghiên cứu của Remor
ghi nhận trong số những người đã té ngã có đến
88,6% bị giảm thị lực(7). Điều dưỡng cần xem thị
lực như là một yếu tố để đánh giá nguy cơ té ngã
cho người bệnh khi nhập viện. Khi xác định
người bệnh có giảm thị lực, hướng dẫn người
bệnh khám chuyên khoa mắt để có biện pháp
can thiệp phù hợp với nguyên nhân gây giảm thị
lực ở từng người bệnh.
Như một hạn chế của nghiên cứu, các kết
quả không thể đại diện cho tất cả các bối cảnh
bệnh viện do cỡ mẫu nhỏ, thời gian nghiên cứu
ngắn, đặc điểm người bệnh chưa mang tính đại
diện cao.
KẾT LUẬN
Ứng dụng thang đo Morse trong lâm sàng
giúp điều dưỡng định hướng, xác định mức độ
nguy cơ té ngã. Ba yếu tố liên quan đến mức độ
nguy cơ té ngã ở người bệnh cao tuổi điều trị nội
trú là sử dụng từ 4 loại thuốc trở lên, thuốc
huyết áp và vật lý trị liệu.
Trước những nguy cơ mà người cao tuổi gặp
phải trong thời gian nằm viện, điều dưỡng cần
nhấn mạnh tầm quan trọng của người thân bên
cạnh người bệnh như là một biện pháp tốt trong
việc ngăn ngừa té ngã, đặc biệt là ở những người
có nguy cơ cao. Bệnh viện cần xem xét và áp
dụng một thang đo để đánh giá nguy cơ té ngã ở
người bệnh khi nhập viện. Lập kế hoạch đào tạo
cho điều dưỡng về thực hành sử dụng thang đo
này. Thiết lập các hướng dẫn can thiệp điều
dưỡng phù hợp với từng mức độ nguy cơ té ngã
và với các yếu tố liên quan đã xác định.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. American Geriatrics Society, British Geriatrics Society, American
Academy of Orthopaedic Surgeons Panel on Falls Prevention
(2001). "Guideline for the Prevention of Falls in Older Persons". J
Am Geriatr Soc, 49(5):664–72.
2. Bộ y tế (2008). "94 quy trình kỹ thuật y học cổ truyền". Cục xuất
bản- Văn hóa thông tin, 1:28-98.
3. Chu JJ, Chen XJ, Shen SS, et al (2015). "A poor performance in
comprehensive geriatric assessment is associated with increased
fall risk in elders with hypertension: a cross-sectional study". J
Geriatr Cardiol, 12(2):113-8.
4. Đặng Trọng Thanh (2016). Báo cáo chung tổng quan ngành Y tế
năm 2016- Hướng tới mục tiêu già hoá khoẻ mạnh ở Việt Nam.
Bộ Y tế Việt Nam, pp 66-94.
5. Dionyssiotis Y (2012). "Analyzing the problem of falls among
older people". Int J Gen Med, 5:805-13.
6. Falcao RMM, Costa K, Fernandes M, et al (2019). "Risk of falls in
hospitalized elderly people". Rev Gaucha Enferm, 40:e20180266.
7. Huỳnh Thị Cúc (2014). "Phác đồ điều trị khoa Y dược cổ
truyền". Bệnh viện Đa khoa An Phú, pp. 5-9.
8. Mata L, Azevedo C, Policarpo AG, et al (2017). "Factors
associated with the risk of fall in adults in the postoperative
period: a cross-sectional study". Rev Lat Am Enfermagem,
25:e2904.
9. Milbrandt EB, Angus DC (2009). "Chapter 19. Critical Care".
Hazzard's Geriatric Medicine and Gerontology, 340(9):669–676.
10. Painter JA, Elliott SJ (2009). "Influence of Gender on Falls".
Physical & Occupational Therapy In Geriatrics, 27(6):387-404.
11. Remor CP, Cruz CB, Urbanetto JS (2014). "Analysis of fall risk
factors in adults within the first 48 hours of hospitalization". Rev
Gaucha Enferm, 35(4):28-34.
12. Roman de Mettelinge T, Cambier D, Calders P, et al (2013).
"Understanding the Relationship between Type 2 Diabetes
Mellitus and Falls in Older Adults: A Prospective Cohort
Study". PLoS One, 8(6):e67055
13. Sarges NA, Santos M, Chaves EC (2017). "Evaluation of the
safety of hospitalized older adults as for the risk of falls". Rev
Bras Enferm, 70(4):860-867.
14. Sibley KM, Voth J, Munce SE, et al. (2014). "Chronic disease and
falls in community-dwelling Canadians over 65 years old: A
population-based study exploring associations with number
and pattern of chronic conditions". BMC Geriatr, 14:22
15. Urbanetto de JS, Creutzberg M, Franz F, et al (2013). "Morse Fall
Scale: translation and transcultural adaptation for the
Portuguese language". Rev Esc Enferm USP, 47(3):569-75.
16. Who (2007). "WHO Global Report on Falls Prevention in Older
Age". Ageing and Life Course, Family and Community Health, pp.53.
17. Woolcott JC, Richardson KJ, Wiens MO, et al (2009). "Meta-
analysis of the impact of 9 medication classes on falls in elderly
persons". Arch Intern Med, 169(21):1952–60.
Ngày nhận bài báo: 30/07/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/08/2019
Ngày bài báo được đăng: 10/10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nguy_co_te_nga_o_nguoi_benh_cao_tuoi_dieu_tri_noi_tru_1359_2212013.pdf