Tài liệu Nguy cơ tái phát muộn sau đột quỵ thiếu máu não cục bộ cấp và vai trò của liệu pháp Statin: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 90
NGUY CƠ TÁI PHÁT MUỘN SAU ĐỘT QUỴ
THIẾU MÁU NÃO CỤC BỘ CẤP VÀ VAI TRÒ CỦA LIỆU PHÁP STATIN
Đinh Hữu Hùng*, Vũ Anh Nhị**, Đỗ Văn Dũng**
TÓM TẮT
Mở đầu: Mặc dù đã có nhiều tiến bộ quan trọng trong điều trị dự phòng tái phát sau đột quỵ thiếu máu não
cục bộ cấp nhưng tỷ suất tái phát vẫn còn cao, nhất là trong năm đầu tiên.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ suất tái phát đột quỵ não tích lũy tại thời điểm 1 năm và mối liên quan
giữa liệu pháp statin và nguy cơ tái phát muộn sau đột quỵ thiếu máu não cục bộ cấp.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ quan sát, tiến cứu. Ước tính Kaplan-Meier và mô hình hồi
quy Cox đã được sử dụng để xác định tỷ suất tái phát đột quỵ não tích lũy và mối liên quan giữa liệu pháp statin
và nguy cơ tái phát muộn sau đột quỵ thiếu máu não cục bộ cấp.
Kết quả: Từ năm 2010 đến 2012, chúng tôi đã thu thập được 405 bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não c...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 213 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguy cơ tái phát muộn sau đột quỵ thiếu máu não cục bộ cấp và vai trò của liệu pháp Statin, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 90
NGUY CƠ TÁI PHÁT MUỘN SAU ĐỘT QUỴ
THIẾU MÁU NÃO CỤC BỘ CẤP VÀ VAI TRÒ CỦA LIỆU PHÁP STATIN
Đinh Hữu Hùng*, Vũ Anh Nhị**, Đỗ Văn Dũng**
TÓM TẮT
Mở đầu: Mặc dù đã có nhiều tiến bộ quan trọng trong điều trị dự phòng tái phát sau đột quỵ thiếu máu não
cục bộ cấp nhưng tỷ suất tái phát vẫn còn cao, nhất là trong năm đầu tiên.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ suất tái phát đột quỵ não tích lũy tại thời điểm 1 năm và mối liên quan
giữa liệu pháp statin và nguy cơ tái phát muộn sau đột quỵ thiếu máu não cục bộ cấp.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ quan sát, tiến cứu. Ước tính Kaplan-Meier và mô hình hồi
quy Cox đã được sử dụng để xác định tỷ suất tái phát đột quỵ não tích lũy và mối liên quan giữa liệu pháp statin
và nguy cơ tái phát muộn sau đột quỵ thiếu máu não cục bộ cấp.
Kết quả: Từ năm 2010 đến 2012, chúng tôi đã thu thập được 405 bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não cục bộ
cấp. Thời gian theo dõi trung bình là 1 năm. Tỷ suất tái phát đột quỵ não tích lũy tại các thời điểm 1 năm là
23,3%. Liệu pháp statin có liên quan độc lập với sự làm giảm nguy cơ tái phát muộn sau đột quỵ thiếu máu não
cục bộ cấp.
Kết luận: Tỷ suất tái phát đột quỵ não tích lũy tại thời điểm 1 năm ở mức cao (23,3%). Liệu pháp statin có
liên quan độc lập với sự làm giảm nguy cơ tái phát muộn sau đột quỵ thiếu máu não cục bộ cấp.
Từ khóa: nguy cơ, tái phát, đột quỵ thiếu máu não cục bộ cấp, statin
ABSTRACT
THE RISK OF LATE RECURRENCE AFTER ACUTE ISCHEMIC STROKE AND THE ROLE OF
STATIN THERAPY
Dinh Huu Hung, Vu Anh Nhi, Do Van Dung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 2 - 2017: 90 - 96
Background: Despite important advances in treatments for secondary prevention after acute ischemic stroke,
the risk of stroke recurrence was high, especially during the first year.
Objective: We aimed to determine the cumulative stroke recurrence rate at 1 year and the association
between statin therapy and the risk of late recurrence after acute ischemic stroke.
Methods: This was a prospective observational cohort study. The Kaplan-Meier estimator and Cox
proportional hazards models were used to assess the cumulative stroke recurrence rate at 1 year and the
association between statin therapy and the risk of late recurrence after acute ischemic stroke.
Results: 405 patients with acute ischemic stroke were included in the study from 2010 to 2012. The
mean follow-up period was one year. As found in the study, the cumulative rate of stroke recurrence at 1
year was 23.3%. Statin therapy was independently associated with decreased risk for late recurrence after
acute ischemic stroke.
Conclusion: The cumulative rate of stroke recurrence at 1 year was high (23.3%). Statin therapy was
independently associated with decreased risk for late recurrence after acute ischemic stroke.
Keywords: risk, recurrence, acute ischemic stroke, statin
* Khoa Y Dược, Đại học Tây Nguyên, **Đại học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: TS. Đinh Hữu Hùng ĐT: 0905291295 Email: dhnmcc@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 91
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đột quỵ não với hơn 80% là thiếu máu não
cục bộ cấp luôn là vấn đề thời sự của y học. Bệnh
nhân đột quỵ não luôn phải đối mặt với nguy cơ
tái phát rất cao, nhất là trong năm đầu tiên. Theo
Burn và cộng sự (cs), nguy cơ tái phát tích lũy tại
thời điểm 1 năm là cao nhất và gấp đến 15 lần so
với dân số chung(4). Mặt khác, Hardie và cs đã
chỉ ra rằng nguy cơ tái phát tại thời điểm 1 năm
ở mức đáng báo động (16%)(6). Nguy hiểm hơn
khi tỷ lệ tử vong, tàn tật và chi phí điều trị của
đột quỵ não tái phát đều cao hơn so với đột quỵ
não lần đầu(12).Vì vậy, để góp phần làm giảm
gánh nặng do đột quỵ não gây ra, việc dự phòng
đột quỵ não tái phát là vấn đề cốt lõi. Theo y văn,
đã có nhiều nghiên cứu về nguy cơ tái phát sau
đột quỵ não và một số yếu tố liên quan, bao gồm
một số yếu tố bảo vệ. Tuy nhiên, ở nước ta, số
lượng nghiên cứu khảo sát về khía cạnh trên còn
hạn chế. Vì vậy, chúng tôi đã tiến hành thực hiện
đề tài này với mục tiêu:
-Xác định tỷ suất tái phát đột quỵ não tích
lũy tại thời điểm 1 năm sau đột quỵ thiếu máu
não cục bộ cấp.
-Xác định mối liên quan giữa liệu pháp statin
và nguy cơ tái phát muộn sau đột quỵ thiếu máu
não cục bộ cấp.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Là những bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não
cục bộ cấp nhập vào khoa Nội, Bệnh viện đa
khoa tỉnh Đắk Lắk từ tháng 9 năm 2010 đến
tháng 7 năm 2012 và có đủ tiêu chuẩn chọn mẫu.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Tiêu chuẩn chọn vào
Bệnh nhân được chẩn đoán xác định là đột
quỵ thiếu máu não cục bộ cấp theo tiêu chuẩn
lâm sàng của Tổ chức Y tế Thế giới và hình ảnh
chụp cắt lớp vi tính sọ não, đồng thời có địa chỉ
thường trú rõ ràng và/hoặc có số điện thoại
và/hoặc có địa chỉ thư điện tử.
Tiêu chuẩn loại ra
(1) Bệnh nhân có tiền sử đột quỵ nhưng lần
này nhập viện điều trị vì bệnh khác,
(2) bệnh nhân có một số bệnh lý làm ảnh
hưởng đến kết quả của một số xét nghiệm như
chấn thương hoặc phẫu thuật trong vòng 3 ngày
trước khi đột quỵ não khởi phát, bệnh tự miễn,
bệnh lý khối u, bỏng, bệnh gan mức độ nặng, và
bệnh nhiễm khuẩn cấp hoặc mạn tại thời điểm
nhập viện,
(3) bệnh nhân không làm được đầy đủ các
thông số cần thiết, và
(4) bệnh nhân không đồng ý tham gia
nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu đoàn hệ quan sát, tiến cứu.
Phương pháp chọn mẫu
Chọn liên tiếp tất cả những bệnh nhân được
chẩn đoán là đột quỵ thiếu máu não cục bộ cấp
vào khoa Nội, Bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk
từ tháng 9 năm 2010 đến tháng 7 năm 2012 và
thỏa mãn tiêu chuẩn chọn mẫu (phải đảm bảo cỡ
mẫu tối thiểu cho nghiên cứu).
Cỡ mẫu
Trong nghiên cứu này, có nhiều yếu tố phơi
nhiễm có thể có liên quan với nguy cơ tái phát
sau đột quỵ thiếu máu não cục bộ cấp. Tuy
nhiên, để thuận tiện và đảm bảo tính chính xác
cho việc tính toán, chúng tôi đã chọn ra một số
yếu tố phơi nhiễm quan trọng như tăng huyết
áp, đái tháo đường và rung nhĩ (dựa vào kết quả
của một số nghiên cứu trước) để tính cỡ mẫu
theo công thức dành cho nghiên cứu đoàn hệ,
tiến cứu có sử dụng phương pháp phân tích
sống còn. Trong đó, với tỷ lệ phát sinh ở hai
nhóm không có và có yếu tố phơi nhiễm trong
thời gian theo dõi lần lượt là p1 và p2 thì tỷ số
nguy cơ h (hazard ratio hay HR) sẽ được tính
theo công thức sau:
1
2
e
e
log ( p )
h
log ( p )
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 92
Ứng với mỗi yếu tố được chọn, chúng tôi
ước định các giá trị HR và p2 theo một số nghiên
cứu trước. Từ đó, chúng tôi sẽ tính được giá trị
của p1. Lúc này cỡ mẫu tối thiểu cần lấy cho mỗi
nhóm sẽ được tính theo công thức sau:
2
2
1 2
1
2 1
C( h )
n
( p p )( h )
Chọn α = 0,05, lực mẫu = 90% thì C = 10,51 và
chúng tôi đã tính được cỡ mẫu tối thiểu cần lấy
là 330 bệnh nhân (đã dự phòng 10% cho những
trường hợp mất mẫu).
Phương pháp thu thập số liệu
Thu thập thông tin khi bệnh nhân nhập viện
Bệnh nhân được thăm khám lâm sàng tỉ mỉ
và cho làm đầy đủ các cận lâm sàng để thu thập
những thông tin cần thiết về các biến số: (1) Lâm
sàng: tuổi, giới, dân tộc, tình trạng hôn nhân,
điểm Rankin sửa đổi lúc ra viện,... (2) Cận lâm
sàng: Xét nghiệm máu, điện tâm đồ, siêu âm tim,
siêu âm động mạch cảnh, chụp cắt lớp vi tính sọ
não. Đối với những bệnh nhân không đủ chi phí
để làm các cận lâm sàng cần thiết thì chúng tôi
sẵn sàng hỗ trợ đầy đủ, và (3) các thông tin khác,
bao gồm số điện thoại cố định, di động của bệnh
nhân và người nhà bệnh nhân đã được ghi chép
cẩn thận. Đồng thời, chúng tôi cũng đã giải thích
rõ về mục đích của nghiên cứu để bệnh nhân và
người nhà bệnh nhân hiểu rõ. Từ đó họ tự
nguyện tham gia vào nghiên cứu.
Thu thập thông tin trong quá trình theo dõi
Chúng tôi đã tiến hành theo dõi ngay khi
bệnh nhân vào viện. Khi ra viện, bệnh nhân
và/hoặc người nhà bệnh nhân được: (1) bác sĩ
điều trị của bệnh viện tư vấn về các biện pháp
điều trị tiếp theo, bao gồm cả điều trị dự phòng
tái phát, (2) cung cấp những thông tin nhằm
giúp nhận ra các triệu chứng của đột quỵ não tái
phát, (3) cung cấp số điện thoại của chúng tôi để
họ có thể liên lạc bất kỳ lúc nào, và (4) được giải
thích là cần phải nhập viện càng sớm càng tốt
nếu có triệu chứng nghi ngờ đột quỵ não tái phát
đồng thời gọi điện cho chúng tôi ngay để được
hướng dẫn kịp thời.
Sau khi ra viện: Bệnh nhân được tiếp tục
theo dõi đều đặn thông qua điện thoại hoặc
khám trực tiếp trung bình từ 1 đến 3 tháng một
lần cho đến khi có biến cố đột quỵ não tái phát
hoặc bị tử vong hoặc mất theo dõi (thời điểm kết
thúc nghiên cứu là 31/12/2012). Qua đó chúng tôi
có thể ghi nhận được những thông tin về biến cố
đột quỵ não tái phát cũng như một số biện pháp
điều trị. Đặc biệt, đối với những bệnh nhân có
nguy cơ bị mất theo dõi, chúng tôi đã tăng cường
liên lạc thường xuyên hơn, đồng thời xin bổ
sung ngay số điện thoại và địa chỉ của người
thân bệnh nhân nhằm hạn chế tối đa tình trạng
mất mẫu.
Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm STATA
10.0. Trong đó, hai phép toán thống kê quan
trọng đã được dùng là ước tính Kaplan-Meier
(giúp xác định tỷ suất tái phát tích lũy) và mô
hình hồi quy Cox (xác định một số yếu tố liên
quan với nguy cơ tái phát đột quỵ). Các biến
số thu thập khi bệnh nhân nhập viện được
xem là các yếu tố phơi nhiễm và biến cố đột
quỵ não tái phát được xem là biến số phụ
thuộc. Các bệnh nhân đột quỵ não tái phát
trong quá trình theo dõi được mã hóa là 1.
Nhóm còn lại, bao gồm (1) không bị đột quỵ
não tái phát và vẫn còn sống đến thời điểm kết
thúc nghiên cứu, (2) tử vong không do đột quỵ
não tái phát và (3) mất theo dõi đều được mã
hóa là 0. Trước hết, giá trị HR và p đối với
từng yếu tố phơi nhiễm (bao gồm cả yếu tố
dùng nhóm statin sau khi ra viện) được xác
định qua phân tích hồi quy Cox đơn biến. Tiếp
theo, các yếu tố có hoặc gần có ý nghĩa thống
kê (p < 0,1) qua phân tích đơn biến được đưa
vào mô hình phân tích hồi quy Cox đa biến
nhằm xác định giá trị HR hiệu chỉnh.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
Các yếu tố về dân số học
Thực tế chúng tôi đã thu thập và theo dõi
được 405 bệnh nhân. Trong đó, hơn 60% bệnh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 93
nhân thuộc nhóm tuổi ≥ 65. Tuổi trung bình là
68,8±13,1 (thấp nhất là 29 và cao nhất là 103). Tỷ
lệ nam giới và nữ giới gần bằng nhau. Người
Kinh chiếm đại đa số (khoảng 80% trường hợp),
tiếp theo là người Ê đê (9,6%) và còn lại là các
dân tộc khác.
Một số đặc điểm liên quan đến quá trình theo dõi
Bảng 1: Một số đặc điểm liên quan đến quá trình theo dõi.
Một số đặc điểm
Tần số
(n=405)
Số bệnh nhân được theo dõi 405
Số bệnh nhân bị đột quỵ não tái phát 92
Số bệnh nhân mất theo dõi 3
Số bệnh nhân tử vong không do đột quỵ não tái phát 33
Thời gian theo dõi trung bình (năm) 1
Tỷ suất tái phát tích lũy tại thời điểm 1 năm sau đột quỵ thiếu máu não cục bộ cấp là 23,3%
Mối liên quan giữa liệu pháp statin và nguy cơ tái phát sau đột quỵ thiếu máu não cục bộ cấp
Bảng 2: Kết quả phân tích hồi quy Cox về vai trò của liệu pháp statin đối với nguy cơ tái phát.
Phân tích hồi quy Cox Yếu tố liên quan HR* KTC*95% p
Đơn biến Có dùng statin 0,50 0,33 - 0,75 0,001
Đa biến** Có dùng statin 0,57 0,36 - 0,93 0,023
Bảng 3: Mối liên quan giữa liệu pháp statin và nguy cơ tái phát theo phân nhóm nguyên nhân của đột quỵ thiếu
máu não cục bộ cấp theo phân loại TOAST (Trial of Org 10172 in Acute Stroke Treatment).
Yếu tố liên quan Phân nhóm nguyên nhân HR* KTC*95% p
Có dùng statin Bệnh máu máu nhỏ 0,45 0,18 - 1,11 0,083
Nguyên nhân khác/chưa rõ nguyên nhân 0,73 0,37 - 1,44 0,369
Xơ vữa động mạch lớn 0,18 0,05 - 0,60 0,006
Lấp mạch từ tim 0,40 0,19 - 0,86 0,019
*HR (hazard ratio): tỷ số nguy cơ; KTC: khoảng tin cậy;
** Một số biến số khác cùng có trong mô hình phân tích hồi quy Cox đa biến: Tuổi ≥ 65, trình độ học vấn thấp (từ tiểu học trở
xuống), tiền sử đột quỵ não/cơn thiếu máu não thoáng qua, tiền sử nhồi máu cơ tim, liệt vận động mức độ nặng, điểm Rankin
sửa đổi lúc ra viện > 2, rung nhĩ, hẹp van hai lá, hẹp nặng động mạch cảnh (≥ 70%), nồng độ HDL-Cholesterol thấp (<
40mg/dL), nồng độ hs-CRP > 3 mg/L, có dùng thuốc chống kết tập tiểu cầu sau khi ra viện.
0.00
0.10
0.20
0.30
0.40
0.50
0.60
0.70
T
æ
s
u
a
át
ta
ùi
p
h
a
ùt
tí
c
h
l
u
õy
0 90 180 270 360 450 540 630 720
Thôøi gian theo doõi (ngaøy)
Khoâng duøng
Coù duøng
Tæ suaát taùi phaùt tích luõy theo lieäu phaùp statins
Biểu đồ 1: Tỷ suất tái phát đột quỵ não tích lũy theo
liệu pháp statin.
BÀN LUẬN
Tỷ suất tái phát tích lũy sau đột quỵ thiếu
máu não cục bộ cấp tại thời điểm 1 năm
Tại Việt Nam, cho đến nay hầu như chưa
có công trình nghiên cứu nào về nguy cơ tái
phát sau đột quỵ não có thời gian theo dõi
bệnh nhân trung bình > 6 tháng. Do đó, có thể
nói rằng đây là nghiên cứu đầu tiên ở nước ta
báo cáo về tỷ suất tái phát đột quỵ tích lũy tại
thời điểm 1 năm với giá trị lên tới 23,3%, cao
hơn nhiều so với hầu hết các nghiên cứu khác
trên thế giới và đáng phải báo động. Nhìn
chung, tỷ suất tái phát đột quỵ não tích lũy tại
P = 0,001
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 94
thời điểm trên thường chỉ ở mức từ 10% đến
14%(4,11). Điển hình, theo Burn và cộng sự, tỷ
suất tái phát tích lũy sau đột quỵ não tại thời
điểm 1 năm là cao nhất (13%) và gấp 15 lần so
với dân số chung(4). Tuy nhiên, trong một số
nghiên cứu khác, đặc biệt là các nghiên cứu ở
Châu Á, tỷ suất tái phát đột quỵ não tích lũy
tại thời điểm này ở mức cao hơn và gần bằng
với kết quả của chúng tôi. Chẳng hạn, trong
một nghiên cứu của Kono và cộng sự ở Nhật
Bản năm 2011 thì giá trị của con số này lên
tới 18,6%(8).
Theo y văn, chưa có sự đồng nhất về tỷ
suất tái phát sau đột quỵ não giữa các nghiên
cứu. Thật vậy, điều này đã được chứng minh
rõ ràng và cụ thể bởi Mohan và cộng sự qua
một phân tích tổng hợp năm 2011. Cụ thể, có
sự khác biệt có ý nghĩa về tỷ suất tái phát đột
quỵ não tích lũy tại thời điểm 1 năm giữa các
nghiên cứu với giá trị p < 0,00001. Trong đó,
những lý do giải thích cho sự khác biệt này
cũng đã được các tác giả chỉ ra như sự khác
nhau về đối tượng và thiết kế nghiên cứu, về
định nghĩa đột quỵ não tái phát được sử dụng,
sự tiến bộ về điều trị dự phòng tái phát theo
thời gian, và sự khác biệt theo vùng địa lý(11).
Tuy vậy, cũng qua phân tích này, Mohan và cs
đã nhấn mạnh rằng không có sự khác biệt
đáng kể về nguy cơ tái phát tích lũy tại thời
điểm 1 năm giữa những nghiên cứu dựa vào
cộng đồng và bệnh viện(11).
Mặc dù chưa có sự thống nhất giữa các
nghiên cứu, song rõ ràng sau khi biến cố đột quỵ
não xảy ra, bệnh nhân luôn phải đối mặt với
nguy cơ tái phát cao, nhất là ở các nước thuộc
khu vực châu Á, bao gồm cả Việt Nam. Trên
thực tế, mốc thời điểm 1 năm mà chúng tôi khảo
sát là vô cùng quan trọng bởi hầu hết các trường
hợp tái phát sau đột quỵ thiếu máu não cục bộ
thường xảy ra trong năm đầu tiên(4,11). Hơn nữa,
sau mốc thời gian đáng chú ý này, tuy tỷ suất tái
phát đột quỵ tích lũy vẫn tăng dần đều nhưng
chỉ ở mức thấp hơn(11). Qua đây ta thấy rằng
nguy cơ tái phát sau đột quỵ não, nhất là trong
năm đầu tiên là một thách thức vô cùng quan
trọng đối với nền y tế trên toàn cầu và đáng phải
chú ý đúng mức. Do vậy, việc dự phòng tái phát
đột quỵ não là việc làm hết sức hữu ích và cấp
bách, cần phải được duy trì lâu dài và liên tục
cho đến hết cuộc đời người bệnh bởi lẽ chính
điều đó sẽ góp phần rất lớn trong việc làm giảm
gánh nặng do đột quỵ não gây ra.
Mối liên quan giữa liệu pháp statin và
nguy cơ tái phát muộn tích lũy sau đột quỵ
thiếu máu não cục bộ cấp
Trong nghiên cứu này, liệu pháp statin có tác
dụng làm giảm nguy cơ tái phát tích lũy sau đột
quỵ thiếu máu não cục bộ cấp với HR hiệu chỉnh
là 0,57 (KTC 95%: 0,36 - 0,93; p = 0,023). Điều đó
được thể hiện rõ ràng ở hai phân nhóm xơ vữa
động mạch lớn với HR = 0,18 (KTC 95%: 0,05 -
0,60; p = 0,006) và lấp mạch từ tim với HR = 0,40
(KTC 95%: 0,19 - 0,86; p = 0,019) (bảng 2 và bảng
3). Kết quả nói trên đã góp phần chứng minh vai
trò bảo vệ thực sự của nhóm thuốc này đối với
nguy cơ tái phát sau đột quỵ não, điều mà đã và
đang được nhiều tác giả khắp nơi trên thế giới
quan tâm nghiên cứu. Theo Amarenco và cs, liệu
pháp statin là một trong những tiến bộ quan
trọng nhất đối với dự phòng đột quỵ não tái
phát trong khoảng thời gian gần đây bởi lẽ nó
vừa hiệu quả, vừa an toàn và có mức chi phí phù
hợp(3). Trên thực tế, kết quả từ các thử nghiệm
lâm sàng và các phân tích tổng hợp là những
bằng chứng cụ thể nhất.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 95
Thật vậy, từ năm 2006, vai trò bảo vệ của
statin đối với nguy cơ tái phát đột qụy não đã
được chứng minh qua thử nghiệm lâm sàng
SPARCL trên 4731 bệnh nhân đột quỵ/cơn thiếu
máu não thoáng qua. Theo đó, atorvastatin liều
cao (80 mg/ngày) làm giảm đến 16% nguy cơ tái
phát đột quỵ. Quan trọng hơn khi các tác giả của
thử nghiệm trên cũng đã nhấn mạnh rằng liệu
pháp này nên được khởi đầu sớm ngay sau khi
biến cố đột quỵ thiếu máu não cục bộ cấp hoặc
cơn thiếu máu não thoáng qua xảy ra(1). Đến năm
2007, khi phân tích bổ sung số liệu của thử
nghiệm này, Amarenco và cs đã chỉ ra rằng nguy
cơ tái phát đột quỵ não giảm đến 33% (p =
0,0018) khi so sánh nhóm bệnh nhân có nồng độ
LDL-Cholesterol giảm ≥ 50% với nhóm có nồng
độ LDL-Cholesterol không thay đổi hoặc tăng
lên sau điều trị(2).
Hơn thế nữa, một nghiên cứu đoàn hệ ở
châu Á gần đây cho thấy statin liều thấp cũng có
tác dụng có lợi trong việc điều trị dự phòng tái
phát ở những bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não
cục bộ cấp với HR hiệu chỉnh là 0,70 (KTC 95%:
0,53 - 0,92; p = 0,011)(10). Thêm vào đó, luận điểm
này còn được củng cố chắc chắn hơn bởi kết quả
của 1 thử nghiệm lâm sàng trên 1578 bệnh nhân
đột quỵ thiếu máu não cục bộ không do lấp
mạch từ tim của Hosomi và cs (2015) ở Nhật Bản
(J-STARS). Cụ thể, pravastatin liều thấp (10
mg/ngày) có tác dụng làm giảm nguy cơ tái phát
ở phân nhóm bệnh nhân do xơ vữa động mạch
lớn (HR = 0,33; KTC 95%: 0,15 - 0,74; p = 0,0047)
mà không làm gia tăng thêm nguy cơ chảy máu
trong sọ (HR = 1; KTC 95%: 0,45 - 2,22)(7). Theo
Hankey, thử nghiệm lâm sàng này đã cung cấp
những dữ liệu quan trọng về tính an toàn và
hiệu quả của statin trong nỗ lực dự phòng đột
quỵ tái phát(5).
Về mặt cơ chế, statin có vai trò bảo vệ bệnh
nhân đột quỵ não trước nguy cơ tái phát là
nhờ vào nhiều tác dụng có lợi của nhóm thuốc
này như điều chỉnh rối loạn lipid máu, chống
viêm, ổn định mảng xơ vữa, cải thiện chức
năng tế bào nội mạc, và chống kết tập tiểu
cầu(9). Trong khi đó, viêm không những ảnh
hưởng đến phân nhóm xơ vữa động mạch lớn
mà còn liên quan đến cả phân nhóm lấp mạch
từ tim. Do đó, với những tác dụng có lợi kể
trên, statin còn được chỉ định dùng cho nhóm
bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não cục bộ do
lấp mạch từ tim. Phải nói rằng đã từ lâu chúng
ta luôn kỳ vọng vào một loại thuốc có thể
“chạm đến” và “làm lành” những tổn thương
của mảng xơ vữa mà không cần nhờ đến các
thủ thuật xâm lấn nguy hiểm nào. Thì nay, với
những tác dụng ưu việt, statin là nhóm thuốc
giúp chúng ta thỏa mãn được một phần của sự
kỳ vọng này. Chính vì vậy, thực tế cho thấy
trong vòng 10 năm trở lại đây, statin được
dùng ngày càng phổ biến như là một lựa chọn
đầu tay trong nỗ lực dự phòng tái phát đột
quỵ não. Tuy nhiên, để có thêm những bằng
chứng thuyết phục và đầy đủ hơn, chúng ta
cần có nhiều hơn nữa những thử nghiệm lâm
sàng lớn hơn và được thực hiện trên nhiều đối
tượng khác nhau.
KẾT LUẬN
Nguy cơ tái phát tích lũy sau đột quỵ thiếu
máu não cục bộ cấp tại thời điểm 1 năm ở mức
báo động (23,3%). Liệu pháp statin có vai trò bảo
vệ độc lập đối với nguy cơ tái phát muộn sau đột
quỵ thiếu máu não cục bộ cấp, đặc biệt là ở phân
nhóm nguyên nhân xơ vữa động mạch lớn và
lấp mạch từ tim.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Amarenco P, Bogousslavsky J, Callahan A, et al. (2006). High-
dose atorvastatin after stroke or transient ischemic attack. N
Engl J Med, 355(6), 549-559.
2. Amarenco P, Goldstein LB, Szarek M, et al. (2007). Effects of
intense low-density lipoprotein cholesterol reduction in
patients with stroke or transient ischemic attack: the Stroke
Prevention by Aggressive Reduction in Cholesterol Levels
(SPARCL) trial. Stroke, 38(12), 3198-3204.
3. Amarenco P, Labreuche J (2009). Lipid management in the
prevention of stroke: review and updated meta-analysis of
statins for stroke prevention. Lancet Neurol, 8(5), 453-463.
4. Burn J, Dennis M, Bamford J, et al. (1994). Long-term risk of
recurrent stroke after a first-ever stroke. The Oxfordshire
Community Stroke Project. Stroke, 25(2), 333-337.
5. Hankey GJ (2015). The Japan Statin Treatment Against
Recurrent Stroke (J-STARS) Trial: Where to Now?.
EBioMedicine, 2(9), 1008-1009.
6. Hardie K, Hankey GJ, Jamrozik K, et al. (2004). Ten-year risk
of first recurrent stroke and disability after first-ever stroke in
the Perth Community Stroke Study. Stroke, 35(3), 731-735.
7. Hosomi N, Nagai Y, Kohriyama T, et al. (2015). The Japan
Statin Treatment Against Recurrent Stroke (J-STARS): A
Multicenter, Randomized, Open-label, Parallel-group Study.
EBioMedicine, 2(9), 1071-1078.
8. Kono Y, Yamada S, Kamisaka K, et al. (2011). Recurrence risk
after noncardioembolic mild ischemic stroke in a Japanese
population. Cerebrovasc Dis, 31(4), 365-372.
9. Laloux P (2014). Risk and benefit of statins in stroke
secondary prevention. Curr Vasc Pharmacol, 11(6), 812-816.
10. Makihara N, Kamouchi M, Hata J, et al. (2013). Statins and the
risks of stroke recurrence and death after ischemic stroke: the
Fukuoka Stroke Registry. Atherosclerosis, 231(2), 211-215.
11. Mohan KM, Wolfe CD, Rudd AG, et al. (2011). Risk and
cumulative risk of stroke recurrence: a systematic review and
meta-analysis. Stroke, 42(5), 1489-1494.
12. Ryglewicz D, Baranska-Gieruszczak M, et al. (1997). Stroke
recurrence among 30 days survivors of ischemic stroke in a
prospective community-based study. Neurol Res, 19(4), 377-
379.
Ngày nhận bài báo: 18/11/2016
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/12/2016
Ngày bài báo được đăng: 01/03/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nguy_co_tai_phat_muon_sau_dot_quy_thieu_mau_nao_cuc_bocapva.pdf