Tài liệu Nguy cơ đánh trùng thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với nền kinh tế phi thị trường - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam (Phần 1): 1
NGUY CƠ ĐÁNH TRÙNG THUẾ
CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ VÀ CHỐNG TRỢ CẤP
ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ PHI THỊ TRƯỜNG -
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
2
3
BỘ CÔNG THƯƠNG
CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH
NGUY CƠ ĐÁNH TRÙNG THUẾ
CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ VÀ CHỐNG TRỢ CẤP
ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ PHI THỊ TRƯỜNG -
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
NHÀ XUẤT BẢN CÔNG THƯƠNG
Hà Nội – 2013
4
Mã Số: VB02ĐH13
5
MỤC LỤC
trang
Lời nói đầu 9
Chương I. TỔNG QUAN VIỆC ÁP DỤNG KÉP CÁC
BIỆN PHÁP PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI CÁC
QUỐC GIA CÓ NỀN KINH TẾ PHI THỊ TRƯỜNG
11
I. Những khái niệm cơ bản 11
1. Khái niệm về nền kinh tế phi thị trường 11
2. Khái niệm về áp dụng kép các biện pháp phòng vệ thương
mại (chống bán phá giá và chống trợ cấp)
14
II. Khuôn khổ pháp lý của WTO về áp dụng các biện pháp
phòng vệ thương mại
16
1. Áp dụng biện pháp chống bán phá giá 16
1.1. Cơ sở pháp lý chung 16
1.2. Cơ sở pháp lý áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với
quốc gia có nền kinh ...
74 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 465 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Nguy cơ đánh trùng thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với nền kinh tế phi thị trường - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam (Phần 1), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
NGUY CƠ ĐÁNH TRÙNG THUẾ
CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ VÀ CHỐNG TRỢ CẤP
ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ PHI THỊ TRƯỜNG -
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
2
3
BỘ CÔNG THƯƠNG
CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH
NGUY CƠ ĐÁNH TRÙNG THUẾ
CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ VÀ CHỐNG TRỢ CẤP
ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ PHI THỊ TRƯỜNG -
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
NHÀ XUẤT BẢN CÔNG THƯƠNG
Hà Nội – 2013
4
Mã Số: VB02ĐH13
5
MỤC LỤC
trang
Lời nói đầu 9
Chương I. TỔNG QUAN VIỆC ÁP DỤNG KÉP CÁC
BIỆN PHÁP PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI CÁC
QUỐC GIA CÓ NỀN KINH TẾ PHI THỊ TRƯỜNG
11
I. Những khái niệm cơ bản 11
1. Khái niệm về nền kinh tế phi thị trường 11
2. Khái niệm về áp dụng kép các biện pháp phòng vệ thương
mại (chống bán phá giá và chống trợ cấp)
14
II. Khuôn khổ pháp lý của WTO về áp dụng các biện pháp
phòng vệ thương mại
16
1. Áp dụng biện pháp chống bán phá giá 16
1.1. Cơ sở pháp lý chung 16
1.2. Cơ sở pháp lý áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với
quốc gia có nền kinh tế phi thị trường
19
2. Áp dụng biện pháp chống trợ cấp 23
2.1. Cơ sở pháp lý chung 23
2.2 Cơ sở pháp lý áp dụng biện pháp chống đối kháng đối với
quốc gia có nền kinh tế phi thị trường
25
3. Áp dụng kép các biện pháp phòng vệ thương mại đối với các
nước có nền kinh tế phi thị trường
26
3.1. Thực tiễn áp dụng 26
3.2. Cơ sở pháp lý cho việc không áp dụng kép biện pháp phòng
vệ thương mại
28
3.3. Những thách thức trong vấn đề áp dụng kép các biện
pháp phòng vệ thương mại đối với các nước có nền kinh tế
phi thị trường
32
III. Thực tiễn áp dụng kép các biện pháp phòng vệ thương mại
của các nước đối với các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường
– Một số bài học rút ra từ các vụ việc với Trung Quốc
62
1. Tổng quan chung về các vụ việc 62
2. Phân tích các vụ việc điển hình 63
2.1. Thông tin về vụ việc GPX 64
2.2. Phân tích vụ việc 68
3. Một số bài học rút ra 72
3.1. Tham gia tích cực vào các vụ điều tra chống trợ cấp 72
3.2. Tham gia tích cực vào cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế 73
6
Chương II: TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC ÁP DỤNG KÉP
CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI
HÀNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ
KHUYẾN NGHỊ
75
I. Tổng quan về các vụ áp dụng kép các biện pháp phòng vệ
thương mại đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam
75
1. Thông tin về các vụ việc 75
2. Khả năng áp dụng kép các biện pháp phòng vệ thương mại
đối với hàng xuất khẩu củaViệt Nam trong thời gian tới
77
II. Ðánh giá những tác động của các vụ việc áp dụng kép biện
pháp phòng vệ thương mại (AD và CVD đối với Việt Nam
80
1. Nguy cơ áp dụng trùng thuế AD và CVD khi áp dụng kép các
biện pháp phòng vệ thương mại
80
2. Khó khăn trong công tác kháng kiện 84
III. Khuyến nghị 86
1. Đối với Chính phủ 86
1.1. Xây dựng hệ thống giám sát và quản lý 86
1.2. Xây dựng năng lực xử lý các vấn đề trợ cấp của WTO 87
1.3. Tham gia tích cực vào các vụ điều tra chống trợ cấp 89
2. Đối với Doanh nghiệp 90
Hiệp định thực thi điều VI của Hiệp định chung về thuế
quan và thương mại – GATT(1994) Hiệp định chống bán
phá giá(ADA)
92
phụ lục 1: Thủ tục điều tra tại chỗ theo khoản 7 điều 6 136
Phụ lục 2:các thông tin tốt nhất có được theo các điều kiện của
khoản 8 điều 6
137
PHỤ LỤC 143
Phụ lục 1. Mức thuế và các ngành mục tiêu trong các vụ việc
điều tra chống trợ cấp của Hoa Kỳ nhằm vào hàng xuất khẩu
của Trung Quốc
143
Phụ lục 2. Chương trình trợ cấp được xác định là có thể đánh thuế
đối kháng của Bộ Thương mại Hoa Kỳ
148
Phụ lục 3. Chương trình trợ cấp được xác định là đối kháng của CBSA 150
Phụ lục 4: Tổng hợp các vụ việc chống trợ cấp và chống bán phá
giá đối với hàng hóa từ các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường
152
Tài liệu tham khảo 159
7
DANH MỤC VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Nghĩa đầy đủ
ADA Hiệp định Chống bán phá giá (CBPG)
ADB Ngân hàng phát triển Châu Á
AD Chống bán phá giá (CBPG)
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
CBSA Cơ quan dịch vụ biên giới Canada
CVD Thuế chống trợ cấp
CIT Tòa Thương mại quốc tế Hoa Kỳ
CAFC Tòa Phúc thẩm Liên bang Hoa Kỳ
CFSB Giấy tráng cao cấp
DOC Bộ Thương mại Hoa Kỳ
EC Ủy ban Châu Âu
EP Giá xuất khẩu
EU Liên minh Châu Âu
FIEs Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
FDI Đầu tư nước ngoài
GATT Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
GDP Tổng sản lượng quốc nội
HS Danh mục hài hòa thuế quan
ITC Ủy ban thương mại quốc tế Hoa Kỳ
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
IFC Tổ chức tài chính quốc tế
IT Đối xử riêng rẽ
KTTT Kinh tế thị trường
8
MỤC LỤC HÌNH VÀ BẢNG
MD Biên độ phá giá
MET Đối xử kinh tế thị trường
MFN Đối xử tối huệ quốc
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTMNN Ngân hàng thương mại Nhà nước
NME Nền kinh tế phi thị trường
NT Đối xử quốc gia
OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
UNDP Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc
SCM Hiệp định về Trợ cấp và thuế đối kháng
SIMA Đạo luật về các biện pháp nhập khẩu đặc biệt
của Canada
SIMR Quy định về các biện pháp nhập khẩu đặc biệt
của Canada
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
Bảng 1. Các biện pháp chống trợ cấp đối với Trung Quốc từ
các thành viên WTO.
27
Hình 1. Cấu trúc bù đắp thuế đối kháng trong việc tính toán
biên độ phá giá
29
Bảng 2: Các vụ việc điều tra đồng thời AD và CVD 63
Bảng 3: Thông tin cơ bản về các vụ việc của Việt Nam. 76
9
LỜI NÓI ĐẦU
Thời gian vừa qua, do khủng hoảng của nền kinh
tế thế giới, sức mua giảm, doanh nghiệp và các ngành
công nghiệp trong nước gặp khó khăn là một trong nhiều
nguyên nhân mà các biện pháp phòng vệ thương mại bao
gồm: chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ được các
nước trên thế giới áp dụng ngày càng nhiều nhằm bảo hộ
ngành sản xuất nội địa trước sự cạnh tranh gay gắt của
hàng nhập khẩu.
Tính đến hết năm 2012, các doanh nghiệp xuất khẩu
của Việt Nam đã phải đối mặt với 65 vụ kiện phòng vệ
thương mại do các nước khởi xướng điều tra. Riêng trong
năm 2012, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã phải đối mặt
tới 10 vụ việc, trong đó có 8 vụ điều tra chống bán phá giá,
01 vụ điều tra chống lẩn tránh thuế và 01 vụ điều tra chống
trợ cấp.
Đặc biệt, trong hai năm gần đây, một số nước có xu
hướng kiện kép gồm chống bán phá giá và trợ cấp đối với các
quốc gia bị coi là nước có nền kinh tế phi thị trường như Việt
Nam, Trung Quốc (cả 04 vụ kiện gần đây do Hoa Kỳ khởi
xướng điều tra đối với Việt Nam đều là điều tra kép cả chống
bán phá giá và chống trợ cấp). Đặc điểm của các vụ kiện kép
là mức thuế bị đẩy lên rất cao do sản phẩm bị áp đồng thời cả
thuế CBPG và thuế chống trợ cấp (Ví dụ trong vụ mắc áo,
mức thuế suất chống bán phá giá toàn quốc là 187% và thuế
chống trợ cấp là 16% dẫn đến tổng mức thuế là 203%).
Để cập nhật, phân tích đồng thời đưa ra các giải pháp,
khuyến nghị cho doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam chủ
động có những ứng phó phù hợp trước các thay đổi nói trên,
10
Cục Quản lý cạnh tranh (QLCT) - Bộ Công Thương phối hợp
với Nhà xuất bản Công Thương biên soạn cuốn sách “Nguy
cơ đánh trùng thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp đối
với nền kinh tế phi thị trường - Bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam”. Nội dung cuốn sách phân tích cơ sở pháp lý cũng
như tiền lệ những vụ kiện kép mà các nước đã khởi xướng
điều tra để từ đó rút ra một số kiến nghị đối với cơ quan quản
lý Nhà nước và các doanh nghiệp xuất khẩu nhằm hạn chế tối
đa những vụ việc tương tự có thể xảy ra trong tương lai.
Trong quá trình biên soạn khó tránh khỏi những sơ
suất, Ban biên tập rất mong nhận được ý kiến đóng góp của
bạn đọc để hoàn thiện hơn trong lần xuất bản tiếp theo.
CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH
11
Chương I
TỔNG QUAN VIỆC ÁP DỤNG KÉP CÁC BIỆN
PHÁP PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI CÁC
QUỐC GIA CÓ NỀN KINH TẾ PHI THỊ TRƯỜNG
I. Những khái niệm cơ bản
1. Khái niệm về nền kinh tế phi thị trường
Nền kinh tế phi thị trường (NME) – hay còn được gọi
là nền kinh tế kế hoạch tập trung – là tên gọi được dùng đến
cuối những năm 1980, đầu những năm 1990 cho nền kinh tế
các nước Trung và Đông Âu, Liên Xô, Trung Quốc, Việt
Nam và một số nước khác, trong đó, các hoạt động kinh tế
được dựa trên kế hoạch hàng năm thông thường do một cơ
quan giống như ủy ban kế hoạch Nhà nước soạn thảo. Đa số
các nước có nền kinh tế kế hoạch tập trung nay đã chuyển
thành nền kinh tế thị trường hoặc đang trong quá trình hướng
tới mục tiêu đó (còn gọi là thời kỳ quá độ).
Trong khuôn khổ WTO, khái niệm NME được đề cập
trong khoản 1 điều VI của GATT 1994 “Thừa nhận rằng
trong trường hợp nhập khẩu từ một nước mà thương mại
hoàn toàn mang tính chất độc quyền hoặc hầu như độc quyền
hoặc toàn bộ giá trong nước do nhà nước định đoạt, việc xác
định tính so sánh của giá cả nhằm mục đích nêu tại khoản 1
có thể có những khó khăn đặc biệt và trong những trường
hợp đó, các bên ký kết là bên nhập khẩu có thể thấy cần tính
đến khả năng rằng việc so sánh chính xác với giá cả trong
nước của nước đó không phải lúc nào cũng thích đáng”.
12
Thông qua quy định này, các thành viên của WTO
nhận thấy một cách rõ ràng rằng, các quốc gia NME có thể
cần phải đối xử một cách khác biệt hơn các quốc gia có nền
kinh tế thị trường (Market Economy-ME) trong vụ kiện
chống bán phá giá.
Theo đó, nhiều nước thành viên của WTO đã không
chấp nhận các thông tin về giá cả hay chi phí sản xuất được
cung cấp bởi các quốc gia được xem là NME. Các quốc gia
này cho rằng giá cả và chi phí do các quốc gia NME được
điều chỉnh và can thiệp bởi Chính phủ và không theo quy luật
của thị trường. Do đó, Cơ quan điều tra sẽ sử dụng giá và chi
phí sản xuất của hàng hóa tại một nước thứ ba có nền kinh tế
thị trường để thay thế, làm cơ sở tính toán cho giá thông
thường. Trong mỗi vụ kiện, các quốc gia ME được lựa chọn
để thay thế phải ở một mức phát triển cùng với quốc gia
NME bị điều tra chống bán phá giá.
Để có cơ sở xem xét một quốc gia có được coi là
nền kinh tế thị trường hay không, một số quốc gia đã nội
luật hóa quy định về các tiêu chí xác định quốc gia có nền
kinh tế thị trường:
Một số tiêu chí xác định quốc gia có nền kinh tế thị trường
a. Tiêu chí của Hoa Kỳ
Từ khi áp dụng Luật chống bán phá giá 1921 cho đến khi
thông qua Luật Thương mại 1974, việc áp dụng thuế chống
bán phá giá đối với các nền kinh tế NME đã được Hoa Kỳ
đưa ra và áp dụng duy nhất thông qua hoạt động của cơ
quan quản lý. Trong thập kỷ 1960, Bộ Thương mại Hoa Kỳ
(US DOC) đã sử dụng thuật ngữ “quốc gia thay thế” để áp
13
dụng cho các quốc gia NME. Phương pháp tiếp cận này đã
được thông qua và được pháp điển hóa bởi Quốc hội Hoa
Kỳ vào trong Luật Thương mại 1974. Trong Đạo luật Cạnh
tranh và Thương mại 1988, Nghị viện Hoa Kỳ đã ban hành
một số đổi mới đối với luật chống bán phá giá, bắt đầu là
định nghĩa NME, cũng như là đặt ra quy định DOC đưa ra
và xem xét khi nào thì một quốc gia cụ thể được xem là
NME. Theo đó, một quốc gia được coi là NME khi “không
hoạt động theo nguyên tắc thị trường của cơ cấu giá và chi
phí, vì thế doanh số bán hàng của hàng hóa trong quốc gia
đó không phản ánh được giá trị thông thường của hàng
hóa”. Đạo luật quy định US DOC sẽ xem xét đưa ra sáu
tiêu chí trước khi quyết định, bao gồm:
1) Mức độ chuyển đổi của đồng nội tệ;
2) Mức độ theo đó mức lương được xác định thông qua
đàm phán tự do giữa người lao động và đơn vị sử dụng lao
động;
3) Mức độ theo đó việc liên doanh hoặc các dự án đầu tư
nước ngoài được phép thực hiện;
4) Mức độ kiểm soát của chính phủ đối với phương tiện
sản xuất;
5) Mức độ kiểm soát của chính phủ về việc phân bổ các
nguồn lực, giá cả và sản lượng của doanh nghiệp;
6) Các tiêu chí khác do DOC đưa ra;
b. Tiêu chí của EU
Tương tự như Hoa Kỳ, để được EU công nhận là
quốc gia có nền kinh tế thị trường, quốc gia đó phải đáp
ứng được những tiêu chí theo luật định của EU, các tiêu chí
đó như sau:
14
- Chuyển đổi hối đoái được thực hiện theo tỷ giá thị
trường;
- Các quyết định của doanh nghiệp về giá cả, chi phí và đầu
vào – gồm chi phí nguyên vật liệu, công nghệ và lao động,
sản lượng, doanh số và đầu tư – được đưa ra để đáp ứng
với những tín hiệu thị trường phản ánh cung và cầu, không
có sự can thiệp đáng kể nào của Nhà nước, và chi phí của
những đầu vào chính về cơ bản phản ánh giá thị trường;
- Các doanh nghiệp có một loạt các sổ sách kế toán cơ bản
rõ ràng, được kiểm toán độc lập theo các chuẩn mực kế
toán quốc tế và được áp dụng cho tất cả các mục đích;
- Chi phí sản xuất và tình hình tài chính của doanh nghiệp
không chịu sự bóp méo đáng kể dưới tác động của hệ thống
kinh tế phi thị trường, nhất là liên quan tới khấu hao tài
sản, các dạng xóa nợ và các dạng thanh toán bù nợ khác;
- Các doanh nghiệp liên quan chịu sự điều chỉnh của các
luật về phá sản và tài sản đảm bảo sự chắc chắn và ổn định
về pháp lý cho doanh nghiệp hoạt động.
2. Khái niệm về áp dụng kép các biện pháp phòng
vệ thương mại (chống bán phá giá và chống trợ cấp)
Việc cơ quan điều tra của một nước thành viên WTO
đồng thời áp dụng hai biện pháp chống bán phá giá và chống
trợ cấp nhằm đền bù cho cùng một hành vi thương mại không
công bằng được xem là “áp dụng kép” hay còn gọi là đánh
trùng thuế (double counting). Trong trường hợp này, các nhà
xuất khẩu cùng lúc phải đối mặt với cả vụ kiện điều tra chống
bán phá giá lẫn điều tra chống trợ cấp.
15
Trong trường hợp cùng áp dụng biện pháp chống bán
phá giá và biện pháp chống trợ cấp đối với một mặt hàng cụ
thể từ nước có nền kinh tế thị trường, cơ quan điều tra của
nước nhập khẩu sẽ tiến hành cộng thêm mức thuế đối kháng
để loại bỏ trợ cấp xuất khẩu trên giá xuất khẩu của sản phẩm
trước khi tiến hành tính toán thuế chống bán phá giá. Lý do
cho sự điều chỉnh này là trợ cấp xuất khẩu có tác động làm
giảm giá của hàng hóa xuất khẩu.
Đối với nước có nền kinh tế phi thị trường, các cơ
quan điều tra như Bộ Thương mại Hoa Kỳ hay Ủy ban Châu
Âu đã không sử dụng chi phí thực của nhà sản xuất của các
nước có nền kinh tế phi thị trường và giá bán của sản phẩm
nội địa. Thay vào đó, cơ quan điều tra dựa vào thông tin của
nước thay thế.
Nếu như những nước có nền kinh tế phi thị trường có
trợ cấp sản xuất nội địa, cả giá xuất khẩu và giá thông thường
sẽ bị ảnh hưởng bởi trợ cấp nội địa và chi phí và giá nội địa ở
những nước có nền kinh tế phi thị trường cũng bị loại bỏ và
chúng bị thay thế bởi chi phí và giá nội địa của nước thay thế.
Với phương pháp tính toán này, cơ quan điều tra - trừ phi đã
điều chỉnh giá thông thường phản ánh tác động của trợ cấp
nội địa ở nước có nền kinh tế phi thị trường - sẽ so sánh một
mức giá xuất khẩu thấp hơn so với thực tế có thể nếu giá nội
địa ở những nước có nền kinh tế phi thị trường không tồn tại,
với giá thông thường ở nước thay thế, mức giá mà không bị
ảnh hưởng bởi trợ cấp nội địa của nước phi thị trường. Nói
theo cách khác, việc tính thuế hai lần có thể xảy ra nếu biện
pháp chống bán phá giá và trợ cấp có thể cùng áp dụng song
song và không điều chỉnh theo giá thông thường đã được điều
chỉnh để phản ánh trợ cấp nội địa ở nước có nền kinh tế phi
thị trường
16
II. Khuôn khổ pháp lý của WTO về áp dụng các
biện pháp phòng vệ thương mại
1. Áp dụng biện pháp chống bán phá giá
1.1 Cơ sở pháp lý chung
Hiệp định về thi hành Điều VI của Hiệp định khung
về thuế quan và thương mại 1994 (“Hiệp định chống bán phá
giá - CBPG”) điều chỉnh việc áp dụng các biện pháp chống
bán phá giá của các Thành viên WTO. Các biện pháp chống
bán phá giá là các biện pháp phòng vệ thương mại đơn
phương mà một Thành viên có thể áp dụng sau khi thực hiện
một cuộc điều tra và xác định rằng, phù hợp với quy định của
Hiệp định CBPG, hàng hóa nhập khẩu là “bán phá giá” (hàng
hóa được đưa vào nước nhập khẩu với mục đích thương mại
với mức giá thấp hơn giá trị thông thường), và việc bán phá
giá đó gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất nội địa của
nước nhập khẩu sản xuất sản phẩm tương tự.
Không như Hiệp định về trợ cấp và thuế đối kháng
(“SCM Agreement”), Hiệp định CBPG không thiết lập bất kỳ
quy tắc nào về phá giá, chủ yếu do việc phá giá là hành vi
định giá do các doanh nghiệp thực hiện và do đó không nằm
trong phạm vi điều chỉnh trực tiếp của các quy tắc đa phương.
Hiệp định CBPG tập trung vào các quy tắc về nội dung và thủ
tục của việc điều tra, áp dụng, và khoảng thời gian áp dụng
các biện pháp chống bán phá giá. Các nguyên tắc này được
áp dụng cho tất cả các thành viên WTO. Phạm vi của Hiệp
định CBPG rộng hơn và khả năng các quy tắc của Hiệp định
CBPG sẽ có hiệu lực là lớn hơn.
17
Điều 1 của Hiệp định CBPG đưa ra nguyên tắc cơ bản
là một thành viên sẽ không được áp dụng biện pháp CPBG
trừ khi, căn cứ theo một cuộc điều tra được thực hiện đúng
theo những quy định của Hiệp định CBPG, thành viên đó xác
định được rằng tồn tại hàng hóa nhập khẩu bán phá giá, có
thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa và có mối quan hệ
nhân quả giữa hàng nhập khẩu bán phá giá và thiệt hại.
Điều 2 quy định những quy tắc quan trọng trong việc
xác định phá giá trong đó gồm những quy tắc cụ thể quy định
việc tính toán giá trị thông thường (giá của sản phẩm tại quốc
gia xuất khẩu hay có xuất xứ sản phẩm) và giá xuất khẩu (giá
của sản phẩm đó tại quốc gia nhập khẩu), và việc “so sánh
công bằng” giữa giá trị thông thường và giá xuất khẩu.
Những quy tắc này rất kĩ thuật và chi tiết đồng thời đề cập
đến một số vấn đề liên quan đến phương pháp luận quan
trọng không được xử lý trong Đạo luật về CPBG của vòng
đàm phán Tokyo. Nói chung, các quy tắc này có thể coi là rất
chặt chẽ trong một nỗ lực để chấm dứt hoặc tối thiểu hóa khả
năng mà các biện pháp hành chính trong các vụ việc điều tra
và tính toán sẽ dẫn đến biên độ phá giá bị đẩy cao một cách
giả tạo.
Những thay đổi quan trọng nhất của Đạo luật về
CPBG của vòng đàm phán Tokyo theo Điều 2 đó là việc đưa
ra quy định về tình trạng mà giá bán nội địa của nước xuất
khẩu còn thấp hơn chi phí sản xuất (xác định theo chi phí cố
định, chi phí khả biến của từng đơn vị sản phẩm cộng thêm
chi phí hành chính, chi phí bán hàng, chi phí chung) có thể
được coi là không phải “trong điều kiện thương mại thông
18
thường”, thêm một số quy tắc cụ thể về xác định giá trị thông
thường tính toán và những quy định cụ thể về làm thế nào để
đảm bảo sự so sánh công bằng giữa giá trị thông thường và
giá xuất khẩu.
Giá cả không phải “trong điều kiện thương mại thông
thường” có thể bị loại ra khi tính toán giá trị thông thường.
Điều 2.2.1 của Hiệp định CBPG yêu cầu rằng các giao dịch
bán hàng không phải trong điều kiện thương mại thông
thường phải được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất
định, với một số lượng hàng đáng kể và tại các mức giá mà
không thể trang trải được toàn bộ chí phí trong một khoảng
thời gian hợp lý, trước khi sử dụng biện pháp thay thế trong
việc tính toán giá trị thông thường. Hiệp định CBPG đã có cả
hướng dẫn về các khái niệm “kéo dài trong một khoảng thời
gian” (thông thường là một năm, nhưng không được thấp hơn
6 tháng), “số lượng đáng kể”, và bù đắp các chi phí “trong
một khoảng thời gian hợp lý”.
Các giá trị thông thường được tính toán (constructed
normal values) là một trong hai cách cụ thể để xác định giá trị
thông thường khi không tồn tại đủ sản lượng bán hàng trong
điều kiện thương mại thông thường ở nước xuất khẩu để cho
phép tính toán giá trị thông thường dựa trên cơ sở về giá,
hoặc tình trạng thị trường đặc biệt, hoặc lượng hàng sản xuất
thấp khiến không thể tính toán giá trị thông thường. Thay vào
đó, Hiệp định CBPG cho phép so sánh giá xuất khẩu với giá
của sản phẩm khi xuất khẩu sang một nước thứ ba, với điều
kiện giá đó có tính đại diện. Điều 2.2.2. quy định chi tiết rằng
19
khi tính toán giá trị thông thường, cơ quan điều tra cần xác
định các khoản chi phí hành chính, chi phí bán hàng, chi phí
chung và lợi nhuận, trên cơ sở số liệu thực tế và mức phân bổ
sản phẩm và sản lượng bán của nhà sản xuất trong điều kiện
thương mại thông thường. Trong trường hợp số liệu thực tế
không sử dụng được, tiểu đoạn (i) – (iii) của Điều 2.2.2 quy
định các phương pháp thay thế cho việc xác định những chi
phí và lợi nhuận đó.
Điều 2.4 đã quy định một quy tắc chung rằng việc “so
sánh công bằng” phải được thực hiện khi so sánh giá trị thông
thường và giá xuất khẩu. Nó cũng chỉ rõ rằng “các khoản
giảm trừ” phải được tính đến đối với những sự khác biệt mà
ảnh hưởng tới khả năng so sánh giá đồng thời quy định một
danh sách không đầy đủ những yếu tố để cấu thành khoản
được giảm trừ đó. Điều 2.4 cũng bao gồm những quy định
trong việc quy đổi tỷ giá khi so sánh giữa giá xuất khẩu và
giá trị thông thường và cũng chỉ ra rằng biên độ phá giá
thường phải dựa trên cơ sở so sánh giá trị thông thường bình
quân gia quyền với giá xuất khẩu bình quân gia quyền hoặc
trên cơ sở so sánh giá của từng giao dịch. Việc so sánh giá
của từng giao dịch thể hiện một sự thay đổi đáng kể trong
thông lệ của một số Thành viên đối với Đạo luật vòng đàm
phán Tokyo, mà so sánh bình quân gia quyền của giá trị
thông thường với giá xuất khẩu của từng giao dịch, phương
pháp này được biết đến là phương pháp “quy về không” với
kết quả là làm tăng biên độ phá giá. Phương pháp tính này
hiện nay đã bị cấm một cách rộng rãi từ một số phán quyết
của Cơ quan Phúc thẩm của WTO (Appellate Body).
20
1.2 Cơ sở pháp lý áp dụng biện pháp chống bán phá
giá đối với quốc gia có nền kinh tế phi thị trường
Điều 2.7 của Hiệp định CBPG quy định rằng:
“2. Thừa nhận rằng trong trường hợp nhập khẩu từ
một nước mà thương mại hoàn toàn mang tính chất độc
quyền hay hầu như độc quyền và toàn bộ giá trong nước do
Nhà nước định đoạt, việc xác định khả năng so sánh giá cả
nhằm mục đích nêu tại Đoạn 1 có thể có những khó khăn đặc
biệt và trong những trường hợp đó, các bên ký kết là bên
nhập khẩu có thể nhận thấy cần thiết phải xem xét đến khả
năng việc so sánh chính xác với giá cả trong nước của nước
đó không phải lúc nào cũng thích đáng”.
Quy định này đã được rất nhiều các cơ quan điều tra
sử dụng để bỏ qua thông tin về giá cả và chi phí của quốc gia
có nền kinh tế phi thị trường với lý do những thông tin này
không đáng tin cậy vì chúng không được xác định dựa trên
các điều kiện thị trường mà do nhà nước chỉ định. Tuy nhiên,
cách mà những cơ quan điều tra khác nhau sử dụng điều
khoản về NME cũng rất khác nhau.
Một nền kinh tế phi thị trường tồn tại trong một quốc
gia mà không vận hành theo nguyên tắc thị trường về cấu
trúc giá hoặc chi phí vì vậy giao dịch bán hàng hóa ở quốc
gia đó không phản ánh được giá trị hợp lý của hàng hóa.
Điều này có tác động hiển nhiên đến phương pháp xác định
bán phá giá bởi vì toàn bộ cơ chế của việc phân tích bán phá
giá đều dựa trên việc so sánh giá trị thông thường và giá
xuất khẩu. Thêm vào đó, nền kinh tế phi thị trường còn gây
21
ra một số vấn đề nữa trong việc điều tra chống bán phá giá
do tiền tệ của các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường
thường không dễ dàng được chuyển đổi sang nội tệ của
quốc gia điều tra. Mặc dù một số quốc gia có nền kinh tế phi
thị trường như Trung Quốc và Việt Nam đã áp dụng các
nguyên tắc mang tính thị trường nhiều hơn trên nhiều khía
cạnh của nền kinh tế nhưng hiện các Thành viên của WTO
vẫn coi những quốc gia này là có nền kinh tế phi thị trường
để sử dụng các phương pháp tính toán khác trong các cuộc
điều tra CBPG.
Bên cạnh đó, Trung Quốc và Việt Nam đã chấp nhận
trong Nghị định thư gia nhập WTO của mình là sẽ bị coi là
nền kinh tế phi thị trường cho đến năm 2016 đối với Trung
Quốc và 2018 đối với Việt Nam.
Cụ thể đối với trường hợp của Việt Nam được nêu
trong đoạn 254 và 255 của Báo cáo Ban công tác về gia nhập
WTO của Việt Nam: Việt Nam đã đưa ra một cam kết liên
quan đến quy chế nền kinh tế phi thị trường của Việt Nam.
Cam kết này không khác so với cam kết mà Trung Quốc đã
đưa ra trong Nghị định thư gia nhập WTO của họ trước đấy 5
năm, theo đó quy định cụ thể về trường hợp của Việt Nam
như sau:
“254. Một số Thành viên lưu ý rằng Việt Nam đang
tiếp tục quá trình chuyển đổi thành một nền kinh tế thị trường
đầy đủ. Các Thành viên này lưu ý rằng trong quá trình đó,
khi hàng nhập khẩu có xuất xứ từ Việt Nam vào một Thành
viên WTO có thể có những khó khăn đặc biệt trong việc xác
định chi phí và so sánh giá cả trong các vụ điều tra chống
22
bán phá giá và chống trợ cấp. Các Thành viên này cho biết
trong các trường hợp đó, nước nhập khẩu là Thành viên
WTO có thể nhận thấy sẽ cần phải tính đến khả năng việc so
sánh chặt chẽ với chi phí và giá trong nước ở Việt Nam có
thể không phải lúc nào cũng thích hợp.”
“255. Đại diện của Việt Nam xác nhận rằng ngay sau
khi gia nhập WTO, Điều VI của GATT 1994, Hiệp định Thực
hiện Điều VI của GATT 1994 (Hiệp định chống bán phá giá)
và Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp Chống trợ cấp
(SCM) sẽ được áp dụng trong các vụ kiện liên quan đến xuất
khẩu hàng hoá từ Việt Nam sang một Thành viên WTO phù
hợp với các điểm sau:
(a) Khi tiến hành so sánh giá theo Điều VI của GATT
1994 và Hiệp định chống bán phá giá, Thành viên WTO là
nước nhập khẩu phải sử dụng hoặc là giá hoặc chi phí ở Việt
Nam đối với ngành hàng đang được điều tra hoặc là một
phương pháp không dựa trên sự so sánh chặt chẽ với chi phí
hoặc giá cả ở Việt Nam. Quy tắc để lựa chọn phương pháp
phù hợp là:
(i) Nếu các nhà sản xuất trong diện điều tra có thể chỉ
ra rõ ràng rằng các điều kiện của nền kinh tế thị trường đang
tồn tại trong ngành sản xuất mặt hàng tương tự liên quan đến
sản xuất và bán mặt hàng đó, nước nhập khẩu là Thành viên
WTO khi xác định tương quan giá cả phải sử dụng giá và chi
phí ở Việt Nam cho ngành sản xuất trong diện điều tra.
(ii) Nước nhập khẩu là Thành viên WTO có thể sử
dụng một phương pháp không dựa trên sự so sánh chặt chẽ
23
với giá cả và chi phí ở Việt Nam nếu các nhà sản xuất trong
diện điều tra không thể chỉ ra rõ ràng rằng các điều kiện của
nền kinh tế thị trường đang tồn tại trong ngành sản xuất mặt
hàng tương tự liên quan đến sản xuất và bán mặt hàng đó.
(d) Một khi Việt Nam khẳng định được rằng nền kinh
tế nước mình là kinh tế thị trường chiểu theo luật quốc gia
của nước nhập khẩu là Thành viên WTO, các quy định tại
tiểu mục (a) sẽ hết hiệu lực với điều kiện luật quốc gia của
nước Thành viên có quy định các tiêu chí về kinh tế thị
trường tại thời điểm gia nhập. Trong mọi trường hợp, các
quy định trong tiểu mục (a) (ii) sẽ hết hiệu lực vào ngày
31/12/2018. Ngoài ra, nếu Việt Nam khẳng định được rằng
các điều kiện của kinh tế thị trường đã tồn tại tại một ngành
cụ thể chiểu theo luật quốc gia của nước nhập khẩu là Thành
viên WTO, các quy định trong tiểu mục (a) liên quan tới kinh
tế phi thị trường sẽ không còn được áp dụng cho ngành đó.
Ban công tác ghi nhận các cam kết này.
Một phương pháp tiếp cận thông thường trong việc
giải quyết vấn đề quốc gia có nền kinh tế phi thị trường trong
vụ việc CBPG là tìm ra giá trị thay thế từ các quốc gia có nền
kinh tế thị trường mà có thể so sánh được và áp dụng mức
chung cho tất cả các nhà sản xuất của nước có nền kinh tế phi
thị trường, dựa trên giả định rằng tất cả những nhà sản xuất
đó đều nằm dưới sự điều hành của nhà nước. Tuy nhiên, nhà
sản xuất thuộc nền kinh tế phi thị trường có thể yêu cầu một
mức thuế suất riêng rẽ trong việc xác định giá xuất khẩu mà
có thể được cơ quan điều tra áp dụng nếu họ kết luận rằng có
thông tin tin đầy đủ đảm bảo cho yêu cầu này.
24
2. Áp dụng biện pháp chống trợ cấp
2.1 Cơ sở pháp lý chung
Phần V của Hiệp định áp dụng biện pháp chống trợ
cấp (SCM) quy định một số yêu cầu về (i) nội dung cụ thể
cần phải được đáp ứng để có thể áp dụng biện pháp chống trợ
cấp (hay biện pháp đối kháng), (ii) thủ tục trong việc thực
hiện một cuộc điều tra, áp dụng và duy trì biện pháp chống
trợ cấp.
Một Thành viên không thể áp dụng biện pháp chống
trợ cấp trừ khi họ xác định được rằng hàng hóa nhập khẩu
vào nước đó được trợ cấp, gây thiệt hại đối với ngành sản
xuất trong nước và có mối quan hệ nhân quả giữa hàng hóa
nhập khẩu được trợ cấp và thiệt hại. Sự tồn tại một khoản trợ
cấp cụ thể phải được xác định theo các tiêu chí trong Phần I
của Hiệp định SCM. Tuy nhiên, những tiêu chí liên quan đến
thiệt hại và mối quan hệ nhân quả lại được quy định cụ thể tại
Phần V Hiệp định này. Hiệp định SCM cũng cho phép cộng
gộp những tác động từ hàng hóa nhập khẩu được trợ cấp từ
hơn một nước thành viên khi những yêu cầu cụ thể đối với
việc xác định này được đáp ứng đầy đủ.
Phần V của Hiệp định chống trợ cấp cũng bao gồm
quy định chi tiết liên quan đến việc khởi xướng và thực hiện
cuộc điều tra chống trợ cấp, việc áp thuế sơ bộ và biện pháp
cuối cùng, việc sử dụng các cam kết và thời gian áp dụng
biện pháp chống trợ cấp. Mục tiêu chính của những quy định
này là để đảm bảo cuộc điều tra được thực hiện một cách
minh bạch, tất cả các bên liên quan đều có cơ hội đầy đủ để
25
bảo vệ lợi ích của mình và cơ quan điều tra phải giải thích
đầy đủ cơ sở cho những quyết định của họ.
Hiệp định SCM cũng quy định rằng một biện pháp
đối kháng phải được chấm dứt sau 5 năm trừ khi xác định
được rằng việc tiếp tục áp dụng biện pháp này là cần thiết
để tránh việc tiếp tục hoặc tái diễn trợ cấp và thiệt hại.
Hiệp định này cũng yêu cầu các Thành viên WTO phải có
tòa án độc lập để xem xét sự phù hợp của các quyết định
của cơ quan điều tra với pháp luật trong nước. Những quy
định về thủ tục này hầu như là giống hệt với quy định trong
Hiệp định CBPG.
2.2 Cơ sở pháp lý áp dụng biện pháp chống đối
kháng đối với quốc gia có nền kinh tế phi thị trường
Thuế chống trợ cấp (CVD) được áp dụng để đối
kháng lại những lợi ích phát sinh từ việc trợ cấp chứ không
nhất thiết phải là ảnh hưởng về giá. Điều đó đã được nêu rõ ở
câu mở đầu của Điều 14 trong Hiệp định SCM, “Tính toán
tổng lượng trợ cấp xét về mặt lợi ích đối với người nhận”. Do
đó, không giống như hệ thống chống bán phá giá khi vấn đề
kinh tế phi thị trường tạo nên những khó khăn trong việc so
sánh giá, việc áp thuế đối kháng dựa trên cơ sở lợi ích từ việc
trợ cấp có thể không thể tính toán được do về mặt định nghĩa,
các nền kinh tế phi thị trường không cho phép xác định
những lợi ích đó. Vì vậy, khi GATT lần đầu được quy định
vào những năm 1940, vấn đề kinh tế phi thị trường không
được đề cập chi tiết trong bối cảnh vụ việc chống trợ cấp so
với vụ việc chống bán phá giá.
26
Điều này giải thích tại sao một số nước hay sử dụng
biện pháp chống bán phá giá như Hoa Kỳ, EU và Canada đã
không sử dụng biện pháp chống trợ cấp đối với quốc gia có
nền kinh tế phi thị trường. Tuy nhiên, luật pháp những quốc
gia này cũng không quy định một cách rõ ràng việc cấm sử
dụng thuế chống trợ cấp với quốc gia có nền kinh tế phi thị
trường. Kể cả Hiệp định SCM và GATT của WTO cũng
không cấm việc áp dụng CVD đối với quốc gia có nền kinh tế
phi thị trường. Do đó, việc liệu có thể áp dụng CVD đối với
quốc gia có nền kinh tế phi thị trường hay không phụ thuộc
hoàn toàn vào quyết định của Thành viên WTO.
3. Áp dụng kép các biện pháp phòng vệ thương
mại đối với các nước có nền kinh tế phi thị trường
3.1 Thực tiễn áp dụng
Ngoài 03 quốc gia (Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu và
Canada) là các nước thường xuyên sử dụng các biện pháp
chống trợ cấp trên, nhiều nước gần đây cũng tham gia vào
nhóm sử dụng các biện pháp chống trợ cấp đối với các nước
NME như Ấn Độ, Nam Phi, Mexico. Trung Quốc đã trở
thành mục tiêu trong các cuộc điều tra chống trợ cấp mới bắt
đầu từ năm 2004 và bị áp dụng các biện pháp đối kháng từ
năm 2005.19
19Xem WTO, Khởi xướng điều tra chống trợ cấp: Từ các nước xuất khẩu
từ 01/01/95 tới 30/06/09, tại
và các
biện pháp đối kháng từ các nước xuất khẩu từ ngày 1 tháng 1 năm 1995
đến ngày 30 tháng 6 năm 2009 tại
Như trong Phụ
27
Bảng 1. Các biện pháp chống trợ cấp đối với
Trung Quốc từ các thành viên WTO20
Năm Số vụ điều tra
Số lượng biện pháp
áp dụng
2004 Canada(3)
2005 Canada(2)
2006
Canada(1)
US(1)
2007
Canada(1)
Hoa Kỳ(7)
Canada(1)
2008
Úc(2)
Canada(3)
Nam Phi(1)
Hoa Kỳ(5)
Canada(3)
Hoa Kỳ(7)
2009
Úc(1)
Canada(1)
Ấn độ(1)
Hoa Kỳ(10)
Canada(1)
Hoa Kỳ(5)
2010
Canada(1)
EU(2)
Hoa Kỳ(2)
Úc(1)
Canada(1)
Hoa Kỳ(6)
2011
Úc(2)
Canada(2)
Mexico(1)
Hoa Kỳ(5)
Canada(1)
EU(1)
Hoa Kỳ(7)
2012
EU(2)
Hoa Kỳ(2)
Hoa Kỳ(4)
lục 2, đã có những vụ việc điều tra CVD từ các nước Australia, Indian và
Nam Phi đối với hàng nhập khẩu trợ cấp từ Trung Quốc. Tuy nhiên, các
vụ việc đơn lẻ của Ấn Độ và Nam Phi đã bị hủy bỏ trong khi vụ việc Úc
khởi xướng đã có hiệu lực từ ngày 14 tháng 4 năm 2010.
20Số liệu thu thập từ trang tin điện tử của WTO và các cơ quan điều tra.
Do có sự không đồng nhất về số liệu, ví dụ, giữa thông báo của WTO và
hồ sơ của các thành viên nên chúng tôi tập trung vào hồ sơ gốc của các
thành viên WTO
28
3.2 Cơ sở pháp lý cho việc không áp dụng kép biện pháp
phòng vệ thương mại
Vì việc áp dụng CVD đối với quốc gia có nền kinh tế
phi thị trường là hiếm xảy ra nên việc áp dụng kép biện
pháp phòng vệ hay việc sử dụng đồng thời biện pháp CBPG
và chống trợ cấp đối với nền kinh tế phi thị trường là chưa
từng có tiền lệ trong hệ thống của GATT/WTO cho đến
những năm gần đây. Tuy nhiên, như đã phân tích ở phần
trên những quy tắc ban đầu của GATT lại không quy định
một cách rõ ràng về việc vi phạm vấn đề áp dụng kép biện
pháp phòng vệ trên thực tế, không phân biệt đối với nền
kinh tế thị trường hay phi thị trường. Thay vào đó, Điều
VI:5 của GATT quy định:
“5. Không một sản phẩm nào trong lãnh thổ của một
bên nhập khẩu vào lãnh thổ của một bên khác sẽ cùng lúc
phải chịu cả thuế bán phá giá và thuế đối kháng để bù đắp
cho cùng một khoản bán phá giá hay trợ cấp xuất khẩu”
Nói cách khác là không được phép áp dụng đồng thời
cả thuế CBPG và chống trợ cấp đối với các khoản trợ cấp xuất
khẩu, nhưng không phải với các trợ cấp khác. Vì vậy, ví dụ khi
Hoa Kỳ đồng thời áp thuế CBPG và chống trợ cấp đối với
những khoản trợ cấp xuất khẩu thì Bộ Thương mại Hoa Kỳ
(DOC) phải bù trừ phần thuế đối kháng trong việc tính toán
phá giá để tránh vi phạm quy định trên – nghĩa là việc áp dụng
kép biện pháp phòng vệ cho khoản trợ cấp xuất khẩu. Cụ thể
hơn, giá xuất khẩu được tăng lên bằng với mức trợ cấp được
áp đối với sản phẩm để bù đắp trợ cấp xuất khẩu. Cơ chế đơn
giản hóa của phương pháp này được nêu trong Hình 1. Giả sử
29
GiGiá trị thông thường = $100
rằng nước A trợ cấp 20$ trên mỗi đơn vị hàng hóa xuất khẩu
cho nhà xuất khẩu của họ, Công ty a, bán mặt hàng đó với giá
100$ tại thị trường nội địa và xuất khẩu vào Hoa Kỳ với giá
70$. Khi DOC áp thuế đối kháng là 20$ đối với khoản trợ cấp
thì khoản thuế này phải được cộng vào giá xuất khẩu thực tế là
70$ vì vậy biên độ bán phá giá hay sự khác biệt giữa giá xuất
khẩu và giá trị thông thường chỉ là 10$
Hình 1. Cấu trúc bù đắp thuế đối kháng trong việc
tính toán biên độ phá giá:
Nền kinh tế thị trường
Trợ cấp xuất khẩu: 20$ Giá xuất khẩu (EP) = 70$
Giá xuất khẩu điều chỉnh = EP + CVD = 90$
DOC giải thích rằng phương pháp này tránh được
việc áp dụng kép các biện pháp phòng vệ (tính trùng thuế)
trong các vụ điều tra phòng vệ thương mại kép đối với hàng
nhập khẩu từ Thành viên WTO được coi là có nền kinh tế thị
trường. Ngược lại, khi có những trợ cấp nội địa ảnh hưởng
tới cả giá xuất khẩu và giá trị thông thường thì DOC sẽ không
Nước A
Công ty A
CVCVD = 20$
CVD = $20 = 20
AD = 10$
Hoa Kỳ
30
thực hiện việc điều chỉnh đối với giá xuất khẩu. Ví dụ, nếu
giá trị thông thường cũng giảm xuống mức 80$ bởi ảnh
hưởng của trợ cấp như trong hình 1, thì biên độ phá giá sẽ
được xác định đơn giản bằng cách so sánh giữa giá trị thông
thường (80$) với giá xuất khẩu (70$).
Mặt khác, sự phát triển quan trọng trong lịch sử soạn
thảo luật liên quan đến vấn đề áp dụng kép các biện pháp
phòng vệ là vấn đề loại trừ trong Điều 15 của Đạo luật vòng
đàm phán Tokyo trong đó yêu cầu một cách rõ ràng sự lựa
chọn giữa CBPG và chống trợ cấp trong việc xử lý thiệt hại
gây ra bởi hàng hóa nhập khẩu từ một quốc gia có nền kinh tế
phi thị trường. Trên thực tế, điều luật này không thu hút được
sự quan tâm giữa các bên tham gia GATT bởi vì không có
bên nào tại thời điểm đó đã từng sử dụng hay bị ảnh hưởng
bởi nó. Kết quả là, Điều 15 của Đạo luật của vòng đàm phán
Tokyo không xuất hiện trong chương trình đàm phán và được
loại bỏ ngay tại bản dự thảo đầu tiên của Hiệp định Chống trợ
cấp vào tháng 9 năm 1990.
Trong vụ việc Hoa Kỳ điều tra AD/CVD đối với
Trung Quốc, Ban Hội thẩm đã xem xét tới sự tồn tại của Điều
15 của Đạo luật về CPBG của vòng đàm phán Tokyo là rất
“quan trọng”. Trung Quốc đã lập luận rằng “Những tình tiết
xung quanh vòng đàm phán Uruguay cho thấy rõ ràng rằng
những vấn đề liên quan đến vấn đề áp dụng kép biện pháp
phòng vệ đã không còn được xem xét là phù hợp tại thời
điểm đó” bởi vì không có bên tham gia nào áp dụng thực tế
cả thuế CBPG đồng thời với biện pháp chống trợ cấp đối với
quốc gia có nền kinh tế phi thị trường và thậm chí là Hoa Kỳ
- nước sử dụng thuế đối kháng nhiều nhất – đã có quan điểm
31
rõ ràng là không áp dụng biện pháp chống trợ cấp đối với quốc
gia có nền kinh tế phi thị trường. Hoa Kỳ đã phủ định điều đó
bằng cách lập luận rằng Đạo luật về CPBG của vòng đàm phán
Tokyo đã bao gồm những quy định gần như giống với quy
định tại Điều 19.3 và 19.4 của Hiệp định SCM. Nói cách khác,
Hoa Kỳ lập luận rằng “nếu có những quy định cấm việc áp
dụng kép các biện pháp phòng vệ, như Trung Quốc đã lập
luận, thì không cần thiết phải đưa vào - một quy định rõ ràng
cấm việc điều tra đồng thời AD/CVD trong Đạo luật.”
Ban Hội thẩm “[đã] xem xét rằng lý do để đưa vào
Điều 15 của Đạo luật của vòng đàm phán Tokyo về trợ cấp
tiềm ẩn khả năng áp dụng kép các biện pháp phòng vệ từ kết
quả của việc áp đồng thời phương pháp tính toán thuế CBPG
và thuế chống trợ cấp đối với quốc gia có nền kinh tế phi thị
trường, hoặc ít nhất nhận thấy rằng việc sử dụng phương
pháp đối với nền kinh tế phi thị trường sẽ dẫn tới những sự
khác nhau về giá cả do những khoản trợ cấp đối với sản phẩm
là đối tượng của thuế chống bán phá giá.” Tuy nhiên, Ban
Hội thẩm không đưa ra phán quyết rõ ràng về việc làm thế
nào để giải thích việc loại bỏ Điều 15 của Đạo luật trong
Hiệp định SCM. Thay vào đó, Ban Hội thẩm đã phán quyết
rằng sự tồn tại Điều 15 của Đạo luật mà đã giải quyết một
cách rõ ràng việc áp dụng đồng thời thuế chống bán phá giá
và chống trợ cấp đối với quốc gia có nền kinh tế phi thị
trường không liên quan tới Điều 19.3 và 19.4 của Hiệp định
chống trợ cấp đối với câu hỏi về việc cho phép áp dụng kép
các biện pháp phòng vệ.
Liên quan đến vấn đề này, Ban Hội thẩm đã phán
quyết rằng việc cấm áp dụng kép các biện pháp phòng vệ
32
theo Điều VI:5 của GATT được giới hạn chỉ đối với các trợ
cấp xuất khẩu. Như vậy, quan điểm của Ban Hội thẩm cho
rằng trong khi việc áp dụng kép các biện pháp phòng vệ đối
với trợ cấp xuất khẩu là bị cấm từ khi có sự ra đời của GATT
thì việc quy định rõ ràng liên quan đến vấn đề áp dụng kép
các biện pháp phòng vệ đối với quốc gia có nền kinh tế phi
thị trường đã thay đổi rõ ràng trong vòng đàm phán Uruguay
với ngụ ý rằng những người soạn thảo thực ra đã có ý định
mở rộng phạm vi của vụ việc chống trợ cấp đối với nền kinh
tế phi thị trường. Sự sửa đổi này có thể là không cần thiết bởi
vì lý do căn bản là nền kinh tế ngày càng tốt hơn nhưng thay
vào đó có thể được kết hợp tốt do những kết quả của thương
lượng về chính trị. Do những nguyên tắc theo Hiệp định
SCM đã được tăng cường đáng kể để điều chỉnh các biện
pháp trợ cấp trong vòng đàm phán Uruguay và sau khi Trung
Quốc – một nước lớn có nền kinh tế phi thị trường với tiềm
năng thương mại khổng lồ - đã cố gắng để tham gia vào
GATT thì có vẻ là hợp lý nếu cho rằng việc áp dụng biện
pháp đối kháng với quốc gia có nền kinh tế phi thị trường đã
được mở rộng mặc dù vấn đều này không thu hút được nhiều
sự quan tâm.
3.3 Những thách thức trong vấn đề áp dụng kép các
biện pháp phòng vệ thương mại đối với các nước có nền
kinh tế phi thị trường
3.3.1 Các thông lệ và quyết định hiện tại của tòa án một
số nước đối với vấn đề “áp dụng kép các biện pháp phòng vệ
thương mại” có xu hướng không ủng hộ việc áp dụng kép
33
Đạo luật của Hoa Kỳ cho phép áp dụng thuế chống
trợ cấp để bù trừ thiệt hại do trợ cấp gây ra và quốc gia này
đã trở thành nước sử dụng nhiều nhất biện pháp đối kháng
trong hệ thống thương mại thế giới21. Tuy nhiên, trước đây
Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) đã có một chính sách lâu đời
quy định không áp dụng các biện pháp đối kháng với các
nước có nền kinh tế phi thị trường. Chỉ gần đây, Bộ Thương
mại Hoa Kỳ mới sửa đổi chính sách này của mình để điều tra
và ra lệnh áp dụng thuế chống trợ cấp đối với các nước có
nền kinh tế phi thị trường.
a. Những vụ kiện điển hình cho việc không áp dụng
luật thuế đối kháng đối với các nước có nền kinh tế phi
thị trường
- Vụ hàng dệt may, may mặc và các sản phẩm liên
quan từ Trung Quốc
Nỗ lực đầu tiên về áp dụng luật thuế chống trợ cấp
đối với nước có nền kinh tế phi thị trường được tiến hành
21
Quyền đánh thuế đối kháng được quy định tại Điều 19 USC mục §
1671(a). Theo số liệu của WTO, từ ngày 1 tháng 1 năm 1995 đến 30
tháng 6 năm 2009, Hoa Kỳ đã khởi xướng 94 vụ điều tra chống trợ cấp
trong tổng số 226 vụ được thống kê, và trong số các vụ khởi xướng
đó, đã ra lệnh áp dụng biện pháp đối kháng đối với 57 trường hợp
trong số 113 vụ việc đang có hiệu lực trên thế giới. Số liệu cung cấp
tại website WTO, link
và
.
34
vào tháng 9 năm 1983. Hiệp hội các nhà sản xuất hàng dệt
may Hoa Kỳ, Liên đoàn công nhân dệt may và may mặc hợp
nhất (ACTWU) và Hội công nhân nữ ngành dệt may quốc tế
(ILGWU), đại diện cho ngành công nghiệp dệt may, may
mặc của Hoa Kỳ đã đệ đơn kiện cáo buộc chính phủ Trung
Quốc đã trợ cấp cho hàng dệt may xuất khẩu vào Hoa Kỳ22.
Tuy nhiên, đơn kiện này đã được rút lại vào ngày Bộ
Thương mại Hoa Kỳ lên kế hoạch công bố quyết định sơ bộ
về vấn đề này. Kết quả là, vấn đề pháp lý về việc liệu luật
thuế chống trợ cấp có được áp dụng cho các nước có nền
kinh tế phi thị trường hay không vẫn chưa bao giờ được
chính thức áp dụng. Tuy nhiên, nỗ lực này đã khuyến khích
chính phủ Hoa Kỳ có các biện pháp nhằm giảm nhập khẩu
hàng dệt may từ Trung Quốc23.
22
Xem Khởi xướng các cuộc điều tra đối kháng; Hàng dệt may, may mặc,
và các sản phảm liên quan từ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, 48 Fed.
Reg. 46,600 (Bộ Thương mại Hoa Kỳ, ngày 13 tháng 10 năm 1983).
23
Ngành dệt may của Hoa Kỳ đã rút đơn kiện chỉ sau khi chính phủ Hoa
Kỳ đảm bảo rằng sẽ có những biện pháp được đưa ra nhằm giảm nhập
khẩu. Trên thực tế, ngành dệt may Hoa Kỳ đã có được những lợi ích đáng
kể từ chỉ riêng việc khởi kiện chống trợ cấp. Xem Michael G. Egge, “Mối
đe dọa của việc Hoa Kỳ sử dụng thuế đối kháng đối với các nước Đông
Âu có nền kinh thế thị trường mới nổi: Một con rắn trong vườn?” 30 Va.
J. Int’l L., 953 (1990) và Stanislaw J. Soltysinski, “Luật về hỗ trợ nhập
khẩu và thương mại của Hoa Kỳ với các nước có nền kinh tế kế hoạch
tập trung” Fla. Int’l L. J. 59, 66 (1987). Xem Alan F. Holmer và Judith H.
Bello, “Chính sách và luật thương mại Hoa Kỳ, Phần #7: Việc áp dụng
luật thuế đối kháng đối với nền kinh tế phi thị trường” 20 Int’l L. 319,
322 (1986)
35
- Vụ kiện Dây thép Carbon từ Cộng hòa Séc và
Slovakia và Ba Lan
Ngày 23 tháng 11 năm 1983, chỉ 2 tháng sau khi
ngành công nghiệp dệt may đệ đơn kiện Trung Quốc, 4 nhà
sản xuất thép Hoa Kỳ - Công ty thép Atlantic, Công ty thép
Continental, Công ty thép Raritan, Tập đoàn thép
Georgetown cũng đại diện cho ngành công nghiệp sản xuất
dây thép carbon Hoa Kỳ đã nộp đơn khởi kiện chống trợ cấp.
Các nguyên đơn cáo buộc rằng các nhà sản xuất và xuất khẩu
Cộng hòa Séc, Slovakia và Ba Lan đã thu được lợi ích từ
những khoản “khuyến khích hoặc hỗ trợ” theo quy định tại
Luật chống trợ cấp24.
Do cuộc điều tra chống trợ cấp trước đó đối với hàng
dệt may và may mặc từ Trung Quốc đã kết thúc nên đây là cơ
hội đầu tiên để DOC ra quyết định sơ bộ xem liệu hành vi của
chính phủ một nước được coi là có nền kinh tế phi thị trường
có mang lại những lợi ích có thể đối kháng hay không”25 Hai
nghi vấn pháp lý chính trong cuộc điều tra sơ bộ là: (i) Mục
24
Xem vụ kiện dây thép Carbon từ Cộng Hòa Czech, Slovakia; Quyết
định sơ bộ không áp thuế đối kháng, 49 Fed. Reg. 6,773 (Bộ Thương mại
Hoa Kỳ, ngày 23 tháng 2 năm 1984); vụ kiện dây thép Carbon từ Cộng
Hòa Czechoslovakia; Quyết định cuối cùng không áp Thuế đối kháng, 49
Fed. Reg. 19,370 (Bộ Thương mại Hoa Kỳ, ngày 7 tháng 5 năm 1984);
Dây thép carbon từ Ba Lan; Quyết định sơ bộ không áp thuế đối kháng
49 Fed. Reg. 6,768 (Bộ Thương mại Hoa Kỳ ngày 23 tháng 2 năm 1984);
Dây thép carbon từ Ba Lan; Quyết định cuối cùng không áp thuế đối
kháng, 49 Fed. Reg. 19,374 (Bộ Thương mại Hoa Kỳ, ngày 7 tháng 5 năm
1984); Tất cả có thể tìm thấy tại website .
25
Xem vụ kiện dây thép Carbon từ Cộng Hòa Czech, Slovakia; Quyết
định sơ bộ không áp thuế đối kháng, 49 Fed. Reg. 6,773 (Bộ Thương mại
Hoa Kỳ, ngày 23 tháng 2 năm 1984), trang 6,774
36
303 có được áp dụng cho các quốc gia có nền kinh tế phi thị
trường hay không? và ii) các hoạt động của chính phủ nước
có nền kinh tế phi thị trường có mang tính chất “khuyến
khích và hỗ trợ” như được định nghĩa trong Mục 303 không?
Về nghi vấn thứ nhất, Bộ Thương mại Hoa Kỳ sơ bộ cho
rằng các nước có nền kinh tế phi thị trường vốn không được
miễn trong luật về các biện pháp đối kháng. Quyết định cuối
cùng giữ nguyên kết luận trước đó mà đã giải quyết một cách
chính xác, dựa trên cách giải thích hẹp về mục 303 đó là tập
trung vào đoạn quy định rằng luật chống trợ cấp có thể được
áp dụng cho “bất cứ nước nào, quốc gia phụ thuộc, thuộc địa,
tỉnh hoặc vùng chính trị của chính phủ”26. Về nghi vấn thứ
hai, Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã kết luận rằng “sự khuyến
khích hay hỗ trợ” theo nghĩa của Mục 303 không thể được
tìm thấy trong 2 vụ kiện này27. Trong khi phán quyết sơ bộ đã
hạn chế quyết định đối với 2 vụ kiện thì quyết định cuối cùng
đã xem xét lại vấn đề này trong bối cảnh tổng thể hơn28.
Trong quá trình điều tra sơ bộ, Bộ Thương mại Hoa Kỳ
đã phân tích các chương trình của chính phủ nước xuất khẩu
theo hai bước: i) Liệu những chương trình này có cấu thành
một khoản trợ cấp trong một nền kinh tế thị trường không và
ii) Liệu kết luận bước một đó có khác đối với nền kinh tế phi
26
Xem vụ kiện dây thép Carbon từ Cộng Hòa Czech, Slovakia; Quyết
định cuối cùng không áp thuế đối kháng, 49 Fed. Reg. 19,370 (Bộ
Thương mại Hoa Kỳ, ngày 7 tháng 5 năm 1984) trang 19,371
27 Như trên
28
Xem ví dụ tại vụ kiện dây thép Carbon từ Ba Lan: Quyết định cuối
cùng không áp Thuế đối kháng, 49 Fed. Reg. 19,370 (Bộ Thương mại
Hoa Kỳ, ngày 7 tháng 5 năm 1984) trang 19,375
37
thị trường. Theo đó, cơ quan này trước tiên lập luận là hệ
thống đa tỷ giá hối đoái, cơ chế lưu trữ ngoại hối, hệ số
chuyển đổi mậu dịch đối với tỷ giá chính thức, các khoản
miễn thuế và cơ chế ngang giá của Cộng Hòa Séc, Slovakia
và Ba Lan không được coi là những khoản khuyến khích hay
trợ cấp xét trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hay nền kinh
tế phi thị trường29. Dựa trên cơ sở đó, DOC đã đưa ra quyết
định sơ bộ rằng, trong khi Quốc hội thực chất không loại trừ
các nước có nền kinh tế phi thị trường ra khỏi luật CVD
nhưng những chương trình bị cáo buộc của chính phủ Cộng
hòa Séc, Slovakia và Ba Lan không được xem là những
khoản khuyến khích và hỗ trợ theo quy định Luật thuế đối
kháng của Hoa Kỳ.
Trong quá trình đi đến quyết định cuối cùng, DOC đã
tìm thêm những cơ sở về mặt kinh tế và định nghĩa về sự tồn
tại trợ cấp tại một nền kinh tế phi thị trường thông qua nhiều
nguồn bao gồm Hướng dẫn của Quốc hội, nguồn học thuật và
từ nguồn chính phủ Hoa Kỳ. DOC dựa trên quan điểm rằng
các hoạt động của chính phủ ở một nước có nền kinh tế phi
thị trường không thể coi là trợ cấp bởi vì trên định nghĩa trợ
cấp là hành động bóp méo hoạt động của thị trường. DOC lập
luận rằng do trên thực tế và lý thuyết thì không thể xác định
được trợ cấp ở một nước có nền kinh tế phi thị trường mà
trong đó nền kinh tế phụ thuộc vào kế hoạch hóa tập trung
29
Hệ số chuyển đổi mậu dịch đối với tỷ giá hối đoái chính thức và
chương trình miễn thuế cho nguồn thu từ giao dịch nước ngoài là các
chương trình của Cộng hòa Czechoslovakia trong khi cơ chế ngang giá
được đưa ra bởi chính phủ Ba Lan
38
hơn là các lực lượng thị trường. DOC tóm tắt các vấn đề
phương pháp luận mà DOC gặp phải trong các vụ kiện này
như sau:
“Chúng tôi tin rằng một khoản trợ cấp (hoặc khoản
khuyến khích hay hỗ trợ) theo định nghĩa là bất cứ hành động
nào bóp méo hoặc phá vỡ quá trình vận hành của thị trường
và dẫn đến việc phân bổ sai nguồn lực Trong nền kinh tế
phi thị trường, các nguồn lực không được phân phối bởi thị
trường. Với các mức độ kiểm soát khác nhau, việc phân phối
này được thực hiện theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung.
Không có yếu tố thị trường, rõ ràng việc tìm kiếm sự phân bổ
nguồn lực sai tạo thành trợ cấp là vô nghĩa. Không hề có cơ
chế thị trường để có thể bóp méo hay làm sai lệch Đây là
sự khác biệt cơ bản đó là trong một nền kinh tế phi thị
trường, chính phủ không can thiệp vào hoạt động của thị
trường mà thay thế vai trò của nó - điều này khiến chúng tôi
đi đến kết luận rằng trợ cấp không có ý nghĩa ngoài bối cảnh
của một nền kinh thị trường”30
Dựa trên lịch sử Luật thuế đối kháng và luật thương
mại quốc tế chung, DOC kết luận rằng Quốc hội “chưa bao
giờ đối mặt trực tiếp với vấn đề liệu luật thuế đối kháng có áp
dụng cho các nước NME”31. Kể từ khi Quốc hội ban hành
luật về các biện pháp đối kháng được áp dụng rộng rãi lần
đầu tiên trong Chương 5 của Đạo luật thuế quan năm 1897,
thuật ngữ pháp lý về “khoản khuyến khích hoặc hỗ trợ” vẫn
30
Xem chú thích 16 phía trên, tại trang 19.372
31
Xem chú thích trên, trang 19.373
39
gần như không thay đổi qua vài lần sửa đổi sau đó. Tầm quan
trọng ngày càng tãng của hàng nhập khẩu từ các nước có nền
kinh tế phi thị trường đã không làm thay đổi tình trạng này và
Quốc hội Hoa Kỳ đã không đưa ra hành động nào để điều
chỉnh quan niệm về “khoản khuyến khích hoặc hỗ trợ” để
giải quyết những vấn đề đặc biệt nổi lên từ việc nhập khẩu từ
các nước có nền kinh tế phi thị trường.
Vào năm 1974 và sau đó là năm 1979, Quốc hội đã có
những hành động để giải quyết vấn đề thông lệ thương mại
không bình đẳng liên quan đến nhập khẩu từ các nước có nền
kinh tế phi thị trường. Tuy nhiên, phương án áp dụng luật các
biện pháp đối kháng đối với các nền kinh tế phi thị trường
chưa từng được đưa ra. Thay vào đó, Quốc hội quay sang hai
biện pháp phòng vệ thương mại khác để đối phó với vấn đề
này. Cụ thể là, trong Đạo luật Thương mại năm 1974, Quốc
hội đã sửa đổi Mục 205 của Đạo luật chống bán phá giá để
thiết lập những quy định điều chỉnh vấn đề cạnh tranh không
lành mạnh từ các nước có nền kinh tế phi thị trường32. Mặt
khác, Quốc hội cũng đã ban hành Mục 406, một quy định đặc
biệt về “phá vỡ thị trường” trong Đạo luật Thương mại năm
1974, nhằm bảo vệ các ngành sản xuất Hoa Kỳ khỏi những
thiệt hại thương mại gây nên bởi các nước cộng sản33.
Tương tự, Quốc hội không sửa đổi bất cứ một điều
khoản nào về các biện pháp đối kháng trong Đạo luật Hiệp
định Thương mại năm 1979 mà trong đó Quốc hội đã xây
dựng lại về cãn bản luật về các biện pháp đối kháng của Hoa
32
Xem khoản 773(c) của Bộ luật, Khoản 1677b(c) 19 USC (1982).
33
Xem khoản 2436 19 USC (1974)
40
Kỳ. Mặc dù Điều 15 của Đạo luật này là Đạo luật thi hành
quy định về Đạo luật chống trợ cấp và bán phá giá của Hiệp
định Thương mại và Thuế quan chung (GATT), rõ rằng cho
phép điều chỉnh nhập khẩu không công bằng về giá từ các
nước có nền kinh tế phi thị trường theo sự điều chỉnh của các
quy định về thuế đối kháng và chống bán phá giá, nhưng
Quốc hội vẫn giữ im lặng về vấn đề sử dụng các biện pháp
đối kháng. Thay vào đó, Quốc hội ban hành lại điều khoản
đặc biệt về chống bán phá giá điều chỉnh các vụ kiện liên
quan đến các nước có nền kinh tế phi thị trường.
Theo đó, trong một Báo cáo nghiên cứu trình Quốc
hội, cơ quan Tổng kiểm toán Hoa Kỳ đã kết luận rằng việc
xác định và phân loại trợ cấp trong nền kinh tế phi thị trường
là điều xa vời34. Hướng dẫn mang tính học thuật cũng cho
rằng luật đối kháng không thể áp dụng cho các nước có nền
kinh tế phi thị trường. Cụ thể là, tiến sĩ John H. Barcelo III
cho rằng “nếu một nước xuất khẩu có nền kinh tế phi thị
trường có liên quan, hầu hết các phân tích được sử dụng cho
đến nay đối với cả trợ cấp nội địa và trợ cấp xuất khẩu đều
hoàn toàn không thể áp dụng Về mặt lý thuyết, bất cứ đơn
hàng nào có thể được trợ cấp hay không trợ cấp, nhưng do
không có điểm tham chiếu của thị trường nên việc nói như
vậy là không có ý nghĩa 35.”
34
Xem Tổng kiểm toán, Báo cáo lên Quốc hội Hoa Kỳ: Luật và Quy định
áp dụng cho việc nhập khẩu từ các nước có nền kinh tế phi thị trường có
thể được cải thiện (1981), 32
35
J. Barcelo, “Bản đề xuất và phân tích về thuế đối kháng và trợ cấp”,
Chính sách và luật kinh doanh quốc tế 779, 850 (1977). Được trích dẫn
trong chú thích 16 ở trên, tại trang 19,374.
41
Những lập luận này dẫn đến cuối cùng DOC kết luận
rằng, về mặt luật pháp, Chương 303 không thể áp dụng cho
các nước có nền kinh tế phi thị trường. Do DOC xác định
Cộng hòa Séc, Slovakia và Ba Lan là các nước có nền kinh tế
phi thị trường nên DOC đã công bố kết luận cuối cùng có
hiệu lực từ ngày 7 tháng 5 năm 1984 về việc không áp dụng
các biện pháp đối kháng đối với 2 nước trên.
- Vụ việc Kali Clorua từ Cộng hòa dân chủ Đức và
Liên bang Xô viết
Vào ngày 30 tháng 3 năm 1984, ngay trước khi quyết
định cuối cùng về các vụ kiện liên quan đến Cộng hòa Séc,
Slovakia và Ba Lan được đưa ra, DOC nhận được đơn khiếu
kiện từ Công ty hóa chất Amax, và Tổng công ty hóa chất
Kerr-McFee, đại diện cho ngành công nghiệp sản xuất Kali
Clorua Hoa Kỳ (sau đây gọi là “Potash”), cáo buộc Cộng hòa
dân chủ Đức và Liên bang Xô viết trợ cấp bất hợp pháp. Tuy
nhiên, dựa trên quyết định cuối cùng trong vụ kiện Dây thép
carbon mà kết luận rằng các khoản khuyến khích hay hỗ trợ
đề cập đến trong luật chống trợ cấp không thể xác định được
ở các nước có nền kinh tế phi thị trường nên DOC đã không
tiến hành điều tra và từ chối đơn kiện36.
36
Xem vụ kiện Kali Clorua xuất khẩu từ Cộng hòa dân chủ Đức, Hủy bỏ
việc khởi kiện Điều tra thuế đối kháng và bác bỏ đơn kiện, 49 Fed. Reg.
23,428 (Bộ thương mại, ngày 6 tháng 6 năm 1984) và Potassium Clorua
từ Liên Xô cũ; Hủy bỏ điều tra chống trợ cấp và bác bỏ đơn kiện, 49 Fed.
Reg. 23,428 (Bộ thương mại, ngày 6 tháng 6 năm 1984)
42
b. Các quyết định của tòa án về việc không áp dụng
Luật CVD đối với các nước có nền kinh tế phi thị trường
- Kết luận đảo ngược của Tòa Thương mại quốc tế
Hoa Kỳ
Sau khi những vụ kiện năm 1984 bị từ chối và có
phán quyết phủ định về trợ cấp, các nguyên đơn trong ngành
công nghiệp dây thép và Kali Clorua đã tìm đến Tòa Thương
mại quốc tế Hoa Kỳ (CIT) yêu cầu xem xét lại. CIT đã tập
hợp các vụ kiện này và rà soát lại phán quyết của DOC mà
trong đó kết luận rằng về mặt luật pháp, các khoản trợ cấp
không thể xác định được tại các nước có nền kinh tế phi thị
trường. CIT đã giữ nguyên kết luận rằng luật thuế đối kháng
“điều chỉnh cả các nước có nền kinh tế phi thị trường bởi
thực tế các khoản trợ cấp chính phủ mà là đối tượng điều
chỉnh của luật này có thể được xác định trong các nền kinh tế
phi thị trường cũng như nền kinh tế thị trường”37. Trong báo
cáo chi tiết, CIT đã giải quyết từng vấn đề liên quan đến 4 cơ
sở mà DOC đã dựa vào để đưa ra kết luận về việc không áp
dụng điều tra chống trợ cấp đối với các nước có nền kinh tế
phi thị trường38.
37
Xem vụ kiện giữa công ty thép Continential và Hoa Kỳ, 9 C.I.T. 340,
614 F. Supp. 548 (30 July 1985).
38
Bốn cơ sở được ghi chi tiết trong mục ii) Diễn biến của Quyết định sơ
bộ và cuối cùng trong mục b. năm 1984, thanh thép cacbon từ Cộng hoà
Czechoslovakia và Ba Lan bao gồm: (a) quan điểm cho rằng trợ cấp
không thể xác định ở các nước NME “bởi vì sự trợ cấp, theo định nghĩa,
là hành động bóp mép hoạt động thị trường [tự do]; (b) ‘Sự im lặng’ của
Quốc hội về vấn đề này và việc ưu tiên rõ ràng hơn các biện pháp phòng
vệ thương mại khác; (c) sự nhất trí trong ý kiến học thuật về không áp
43
Trước hết, theo quan điểm của CIT, lập trường của
DOC đã là một sự “tự mâu thuẫn”39. DOC dường như đã
công nhận rằng phạm vi luật thuế đối kháng điều chỉnh “bất
cứ một quốc gia nào” và bản thân luật không cho phép sự
miễn trừ cho bất cứ một đối tượng chính trị nào. Tuy nhiên,
DOC đã tiếp tục hướng đến giải quyết “vấn đề phạm vi điều
chỉnh bổ sung”, cụ thể là, liệu các chương trình của chính phủ
các nước có nền kinh tế phi thị trường có thể được coi là một
“khoản khuyến khích hay hỗ trợ” theo định nghĩa của luật
này hay không. Theo CIT, nếu như đây thực sự là vấn đề về
“phạm vi điều chỉnh” thì việc không đáp ứng được các tiêu
chí thực sự sẽ tương đương với việc miễn trừ khỏi luật chống
trợ cấp, và sẽ mâu thuẫn với tuyên bố trước đó rằng luật này
điều chỉnh “bất kỳ quốc gia nào”40. Tòa nhấn mạnh rằng ý
định pháp lý thiếu rõ ràng trái ngược với ngôn ngữ của luật
“thông thường phải được xem là mang tính kết luận”, do đó
quy định rằng Mục 303 hoàn toàn không liên quan đến các
hình thái của một nền kinh tế và các nước NMEs không thể
được miễn trừ khỏi sự điều chỉnh của luật thuế chống trợ
cấp41. Hơn thế, CIT bổ sung thêm rằng việc sử dụng ngôn
dụng luật thuế đối kháng với các nước có nền kinh tế phi thị trường và d)
sự tuỳ ý của ITA trong việc xác định sự tồn tại của trợ cấp
39
Xem chú thích 27 trên, trang 342
40
Như trên, trang 342-343.
41
Như trên, trang 344. Việc thảo luận them về quyết định của toà án, xem
Congressional Research Service, Pháp lệnh về phòng vệ thương mại: Ấp
dụng thuế đối kháng với các nước có nền kinh tế phi thị trường Trade
Remedy Legislation: Applying Countervailing Action to Nonmarket
Economy Countries (31/ 01/ 2008), trang 9
44
ngữ hàm ý rộng nhất có thể “rõ ràng bao hàm càng nhiều
hành động mang tính lợi ích càng tốt”42.
Thứ hai, bác bỏ sự ưu tiên của Quốc hội dành cho các
biện pháp phòng vệ khác, CIT đã kết luận rằng Mục 406 của
Đạo luật Thương mại năm 1947 được ban hành là một biện
pháp phòng vệ riêng áp dụng trong trường hợp cụ thể43. Do
đó, bản chất đặc biệt của luật thuế chống trợ cấp sẽ không bị
ảnh hưởng bởi sự tồn tại của các biện pháp phòng vệ thay thế.
Hơn nữa, CIT chỉ ra rằng Điều 15 của Đạo luật về Hiệp định
Thương mại năm 1979, “rõ rằng cho phép [Hoa Kỳ] được
lựa chọn việc sử dụng luật chống trợ cấp hoặc chống bán
phá giá đối với hàng nhập khẩu từ một nước có nền kinh tế
bị kiểm soát bởi chính phủ” và Quốc hội đã được thông
báo rằng các nước NME đã tham gia vào việc chuẩn bị soạn
thảo Đạo luật này44.
Thứ ba, CIT cho rằng quan điểm của giới nghiên cứu
kinh tế về việc chính phủ các nước có nền kinh tế phi thị
trường “không thể chỉ ra được cái gì được cho là khoản ưu
đãi đối với sản xuất hay xuất khẩu một hàng hóa cụ thể” là
không thuyết phục và khẳng định quan điểm như vậy “vi
phạm lẽ thông thường” và “mâu thuẫn với ý chí xây dựng
luật45”.
42
Xem chú thích 27 trên, trang 344
43
Xem chú thích 23. Phần này, cụ thể là điều khoản về phòng vệ, được
thông qua để bảo vệ ngành công nghiệp nội địa khỏi thiệt hại gây ra bởi
sự tang lên đột ngột của hàng nhập khẩu từ các nước xã hội chủ nghĩa
44
Xem chú thích 27, trang 349.
45
Như trên, trang 348.
45
CIT không phản đối quyền tùy nghi suy xét một cách
rộng rãi của DOC trong việc xác định khả năng áp dụng luật
thuế đối kháng cho các nước có nền kinh tế phi thị trường.
Tuy nhiên, CIT chỉ trích rằng thay vì đưa ra một “đối tượng
lý thuyết, vĩ mô” cho luật và đã phá vỡ một phần quan trọng
của mục đích thực tế của mình để “duy trì bảo hộ hiệu quả lợi
ích trong nước từ việc trợ cấp của nước ngoài” DOC nên
tập trung “thúc đẩy thực thi luật với phạm vi thẩm quyền và
khả năng cao nhất của cơ quan có thẩm quyền”46
Tất cả những xem xét trên dẫn đến ngày 30 tháng 7
năm 1985, CIT kết luận rằng quyết định của DOC trái ngược
với luật pháp và đảo ngược kết luận vụ kiện dây thép
Cacrbon năm 198447.
- Quyết định đảo ngược của Tòa Phúc thẩm Liên bang
Hoa Kỳ
DOC đã kháng cáo phán quyết của CIT lên Tòa Phúc
thẩm Liên bang48. Mặc dù Tòa Phúc thẩm đã bãi bỏ phán
quyết của CIT dựa trên những sai sót về qui trình khởi kiện
của nguyên đơn nhưng Tòa tiếp tục kết luận rằng trợ cấp là
một hiện tượng thị trường49. Tòa Phúc thẩm giải thích rằng
46
Như trên, trang 347
47
Như trên, trang 351
48
Xem vụ kiện Công ty thép Continential với Hoa Kỳ, 801 F.2d. 1,308
(18/9/1986).
49
Tòa Phúc thẩm giữ nguyên kết luận rằng các công ty thép đã không
viện dẫn quyền hạn của Tòa Thương mại quốc tế Hoa Kỳ khi họ gửi thư
khiếu nại không đóng đủ cước phí trong vòng 30 ngày gửi giấy triệu tập
và sau đó đã gửi lại nhưng ngoài thời hạn cho phép. Vụ Thép Georgetown
đã khẳng định rằng điều kiện tiên quyết để viện dẫn pháp lý của CIT là
việc nộp giấy triệu tập trong vòng 30 ngày kể từ sau khi ban hành quyết
46
trợ cấp của chính phủ các nước có nền kinh tế thị trường là
phù hợp với cơ chế kế hoạch hóa tập trung của nước đó chứ
không phải vì mục đích cạnh tranh không công bằng với thị
trường nước ngoài. Do đó, Tòa cho rằng luật chống trợ cấp
của Hoa Kỳ không nên có ý định áp dụng cho những hoạt
động đó của các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường. Như
vậy, có thể cho rằng, quyết định trong vụ Thép Georgetown
không dựa trên cơ sở giả định rằng một khoản trợ cấp không
thể tồn tại ở một nền kinh tế phi thị trường mà dựa trên lý
giải rằng nước có nền kinh tế phi thị trường không có ý định
“cạnh tranh không lành mạnh” thông qua việc cấp trợ cấp50.
Tòa Phúc thẩm cũng đã rà soát lại chi tiết lịch sử pháp
lý và sự phát triển của các quy định luật phòng vệ thương mại
định không áp dụng thuế đối kháng, và CIT với quyền hạn của mình theo
quy định 6(b) để từ chối thời hạn 30 ngày nộp đơn. Tuy nhiên Tòa Phúc
thẩm đã bác bỏ lập luận của phía Georgetown steel dựa trên ngôn ngữ tại
Mục 1516a(a)(2)(A) trong đó yêu cầu cả việc đệ trình giấy triệu tập và
đơn khiếu nại đúng thời hạn và lịch sử tư pháp của quy định.
50
Xem Egge, trích dẫn 13. Trong phân tích của tác giả, Egge tóm tắt hai
trường phái tư tưởng phản ánh trong vụ việc thép Georgetown liên quan
đến việc có thể áp dụng thuế đối kháng đối với nền kinh tế phi thị trường.
Ý kiến này trước đó cũng đã được thảo luận trong bài “Thương mại nền
kinh tế phi thị trường và Luật thuế Chống bán phá giá/Thuế đối kháng của
Hoa Kỳ” của Gary Horlick và Shannon Shuman, 18 Int’l L. 807 (1944),
829. Sự khác biệt cơ bản giữa hai hướng tiếp cận là quan điểm khác nhau
về vấn đề định nghĩa pháp lý và mục đích của một khoản trợ cấp có thể
đối kháng. Trường phái thứ nhất định nghĩa một khoản trợ cấp có thể đối
kháng liên quan đến sự bóp méo thị trường và do đó cho rằng mục đích
của luật thuế đối kháng là sửa lại thị trường. Egge giải thích rằng quyết
định của Tòa Phúc thẩm phù hợp với quan điểm này. Trong khi đó trường
phái thứ hai định nghĩa một khoản trợ cấp có thể đối kháng liên quan đến
mặt ưu đãi do đó nhìn nhận mục tiêu của Luật thuế đối kháng theo quan
điểm là công cụ bảo hộ ngành sản xuất trong nước. Tư tưởng này được
mô tả bởi ý kiến của thẩm phán Watson trong phán quyết của CIT
47
có liên quan. Tòa Phúc thẩm coi kết luận của CIT trong Đạo
luật năm 1979 về “cách hiểu rõ ràng từ Quốc hội rằng luật
thuế đối kháng điều chỉnh cả các nước có nền kinh tế phi thị
trường” là một “sự không nhất quán về lý lẽ” đồng thời cho
rằng quyết định của CIT là “không phù hợp với phân tích
[của Tòa Phúc thẩm] về cách hiểu và mục tiêu của Quốc hội
trong việc ban hành các điều khoản trong các Đạo luật năm
1974 và 1979 giải quyết việc áp dụng luật thuế chống bán
phá giá đối với các nước có nền kinh tế phi thị trường51”. Tòa
Phúc thẩm cho rằng Quốc hội đã quyết định biện pháp phù
hợp để bảo vệ các ngành sản xuất nội địa Hoa Kỳ trước việc
các nước có nền kinh tế phi thị trường xuất khẩu sang Hoa
Kỳ với giá thấp bất hợp lý thông qua luật thuế chống bán phá
giá, và do đó “tùy thuộc vào Quốc hội để đưa ra những biện
pháp phòng vệ bổ sung mà cho là phù hợp”52. Tòa Phúc thẩm
đưa ra phán quyết dựa theo tiền lệ “công nhận cơ quan thi
hành luật đối kháng (tức là DOC) có quyền tùy nghi rõ ràng
trong việc quyết định sự tồn tại của “khoản khuyến khích”
hay “hỗ trợ” theo luật này”53.
Tóm lại, ngày 18/09/1986, Tòa Phúc thẩm đã đảo
ngược kết luận của CIT và lặp lại quyết định ban đầu của
DOC, do đó khẳng định rằng DOC có thể không áp dụng luật
thuế đối kháng đối với các nước có nền kinh tế phi thị
trường54. Tòa Phúc thẩm cũng bác bỏ lệnh của CIT ở chừng
51
Xem chú thích 38 trang 1317
52
Như trên, trang 1318
53
Như trên
54
Như trên
48
mực là Tòa Phúc thẩm đã không xét đến kết luận của DOC
trong vụ Kali clorua.55
c. Thay đổi chính sách về áp dụng CVD đối với
Trung Quốc
- Sự đảo ngược kết luận của Bộ Thương mại
Ngày 27 tháng 11 năm 2006, DOC đã thông báo khởi
xướng điều chống trợ cấp đối với giấy tráng nhập khẩu từ
Trung Quốc (CFSP). Đây là cuộc điều tra chống trợ cấp đầu
tiên liên quan đến Trung Quốc kể từ năm 1991.56
Trong khoảng thời gian đó, đã có một vài thay đổi
quy định quan trọng. Những quy định về CVD trong vụ kiện
thép Geogetown chịu sự điều chỉnh của điều 1303 của
Chương 19 USC, dựa trên Mục 303 của Đạo luật Thuế quan
55
Như trên
56
Kể từ khi có kết luận về vụ kiện dây thép và Kali clorua, DOC đã
không tiến hành điều tra bất kỳ vụ chống trợ cấp đối với hàng nhập khẩu
bị cáo buộc trợ cấp từ các nước NMEs trừ 1 ngoại lệ đặc biệt. Ngày 13
tháng 11 năm 1991, DOC đã khởi xướng điều tra chống trợ cấp mặt hàng
“quạt trần và quạt để bàn” nhập khẩu từ Trung Quốc. Các nguyên đơn
khiếu kiện rằng trong khi Trung Quốc là một nước NME, ngành công
nghiệp sản xuất quạt nước này về bản chất hoạt động theo các quy luật thị
trường và luật các biện pháp đối kháng nên được áp dụng trong trường
hợp này”. Tuy nhiên, trong quyết định cuối cùng của mình, DOC tuyên
bố rằng “giá của một số loại nguyên liệu đầu vào quan trọng của sản
phẩm này không thể xác định theo giá thị trường” và DOC đã ra quyết
định không áp dụng biện pháp đối kháng. Xem Quyết định cuối cùng
không áp dụng thuế chống trợ cấp: Mặt hàng quạt trần và quạt bàn từ
nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Công báo Liên bang 57 Fed. Reg.
24,018 (Bộ Thương mại, ngày 5 tháng 6 năm 2002).
49
Hoa Kỳ năm 1930. Việc thực thi luật chống trợ cấp hiện tại
lại được điều chỉnh theo điều 1677 của Chương 19 USC
chỉnh sửa dựa trên Đạo luật về Hiệp định vòng Uruguay
năm 199557. Những quy định về biện pháp đối kháng hiện
tại cụ thể và chi tiết hơn so với trước đó, bởi nó kết hợp chặt
chẽ với Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng
của WTO.
Việc khởi xướng điều tra buộc DOC phải rà soát lại
chính sách có từ lâu đời của Hoa Kỳ về việc không áp dụng
luật các biện pháp đối kháng cho các nước NMEs, như Trung
Quốc58. Vào ngày 15 tháng 12 năm 2006, Ủy ban Thương
mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC) đã xác định sơ bộ rằng “ngành sản
xuất nội địa Hoa Kỳ bị thiệt hại đáng kể hay đe dọa thiệt hại
đáng kể là có căn cứ hợp lý” do hàng hóa nhập khẩu bị cáo
buộc có trợ cấp từ Trung Quốc nên đã chuyển vụ việc trở lại
để DOC tiếp tục ban hành quyết định sơ bộ. Trong cùng
ngày, DOC đã ban hành thông báo yêu cầu bình luận về khả
57
Dana Watts, Công bằng là công bằng: Tại sao Quốc hội nên sửa đổi
luật thuế đối kháng và chống bán phá giá của Hoa Kỳ để tránh
“việc áp dụng kép các biện pháp phòng vệ” 1(1) Luật Thương mại và
Phát triển145, 155 (2009).
58
DOC đã xếp trung Quốc là 1 nước có nền kinh tế phi thị trường từ năm
1981. Xem Quyết định cuối cùng về việc bán hàng thấp hơn giá trị thông
thường: Tinh dầu bạc hà tự nhiên từ Trung Quốc, Công báo Liên bang 46
Fed. Reg. 24,614 (DOC, ngày 1 tháng 5 năm 1981). DOC đã lặp lại quyết
định của mình trong cuộc điều tra giấy kẻ dòng từ Trung Quốc. Xem bản
ghi nhớ “Vị thế của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa với tư cách là
một nền kinh tế phi thị trường” (15 tháng 5 năm 2006). Cơ quan chức
năng đã thực hiện một phân tích toàn diện hơn về vấn đề điều tra chống
bán phá giá một số sản phẩm Giấy kẻ từ Trung Quốc. Xem Bản ghi nhớ,
Vị thế của Trung Quốc với tư cách là một nền kinh tế phi thị trường (30
tháng 8 năm 2006)
50
năng áp dụng luật các biện pháp đối kháng đối với hàng nhập
khẩu từ Trung Quốc59.
Ngày 9 tháng 4 năm 2007, DOC thông báo quyết định
sơ bộ của cuộc điều tra khẳng định có trợ cấp60. Quyết định
này dựa sơ bộ trên phân tích của DOC vào tháng 3 năm 2007,
trong đó thảo luận chi tiết về “sự khác biệt cơ bản” trong các
nền kinh tế ở vụ thép Georgetown và nền kinh tế của Trung
Quốc hiện nay61. Dựa trên những diễn tiến mới này, DOC kết
luận rằng DOC “tin rằng có thể xác định được liệu chính phủ
Trung Quốc có mang lại bất kỳ khoản lợi ích nào cho một
nhà sản xuất hay không (tức là khoản trợ cấp có thể xác định
và định lượng) và liệu có những lợi ích cụ thể nào nhờ trợ
59
Xem Áp dụng thuế đối kháng đối với hàng nhập khẩu Trung Quốc: yêu
cầu bình luận, Công báo Liên bang 71 Fed. Reg. 75,507 (DOC
15/12/2006). Tất cả các vấn đề được đưa ra trong các bản vắn tắt lập luận
và các bản vắn tắt phản đối của các bên đối với cuộc điều tra này được
nêu trong Biên bản ghi nhớ các kết luận gửi Stephen J. Claeys, Phó Vụ
trưởng Vụ quản lý nhập khẩu, gửi David M. Spooner, Vụ trưởng Vụ
quản lý nhập khẩu. Xem DOC, biên bản ghi nhớ quyết định và các vấn đề
trong quyết định cuối cùng về cuộc điều tra đối kháng giấy không phủ
nhập khẩu từ Trung Quốc (17/10/2007).
60
Xem vụ kiện giấy không phủ từ Trung Quốc: Sửa đổi quyết định sơ bộ
về thuế đối kháng, Công báo Liên bang 72 Fed. Reg. 17,484 (DOC,
9/4/2007).
61
Phân tích này diễn giải chi tiết sự khác biệt đáng kể của nền kinh tế
Trung Quốc so với hệ thống kinh tế Xô Viết cũ trong vụ việc Thép
Georgetown về mặt tiền lương, giá cả, tiếp cận nguồn ngoại hối, quyền sở
hữu tư nhân, doanh nghiệp tư nhân, các quyền kinh doanh của nước ngoài
và phân bổ các nguồn lực tài chính. Xem chi tiết tại Biên bản ghi nhớ của
DOC về Điều tra thuế đối kháng đối với giấy không phủ từ Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa – Liệu các yếu tố mang tính phân tích trong ý kiến
từ vụ việc Thép Georgetown có thể áp dụng đối với nền kinh tế hiện nay
của Trung Quốc hay không (ngày 29 tháng 3 năm 2007).
51
cấp đó không”62. DOC khẳng định cách tiếp cận của DOC
trong vụ kiện thép Georgetown là không phù hợp với cuộc
điều tra hiện tại và sẽ không ngăn cản việc áp dụng thuế đối
kháng đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. Ước tính sơ bộ
về thuế đối kháng thuần là từ 10.9% đến 20.35%63. Trong
giai đoạn điều tra tiếp theo, DOC đã áp dụng mức thuế đối
kháng cuối cùng với mức trợ cấp thuần có thể đối kháng từ
7.40% đến 44.25%64.
Tuy nhiên, ngày 7 tháng 12 năm 2007, ITC đã thông
báo kết luận không tồn tại thiệt hại trong cả vụ điều tra chống
bán phá giá và trợ cấp đối với sản phẩm giấy CFSP từ Trung
Quốc65. Do ITC đưa ra quyết định này nên vụ việc đã bị huỷ
và tất cả các khoản thuế ước tính đã được nộp tiền đặt cọc
hoặc bảo đảm theo kết luận của DOC đã được hoàn trả hoặc
hủy bỏ. Tuy nhiên, tầm quan trọng của vụ kiện này là việc
DOC đảo ngược chính sách từ lâu đời về việc không áp dụng
thuế đối kháng với các nước có nền kinh tế phi thị trường của
62
Như trên
63
Xem chú thích 7
64
Mức trợ cấp ròng 7,40% áp đụng đối với công ty Gold East Paper Co,.
Ltd và mức thuế còn lại (all-others” 44,25% áp đối với công ty Shandong
Chenming Paper Holdings Ltd. Mức thuế cao đối với công ty Shandong
được giải thích bởi việc áp dụng dữ liệu sẵn có bất lợi (AFA) trong quyết
định cuối cùng do công ty Shandong Chenming đã không trả lời đầy đủ
bản câu hỏi của DOC. Xem Vụ việc Giấy không phủ từ Trung Quốc:
Quyết định cuối cùng về việc áp thuế đối kháng, Công báo Liên bang 72
Fed. Reg. 60,645 (Bộ Thương mại, ngày 25 tháng 10 năm 2007) và tóm
tắt quyết định tại chú thích thêm 62
65
ITC, Giấy không phủ từ Trung Quốc, Indonesia và Hàn Quốc (cuối
cùng), công bố số 3695 (tháng 12 năm 2007)
52
mình và nay sẽ áp dụng thuế này đối với hàng nhập khẩu từ
Trung Quốc bị cáo buộc trợ cấp.
- Quyết định của Toà Thương mại quốc tế Hoa Kỳ (CIT)
Thông qua những quyết định về vụ sản phẩm CFSP từ
Trung Quốc, DOC đã đảo ngược thông lệ từ lâu đời của mình
về việc miễn trừ áp dụng thuế đối kháng cho các nước có nền
kinh tế phi thị trường do những khó khăn vốn có khi xác
định và định lượng các khoản trợ cấp từ một thị trường bị
nhà nước bóp méo. Sự thay đổi trong chính sách đã có trong
hơn 2 thập kỷ đã không diễn ra suôn sẻ. Sự tranh cãi đã xuất
hiện xung quanh việc sửa đổi này. Ví dụ, hơn 47 bản bình
luận, đại diện cho hơn 50 ngành công nghiệp và nhà sản
xuất đã được nộp để phản ứng lại thông báo của DOC đề
nghị việc công chúng bình luận về khả năng áp dụng thuế
đối kháng với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc66. Mặc dù
chính sách mới được thông qua và được thực hiện mạnh mẽ
nhưng cuộc tranh cãi vẫn chưa kết thúc. Trong tất cả các
bản ghi nhớ liên quan đến quyết định về lệnh áp thuế đối
kháng đối với hàng nhập khẩu Trung Quốc đều có ít nhất
một ý kiến phản bác về thẩm quyền áp thuế đối kháng của
DOC đối với Trung Quốc67.
66
Xem Yêu cầu bình luận của chú thích 49 và “Việc áp dụng Luật thuế
đối kháng đối với hàng nhập khẩu từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa,
bình luận nhận ngày 15 tháng 1 năm 2007 (cập nhật: ngày 30 tháng 1 năm
2007)” đăng tải tại<http:ia.ita.doc.gov/download/prc-cvd/cmts-
011507/prc-cvd-comts-index.html>. Trong số 47 bình luận có 8 bình luận
phản đổi trong đó 39 bình luận ủng hộ việc thay đổi chính sách.
67
Xem DOC, Các vấn đề và biên bản quyết định áp dụng thuế đối kháng
cuối cùng: Một số lốp OTR dùng hơi bơm từ Cộng hòa Nhân dân Trung
53
Mặc dù các nhà nhập khẩu và bị đơn phản đối mạnh
mẽ, DOC vẫn giữ nguyên lập trường rất kiên quyết của mình.
Nhắc đến các điều khoản quy định về “quốc gia” trong Mục
701(a), 771(5) và (5a) của Đạo luật, DOC cho rằng không có
giới hạn về thẩm quyền của DOC trong việc xác định trợ cấp
chỉ từ nước có nền kinh tế thị trường. DOC cũng hướng sự
quan tâm đến vụ kiện dây thép Carbon năm 1984 và các phán
quyết trong vụ thép Georgetown của Tòa Phúc thẩm Liên
bang theo đó công nhận DOC có “quyền tuỳ nghi rộng rãi”
trong việc đưa ra quyết định liệu có áp dụng luật thuế đối
kháng hay không đối với nước có nền kinh tế phi thị trường.
Mặt khác, các nhà sản xuất giấy Trung Quốc cũng đã
khởi kiện lên CIT để ra lệnh cấm DOC điều tra với lập luận
rằng Toà Phúc thẩm rõ ràng đã quyết định cấm áp dụng thuế
đối kháng với các sản phẩm nhập khẩu từ các nước có nền
kinh tế phi thị trường. Tuy nhiên CIT đã tái khẳng định
“quyền tuỳ nghi rộng rãi” của DOC và cho rằng những quyết
định trước đó của DOC là hợp lý dựa trên những thực tế của
Hoa (ngày 7 tháng 7 năm 2008). Phân tích các bình luận bao gồm “việc
áp dụng luật thuế đối kháng đối với các nền kinh tế phi thị trường bao
gồm cả Trung Quốc và “việc áp dụng Luật thuế đối kháng đối với Trung
Quốc là không phù hợp với Đạo luật thủ tục hành chính APA)”. Bắt đầu
từ cuối năm 2008, bình luận về khả năng áp dụng thuế CVD của DOC đối
với Trung Quốc bắt đầu tập trung vào thẩm quyền pháp lý của DOC trong
việc áp dụng luật thuế đối kháng đối với Trung Quốc trong khi vẫn đối xử
Trung Quốc là một nền kinh tế phi thị trường trong các cuộc điều tra
chống bán phá giá song song.
54
vụ kiện chứ không phải dựa trên lý lẽ về sự miễn trừ trong
luật đối với nền kinh tế phi thị trường68.
DOC đã lập luận rằng một số hành động của Quốc hội
đã cho thấy sự chấp thuận rằng luật thuế đối kháng có thể áp
dụng với Trung Quốc. Ví dụ, Quốc hội cấp ngân sách cho
DOC để “giám sát việc tuân thủ thực thi những cam kết của
Trung Quốc trong WTO, hỗ trợ các nhà đàm phán Hoa Kỳ
trong các phiên đàm phán đang diễn ra tại WTO và bảo vệ
các biện pháp thuế đối kháng và chống bán phá giá của Hoa
Kỳ liên quan đến các sản phẩm nhập khẩu của Trung
Quốc69”. Quốc hội cũng đã phê duyệt Hiệp định song
phương Hoa Kỳ - Trung Quốc “liên quan đến thời gian gia
nhập WTO thực sự của Trung Quốc” và yêu cầu chính phủ
Hoa Kỳ “kiểm soát hiệu quả và thi hành những quyền này”
theo hiệp định70.
- Quyết định của Toà Phúc thẩm Liên bang
Toà Phúc thẩm Liên bang Hoa Kỳ (CAFC) đã bác bỏ
việc DOC áp dụng biện pháp đối kháng với các nền kinh tế
phi thị trường. Trong phán quyết ngày 19 tháng 12 năm
2011 của tòa về vụ GPX International tire corp v Hoa Kỳ,
68
Xem “chính phủ Trung Quốc và Hoa Kỳ, 483 F. Supp. 2d 1282 (29/03/
2007). Toà tuyên bố “Toà án vụ thép Georgetown chỉ khẳng định lại
quyết định của Bộ Thương mại không áp thuế đối kháng đối với các
NME trong vụ việc cụ thể này và công nhận việc tiếp tục “quyền tùy nghi
rộng rãi” của cơ quan này trong việc xác định liệu có áp dụng luật CVD
hay không cho các nền kinh tế phi thị trường”
69
Xem 22 USC. § 6943(a)(1).
70
Xem 22 USC. § 6901(8), 6941(5)
55
CAFC đã bác bỏ cáo buộc của DOC về quyết định của CIT
cấm áp dụng thuế đối kháng với hàng xuất khẩu của Trung
Quốc – trong vụ này là lốp xe địa hình. CAFC không chỉ
khẳng định kết luận của CIT mà còn đưa ra quyết định mạnh
mẽ hơn về việc cấm áp thuế chống trợ cấp đối với các nền
kinh tế phi thị trường.
CAFC giải thích rằng Quốc hội Hoa Kỳ đã phê chuẩn
quy định pháp lý và hành chính về việc cấm các biện pháp
đối kháng trong các quy định ban hành sau này. CAFC quyết
định về cơ bản rằng Quốc hội Hoa Kỳ đã “phê chuẩn” việc
cấm sử dụng thuế đối kháng trong vụ Thép Georgetown đối
với các nước có nền kinh tế phi thị trường do theo lịch sử luật
pháp của các luật thương mại thông qua năm 1988 và 1994
cho thấy rằng Quốc hội (i) biết rõ rằng quyết định của CAFC
cấu thành “luật hiện thời”; và (ii) không mong muốn thay đổi
“luật hiện thời” này để áp dụng thuế đối kháng đối với các
nền kinh tế phi thị trường. Hơn thế, CAFC gợi ý rằng DOC,
nếu tin rằng luật này cần được thay đổi thì cách tiếp cận thích
hợp là tìm kiếm sự thay đổi trong pháp luật.
Quyết định của CAFC đồng nghĩa với việc DOC
không thể duy trì chính sách hiện tại để áp thuế CVD đơn
giản thông qua sửa đổi phương pháp tính toán của mình.
Trong khi kết luận của CIT hạn chế ở mặt nào đó do chỉ áp
dụng đối với phương pháp tính của DOC khi áp đồng thời
thuế đối kháng và chống bán phá giá thì CAFC quy định
rằng, theo pháp luật Hoa Kỳ hiện tại, các khoản thanh toán
của chính phủ không thể được xem là “trợ cấp” trong bối
cảnh các nước có nền kinh tế phi thị trường, và do đó luật
thuế đối kháng không áp dụng cho các nước có nền kinh tế
56
phi thị trường. Nói cách khác, CAFC thực chất quyết định
bản thân luật đó không thể áp dụng cho các nền kinh tế phi
thị trường như ở Trung Quốc và Việt Nam. DOC đã kháng
cáo vấn đề này lên Toà Tối cao Hoa Kỳ.
- Những thách thức tiếp theo: xung đột với quy định
trong Hiến pháp
Tháng 3 năm 2012, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua
luật mới để huỷ bỏ quyết định của CAFC71. Nếu quyết định
của CAFC giữ nguyên hiệu lực, DOC sẽ phải huỷ bỏ 23 lệnh
áp thuế đối kháng hiện tại đối với hàng nhập khẩu Trung
Quốc và 1 lệnh áp thuế đối kháng đối với hàng Việt Nam bên
cạnh 6 vụ điều tra đang tiến hành đối với hàng Việt Nam và
Trung Quốc. Hơn thế, quyết định này cũng dẫn đến việc có
thể phải hoàn trả các khoản thuế đã thu. Quy định mới này,
HR 4105, đảm bảo rằng 24 lệnh áp thuế hiện tại và 6 cuộc
điều tra đang treo đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc và
Việt Nam sẽ tiếp tục có hiệu lực.
Cụ thể hơn, quy định HR 4105 áp dụng hồi tố với tất
cả các cuộc điều tra trợ cấp và lệnh áp thuế được tiến hành
mà chưa có thẩm quyền pháp lý, tuy nhiên chỉ cho phép xem
xét vấn đề “áp dụng kép các biện pháp phòng vệ” (đánh trùng
thuế) trong tương lai. Và về vấn đề áp dụng kép các biện
pháp phòng vệ, luật pháp Hoa Kỳ đã đặt gánh nặng rất khó
khăn lên các nhà xuất khẩu nước ngoài để chứng minh rằng
việc đánh trùng thuế tồn tại và không cung cấp những hướng
71
H.R. 4105 để áp dụng các điều khoản thuế đối kháng trong Đạo luật
thuế hải quan năm 1930 với các nước có nền kinh tế phi thị trường, và
cho các mục đích khác (Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa 112)
57
dẫn làm thế nào để tính lại thuế đối kháng. Một điểm khác
nữa đáng chú ý là quy định này sẽ làm mất hiệu lực bất cứ
những khiếu kiện hợp pháp nào đối với việc áp dụng thuế đối
kháng trước đó dù là không hợp pháp đối với các nền kinh tế
phi thị trường.
Bởi vì các điều khoản về áp dụng kép các biện pháp
phòng vệ trong quy định này chỉ áp dụng từ ngày dự luật trở
thành luật, chúng sẽ không có hiệu lực đối với các vụ kiện
trước đó liên quan đến vấn đề áp dụng kép các biện pháp
phòng vệ. Ngoài ra, luật này quy định rằng DOC phải giải
quyết vấn đề áp dụng kép các biện pháp phòng vệ khi (i) các
nhà xuất khẩu nước ngoài chứng minh được (theo tóm tắt dự
luật) rằng trợ cấp đang bị cáo buộc làm hạ giá bán sản phẩm
nhập khẩu tại thị trường Hoa Kỳ; và (ii) DOC xác định rằng
có thể “ước tính một cách hợp lý” ở một chừng mực nào đó
khoản trợ cấp đã ảnh hưởng đến thuế chống bán phá giá trên
cùng một sản phẩm. Tuy nhiên, gánh nặng này cao đến mức
vô lý và do đó khiến cho các quy định này hầu như không sử
dụng được để giải quyết vấn đề áp dụng kép các biện pháp
phòng vệ.
Ngày 17 tháng 8 năm 2012, các nguyên đơn trong vụ
kiện GPX Int’l Tire Corp đã nộp bản đệ trình lên CIT lập
luận rằng luật tháng 3 năm 2012 là vi hiến.
3.1.2 Tính thống nhất trong hệ thống WTO
Trong khi đó, chính phủ Trung Quốc đã kiện ra WTO
với lập luận rằng Hoa Kỳ đã không có biện pháp nào để tránh
việc áp dụng kép các biện pháp phòng vệ do việc áp dụng cả
hai biện pháp thuế đối kháng và thuế chống bán phá giá đối
58
với nền kinh tế phi thị trường là trái với các quy định trong
Hiệp định AD và SCM bởi trong WTO mà giới hạn mức thuế
ở “mức phù hợp” cũng như trái với điều khoản về Đối xử Tối
huệ quốc (MFN) tại Điều 1 của GATT. Cần lưu ý rằng DOC
luôn luôn thực hiện việc bù trừ đối với mức thuế đối kháng
trong khi tính biên độ phá giá đối với các nước có nền kinh tế
thị trường. Vụ kiện đầu tiên đưa ra vấn đề này liên quan đến
quyết định đầu tiên của DOC áp thuế đối kháng đối với hàng
xuất khẩu Trung Quốc. Tuy nhiên, vụ việc này đã kết thúc
bởi ITC đã quyết định là không có thiệt hại72. Tháng 9 năm
2008, Trung Quốc lại cáo buộc cùng vấn đề liên quan đến 4
vụ áp thuế đối kháng cùng với thuế chống bán phá giá73.
Ban Hội thẩm trong vụ việc Hoa Kỳ - AD/CVD đối
với Trung Quốc đã công nhận rằng việc áp dụng đồng thời
thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng theo phương pháp
tính phi thị trường của Hoa Kỳ đã tạo nguy cơ áp dụng kép
các biện pháp phòng vệ (double remedies)74. Do đó vấn đề
pháp lý chính ở đây là liệu việc áp dụng kép các biện pháp
phòng vệ này là có phù hợp với các Hiệp định của WTO hay
không, cụ thể là Điều 19.3 và 19.4 của Hiệp định SCM và
Điều I:1 của GATT.
72
Hoa Kỳ - Quyết định sơ bộ thuế chống bán phá giá và Thuế đối kháng
đối với giấy không tráng từ Trung Quốc, WT/DS368/1 (ngày 18 tháng 9
năm 2007)
73
Hoa Kỳ - Quyết định cuối cùng thuế chống bán phá giá và thuế trợ cấp
đối với một số sản phẩm từ Trung Quốc – Yêu cầu thành lập Ban Hội
thẩm bởi Trung Quốc, WT/DS379/2 (ngày 12 tháng 12 năm 2008) (dưới
đây được gọi là “Hoa Kỳ - AD/CVD đối với Trung Quốc”
74
WTO, WT/DS379/R, các đoan.14.69-14.70.
59
Một tiến triển khác tương ứng đó là Mục 15 trong
Nghị định thư gia nhập WTO của Trung Quốc trong đó cho
phép áp dụng thuế CVD đối với Trung Quốc75. Mặc dù Mục
15 không trực tiếp ghi nhận liệu áp dụng kép các biện pháp
phòng vệ có được cho phép mà không có hạn chế nào hay
không nhưng Chính phủ Trung Quốc đã thừa nhận rằng
“Nghị định thư gia nhập của Trung Quốc cho phép áp dụng
đồng thời thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng tính toán
theo phương pháp phi thị trường”76.
Liên quan đến các điều khoản chi tiết, Ban Hội thẩm
đã bác bỏ cáo buộc của Trung Quốc liên quan đến cơ sở quy
định rằng Điều 19.3 và 19.4 của Hiệp định SCM không giải
quyết vấn đề áp dụng kép các biện pháp phòng vệ. Ban Hội
thẩm kết luận rằng Điều 19.4 quy định một sự hạn chế về
mức thuế đối kháng chỉ phụ thuộc vào “mức trợ cấp được xác
định sử dụng” và do đó mức thuế chống bán phá giá cho dù
đã được bù trừ cũng không có ảnh hưởng đến sự tồn tại của
trợ cấp77. Do phương pháp tính toán biên độ phá giá áp dụng
đối với nền kinh tế phi thị trường không ảnh hưởng đến sự
tồn tại của khoản trợ cấp nên phương pháp đó không tác động
đến “tính phù hợp” của thuế đối kháng quy định tại điều
19.3
78. Trung Quốc cũng lập luận rằng Hoa Kỳ đã vi phạm
quy tắc Đối xử Tối huệ quốc quy định tại Điều I:1 của
GATT do đã không tránh việc áp dụng kép các biện pháp
phòng vệ đối với hàng hóa nhập khẩu từ nước có nền kinh tế
75
WTO, WT/L/432 (ngày 23 tháng 11 năm 2001).
76
WTO, WT/DS379/R, footnote 1028.
77
Như trên, Đoạn.14.115.
78
Như trên, đoạn.14.128.
60
thị trường. Ban Hội thẩm kết luận rằng Trung Quốc đã
không xác định được sự tồn tại “lợi thế, ưu đãi, đặc quyền,
hay miễn trừ” bởi vì, trên thực tế, Trung Quốc đã không
chứng minh được rằng DOC tiếp tục duy trì chính sách hoặc
thông lệ nhất quán về việc áp dụng tất cả các bước cần thiết
nhằm tránh việc áp dụng kép các biện pháp phòng vệ trong
những trường hợp mà có nguy cơ xảy ra79. Dựa trên cơ sở
ban đầu của kết luận này, Ban Hội thẩm đã bác bỏ những
cáo buộc tương tự khác.
Kết luận của Ban Hội thẩm về vấn đề áp dụng kép các
biện pháp phòng vệ trong vụ việc Hoa Kỳ - AD/CVD đối với
Trung Quốc cho thấy rằng các khiếu kiện pháp lý mà Trung
Quốc đưa ra đã không đủ để kết luận về sự không phù hợp
với quy định của WTO. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng Ban
Hội thẩm đã chưa bao giờ luật hóa đầy đủ vấn đề áp dụng kép
các biện pháp phòng vệ trong trường hợp các nước có nền
kinh tế phi thị trường. Trên thực tế, Ban Hội thẩm nhấn mạnh
rằng các phán quyết của họ chỉ giới hạn ở một số điều khoản
do Trung Quốc trích dẫn và do đó không loại trừ khả năng
tồn tại sự không thống nhất đối với các quy định khác của
WTO
80
. Liệu kết luận đó có hàm ý rằng phía Trung Quốc
trong vụ kiện này đã mắc lỗi khi đưa ra khiếu kiện sai? Hoặc
liệu Cơ quan Phúc thẩm có nên ở một mức độ nào đó thay
đổi các quyết định của Ban Hội thẩm nhằm cấm vấn đề áp
dụng kép các biện pháp phòng vệ không hợp lý mà có thể là
không thể chứng minh được thậm chí trong hệ thống pháp
luật nội địa của Hoa Kỳ?
79
Như trên, đoạn.14.181.
80
Như trên, đoạn.14.140.
61
Khó khăn đáng kể là việc tìm mối liên kết giữa Hiệp
định AD và Hiệp định SCM theo đó lời văn có thể giải quyết
được vấn đề hành vi áp dụng kép các biện pháp phòng vệ.
Nếu không như thế, như theo phán quyết của Ban Hội thẩm,
việc diễn giải từ ngữ của Hiệp định SCM có khả năng dẫn
đến kết luận rằng không có điều khoản cụ thể quy định về
vấn đề áp dụng kép các biện pháp phòng vệ. Ngoài ra, các
thách thức trong Hiệp định AD về vấn đề áp dụng kép các
biện pháp phòng vệ dường như trở nên khó khăn hơn bởi các
tiêu chuẩn đặc biệt về rà soát theo Điều 17.6.
Vấn đề pháp lý này có thể dẫn tới tình trạng phi lô-gíc
liên quan đến các chính sách trợ cấp của nền kinh tế phi thị
trường. Mặc dù thuế đối kháng có thể cho phép áp dụng đối
với các nền kinh tế phi thị trường trong lịch sử dự thảo quy
định từ vòng đàm phán Tokyo đến vòng đàm phán Uruguay,
Điều VI:5 của GATT chỉ rõ rằng các hành vi phòng vệ
thương mại không hợp lý như việc áp dụng kép các biện pháp
phòng vệ bằng cách áp dụng đồng thời thuế chống bán phá
giá và thuế đối kháng phải được tránh cho dù địa vị kinh tế
của thành viên như thế nào - là nước phi thị trường hay thị
trường - đối với trợ cấp xuất khẩu. Do đó, các thành viên
WTO có thể áp dụng cả thuế chống bán phá giá và thuế đối
kháng đối với trợ cấp nội địa mà không được áp đối với trợ
cấp xuất khẩu. Xét trong bối cảnh trợ cấp xuất khẩu thì được
quy định rõ ràng, việc thiếu quy định rõ để giải quyết vấn đề
áp dụng kép các biện pháp phòng vệ trong trường hợp trợ cấp
trong nước đã đẩy các nền kinh tế phi thị trường vào vị thế
bất lợi trong hệ thống WTO.
62
Các hiệp định của WTO có vẻ như không nêu rõ
làm thế nào để các thành viên giải quyết được vấn đề
này
81
. Nếu như việc giải nghĩa pháp lý rõ ràng không thể
giải quyết được vấn đề này thì sửa đổi pháp luật để rút gọn
khoảng cách là cần thiết trong hệ thống WTO trước khi
khoảng cách này trở thành tâm điểm trong lạm dụng hệ
thống phòng vệ thương mại.
III. Thực tiễn áp dụng kép các biện pháp phòng
vệ thương mại của các nước đối với các quốc gia có nền
kinh tế phi thị trường - Một số bài học rút ra từ các vụ
việc với Trung Quốc
1. Tổng quan chung về các vụ việc
Như đã nêu trên, Canada là quốc gia đầu tiên tiến
hành cuộc điều tra đồng thời thuế chống bán phá giá và
chống trợ cấp đối với hàng hóa nhập khẩu từ quốc gia có
nền kinh tế phi thị trường, mà cụ thể là Trung Quốc.
Tuy nhiên, Hoa Kỳ lại nổi lên như một trong những
quốc gia tích cực nhất trong việc sử dụng công cụ này đối
với các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường, đặc biệt là
Trung Quốc và Việt Nam.
81
Một số chuyên gia đặt vấn đề rằng Điều X:3(a) của GATT như là cơ sở
pháp lý tốt hơn để cáo buộc vấn đề áp dụng kép các biện pháp phòng
vệmặc dù phạm vi của điều khoản này dường như quá rộng và chung
chung để giải quyết các phương pháp được sử dụng trong phòng vệ
thương mại. Xem www.WorldTradeLaw.Net, Dispute Settlement
Commentary for US – AD/CVD China, trang 37
<
> (xem ngày 18 tháng 11 năm 2010).
63
Bảng 2: Các vụ việc điều tra đồng thời thuế chống
bán phái giá và chống trợ cấp đối với hàng hóa từ các quốc
gia có nền kinh tế phi thị trường
Hoa Kỳ Canada Liên minh Châu Âu
Trung Quốc 35 13 2
Việt Nam 4 0 0
Nguồn: Tổng hợp từ Website của Bộ Thương mại Hoa Kỳ);
Cục Hải quan Canada và Tổng vụ Thương mại Châu Âu
Như có thể thấy tại bảng trên, Hoa Kỳ và Canada
là hai quốc gia thường xuyên sử dụng công cụ này với các
quốc gia có nền kinh tế phi thị trường, trong đó Trung
Quốc là mục tiêu chính với tổng số 35 vụ do Hoa Kỳ khởi
xướng (từ tháng 11/2006 đến nay) và Canada là 13 vụ (kể
từ 2006 đến nay).
Việt Nam cũng đang trở thành mục tiêu của Hoa Kỳ
khi mà kể từ năm 2009 đến nay, đã có 04 vụ việc điều tra với
hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam với mức độ tiến hành khá
đều đặn là 01 vụ/năm và dự đoán xu hướng này có thể gia
tăng trong thời gian tới.
2. Phân tích các vụ việc điển hình
Việc các quốc gia tiến hành điều tra và áp dụng
đồng thời cả thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp đối
64
với cùng một loại hàng hóa từ quốc gia có nền kinh tế phi
thị trường đã dẫn đến hệ quả là khả năng thuế chống trợ
cấp bị đánh hai lần đối với sản phẩm đó tạo ra gánh nặng
vô lý đối với các nhà sản xuất và xuất khẩu từ các quốc gia
có nền kinh tế phi thị trường.
Trước thông lệ áp dụng biện pháp vô lý của một số
thành viên khi áp dụng đồng thời thuế chống bán phá giá và
chống trợ cấp đối với quốc gia có nền kinh tế phi thị trường,
gần đây nhất đã có một vụ việc khiếu kiện giữa Chính phủ và
doanh nghiệp của Trung Quốc với Chính phủ Hoa Kỳ liên
quan đến việc Hoa Kỳ đã tiến hành điều tra và áp dụng đồng
thời thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với một số
hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc vào thị trường Hoa Kỳ
(Vụ việc GPX)
2.1 Thông tin về vụ việc GPX
Tháng 8/2007, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) khởi
xướng điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp đối với một
số sản phẩm lốp xe địa hình nhập khẩu từ Trung Quốc với 2 bị
đơn bắt buộc là Công ty Starbright và TUTRIC. Mức thuế
chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với 2 công ty này lần
lượt là 29,93%, 14% (Starbright) và 8,44%, 6,85% (TUTRIC).
Tháng 9 đến tháng 11 năm 2008, các công ty bị đơn
của Trung Quốc trong đó có công ty GPX và Starbright đã
nộp đơn khởi kiện DOC tại Tòa Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ
(CIT) liên quan đến việc Hoa Kỳ đã áp dụng cả thuế chống
bán phá giá và thuế chống trợ cấp đối với một số sản phẩm
lốp hơi ôtô nhập khẩu từ Trung Quốc (vụ GPX). Hãng luật sư
65
và nhóm luật sư tư vấn cho các công ty của Trung Quốc là
hãng luật Winston & Strawn (đây cũng chính hãng luật sư và
nhóm luật sư tư vấn cho chính phủ Việt Nam trong vụ túi PE
và vụ kiện tôm tại WTO- vụ DS404).
Tháng 8/2010, Tòa Thương mại quốc tế (CIT) đã ra
phán quyết rằng theo quy định pháp luật Hoa Kỳ, DOC
không bị cấm áp dụng thuế chống trợ cấp đối với Trung
Quốc, tuy nhiên, việc diễn giải của DOC đối với quy định về
thuế chống bán phá giá đối với nền kinh tế phi thị trường
trong tương quan với thuế chống trợ cấp là không hợp lý.
Theo đó, CIT đã yêu cầu DOC xem xét lại “áp dụng các
chính sách và thủ tục bổ sung trong phương pháp tính thuế
chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp đối với nền kinh tế
phi thị trường và tránh việc tính thuế hai lần” hoặc DOC
không nên “áp thuế chống trợ cấp trong trường hợp sử dụng
phương pháp chống bán phá giá đối với nền kinh tế phi thị
trường cho đến khi phát triển phương pháp tính toán mới”.
DOC và các nhà sản xuất Hoa Kỳ đã kháng kiện phán
quyết của Tòa CIT ra Tòa Phúc thẩm Liên bang (CAFC).
Đồng thời với việc các công ty bị đơn của Trung
Quốc kiện DOC tại Tòa CIT, ngày 19 tháng 9 năm 2008,
chính phủ Trung Quốc cũng đã đưa vụ việc này ra giải quyết
tranh chấp tại WTO (DS379).
Ngày 22 tháng 9 năm 2010, Ban Hội thẩm đã ban
hành báo cáo cuối cùng bác bỏ các cáo buộc của Trung Quốc
liên quan đến vấn đề tính thuế hai lần, và cho rằng việc bù trừ
66
cùng một khoản trợ cấp hai lần thông qua việc áp dụng đồng
thời thuế chống trợ cấp và thuế chống bán phá giá (được tính
toán dựa trên phương pháp nền kinh tế phi thị trường) là
không bị cấm theo quy định của Hiệp định Trợ cấp và các
biện pháp đối kháng (SCM).
Với kết luận của Ban hội thẩm nêu trên, ngày 01
tháng 12 năm 2010, Trung Quốc kháng cáo vụ việc lên Cơ
quan phúc thẩm của WTO.
Ngày 11 tháng 3 năm 2011, Cơ quan Phúc thẩm của
WTO đã ban hành báo cáo cuối cùng liên quan đến vụ việc
này, bác bỏ phán quyết của Ban Hội thẩm liên quan đến vấn
đề tính thuế hai lần và đưa ra phán quyết rằng việc Hoa Kỳ
áp dụng đồng thời cả thuế chống trợ cấp và chống bán phá
giá trong cùng một vụ việc là không phù hợp với những
nghĩa vụ của Hoa Kỳ được quy định tại Hiệp định SCM.
Ngày 19 tháng 12 năm 2011, Tòa Phúc thẩm Liên
bang Hoa Kỳ (CAFC) đã ra phán quyết cuối cùng khẳng định
“Chúng tôi cho rằng khi sửa đổi và ban hành lại luật chống
trợ cấp năm 1998 và 1994, Quốc hội đã phê chuẩn bản giải
trình phù hợp về hành chính và luật pháp sớm hơn, vì vậy các
khoản thanh toán của Chính phủ không được xem xét như là
“trợ cấp” trong bối cảnh nền kinh tế phi thị trường, và do đó
luật chống trợ cấp không được áp dụng đối với các quốc gia
có nền kinh tế phi thị trường”.
- Ngày 29 tháng 02 năm 2011, Mỹ đã đưa ra dự thảo
sửa đổi Luật Chống trợ cấp của mình, theo đó sẽ cho phép cơ
67
quan điều tra tiến hành điều tra chống trợ cấp với các quốc
gia có nền kinh tế phi thị trường.
Một số điểm đáng lưu ý của Dự thảo sửa đổi luật mới
này của Mỹ:
- Trong trường hợp được quy định thêm về hồi tố, Dự
thảo luật mới khi được thông qua có khả năng làm vô hiệu
phán quyết nêu trên của tòa Phúc thẩm Liên bang Mỹ. Đồng
thời, Luật Chống trợ cấp của Mỹ sẽ cho phép cơ quan điều tra
có thể áp dụng thuế chống trợ cấp đối với các quốc gia có nền
kinh tế phi thị trường đồng thời cho phép cơ quan điều tra có
thể áp dụng hồi tố thuế chống trợ cấp đối với các vụ việc điễn
ra kể từ tháng 11 năm 2006 (đây là thời điểm mà Mỹ tiến
hành điều tra vụ việc chống trợ cấp đầu tiên với một quốc gia
có nền kinh tế phi thị trường là Trung Quốc).
- Sửa đổi cho phép cơ quan điều tra đánh giá về việc
đánh trùng thuế trong các vụ việc điều tra đồng thời chống
bán phá giá và chống trợ cấp (double-counting) và cho phép
điều chỉnh việc đánh trùng thuế này thông qua việc điều
chỉnh lại biên độ phá giá. Và việc điều tra đánh giá và điều
chỉnh này chỉ áp dụng đối với các vụ việc sẽ diễn ra trong
tương lai.
- Sửa đổi sẽ giới hạn những nghĩa vụ của DOC trong
việc xem xét vấn đề đánh trùng thuế mà thay vào đó nghĩa vụ
chứng minh việc đánh trùng thuế sẽ thuộc về phía bị đơn.
Ngày 02 tháng 3 năm 2012, Tổng thống Mỹ Obama
đã thông qua Dự luật nêu trên thông qua cơ chế fast-track và
68
chính thức cho phép Bộ Thương mại Hoa Kỳ điều tra áp
dụng thuế chống trợ cấp đối với các quốc gia có nền kinh tế
phi thị trường với hiệu lực áp dụng ngược trở về thời điểm từ
tháng 11 năm 2006.
2.2 Phân tích vụ việc
Tranh chấp tại tòa án Hoa Kỳ về vấn đề điều tra
chống trợ cấp đối với các quốc gia có nền kinh tế phi thị
trường theo quy định trong pháp luật Hoa Kỳ
Nỗ lực đầu tiên về áp dụng luật thuế chống trợ cấp
đối với nước có nền kinh tế phi thị trường được tiến hành
vào tháng 9 năm 1983. Hiệp hội các nhà sản xuất hàng dệt
may Hoa Kỳ, Liên đoàn công nhân dệt may và may mặc hợp
nhất (ACTWU) và Hội công nhân nữ ngành dệt may quốc tế
(ILGWU), đại diện cho ngành công nghiệp dệt may, may
mặc của Hoa Kỳ đã đệ đơn kiện cáo buộc chính phủ Trung
Quốc đã trợ cấp cho hàng dệt may xuất khẩu vào Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, đơn kiện này đã được rút vào ngày Bộ Thương
mại Hoa Kỳ lên kế hoạch công bố quyết định sơ bộ về vấn
đề này. Kết quả là, vấn đề pháp lý về việc liệu luật thuế
chống trợ cấp có được áp dụng cho các nước có nền kinh tế
phi thị trường hay không vẫn chưa bao giờ được chính thức
giải quyết.
Với phán quyết của Tòa Phúc thẩm Liên bang như đã
nêu ở phần trước, có vẻ như nhánh tư pháp Hoa Kỳ đã đứng
về phía các nước NME, cho rằng DOC không được điều tra
cũng như áp dụng thuế chống trợ cấp đối với NME. Và mặc
69
dù phán quyết này về nguyên tắc chỉ áp dụng cho vụ GPX,
các nhà xuất khẩu NME bị đơn trong các vụ chống trợ cấp
khác cũng có thể dựa vào đây để tiến hành những hành động
thích hợp để bảo vệ lợi ích của mình (theo hướng nếu kiện
các quyết định tương tự của DOC ra Tòa, có thể hy vọng Tòa
sẽ tiếp tục áp dụng án lệ này để xét xử).
Đối với các nhà xuất khẩu ở các quốc gia bị coi là
NME đã và đang bị áp thuế chống trợ cấp tại Hoa Kỳ, p
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nguycodanhtrungthue_pdf_pdf_p1_7554_2154869.pdf