Tài liệu Nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay - Hoàng Xuân Sơn: 94
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO TRONG
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Hoàng Xuân Sơn∗, Hồ Thị Thanh Trúc ∗∗
TÓM TẮT
Trong bối cảnh hiện nay, để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và hội nhập quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu“tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”và có thể phát triển đất nước bền vững, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng đến phát triển con người nói chung, phát triển nguồn nhân lực
nói riêng, trong đó phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong ba đột phá chiến lược
của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) và Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020.
Từ khóa: nguồn nhân lực chất lượng cao, kinh tế tri thức, Việt Nam
HIGH QUALITY HUMAN RESOURCE DEVELOPMENT IN QU1
KNOWLEDGE ECONOMY IN VIETNAM TODAY
ABSTRACT
In this context, to promote the ...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 489 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay - Hoàng Xuân Sơn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
94
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO TRONG
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Hoàng Xuân Sơn∗, Hồ Thị Thanh Trúc ∗∗
TÓM TẮT
Trong bối cảnh hiện nay, để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và hội nhập quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu“tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”và có thể phát triển đất nước bền vững, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng đến phát triển con người nói chung, phát triển nguồn nhân lực
nói riêng, trong đó phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong ba đột phá chiến lược
của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) và Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020.
Từ khóa: nguồn nhân lực chất lượng cao, kinh tế tri thức, Việt Nam
HIGH QUALITY HUMAN RESOURCE DEVELOPMENT IN QU1
KNOWLEDGE ECONOMY IN VIETNAM TODAY
ABSTRACT
In this context, to promote the industrialization and modernization of the country and
international integration to achieve the objective of “creating a foundation for 2020 put our
country basically becomes an industrialized country modern” and maybe sustainable development
of the country, the Communist Party of Vietnam has always focused on human development in
general, human resource development in particular, in which the development of high quality
human resources is a in three strategic breakthrough of the Platform for national construction in
the transition to socialism and economic development strategy - social period 2011-2020.
Keywords: high quality human resources, knowledge economy, Vietnam
∗ ThS. Giảng viên khoa Lý luận chính trị, trường Đại học Kinh tế TP.HCM
∗ ∗ ThS. Giảng viên Trường Cao đẳng Tài chính – Hải quan
95
Nguồn nhân lực . . .
1. Nguồn nhân lực chất lượng cao và
kinh tế tri thức
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng
sản xuất mới vào khoảng giữa thế kỷ XX đã
dẫn tới một hình thái kinh tế mới. Đó là một
nền kinh tế trong đó việc sáng tạo tri thức,
sự lan truyền và quảng bá nhanh tri thức đưa
vào ứng dụng là động lực chủ yếu của tăng
trưởng kinh tế, tạo ra của cải, tạo ra việc làm
cho tất cả các ngành kinh tế. Nhà kinh tế học
P.F.Durker gọi đó là nền “kinh tế tri thức” và
tên gọi này hiện nay đã trở thành phổ biến với
việc sử dụng chính thức của Ngân hàng Thế
giới (WB). Trong nền kinh tế mới, kinh tế tri
thức sản xuất chủ yếu dựa vào nguồn lực tri
thức. Tài nguyên và vốn dù quan trọng vẫn
chỉ giữ vai trò thứ yếu.
Trong tiến trình lịch sử phát triển của nhân
loại, con người là động vật duy nhất có năng
lực sáng tạo tri thức, do đó, biết lao động sản
xuất và tiến dần tới nền kinh tế dựa vào tri
thức là chính. Bởi vậy, kinh tế tri thức là một
lịch sử tất yếu.
Hiện nay, trên thế giới, khái niệm “kinh tế
tri thức” có nhiều cách diễn đạt khác nhau. Tổ
chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)
đưa ra định nghĩa: “Kinh tế tri thức là nền
kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử
dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với
sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao
chất lược cuộc sống”; còn Viện Ngân hàng
Thế giới (WBI) lại cho rằng: “Nền kinh tế tri
thức là nền kinh tế dựa vào tri thức như là
động lực chính cho sự tăng trưởng kinh tế. Đó
là nền kinh tế trong đó tri thức được lĩnh hội,
sáng tạo, phổ biến và vận dụng để thúc đẩy
phát triển”. Cũng có cách nêu ngắn gọn hơn
là: “Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà tri
thức là “đầu vào” (input) cơ bản của quá trình
phát triển kinh tế”. Tuy cách diễn đạt có khác
nhau, nhưng đều cho thấy điểm chung nhất
trong nền kinh tế tri thức là công nghệ và tri
thức đóng vai trò quyết định nhất đối với sự
phát triển kinh tế.
Tóm lại, có thể hiểu kinh tế tri thức là nền
kinh tế mà sự phát triển của nó dựa chủ yếu vào
tri thức, trên nền tảng tri thức; tri thức chiếm tỉ
trọng lớn trong giá trị sản phẩm xã hội.
Để cụ thể hóa trong việc đánh giá trình
độ phát triển kinh tế tri thức của các nước
trên thế giới, Ngân hàng Thế giới (WB) đưa
ra chỉ số kinh tế tri thức KEI (Knowledge
Economy Index), với thang điểm thấp nhất là
0 và cao nhất là 10. Theo đó, chỉ số KEI của
Việt Nam năm 2012 còn rất thấp, chỉ là 3,4
xếp thứ 104/145 quốc gia được xếp loại, tăng
9 bậc so với năm 2000, trong khi các nước có
thu nhập trung bình chỉ số này là 4,1. Thêm
vào đó, năng suất lao động của nước ta rất
thấp. Theo Nghiên cứu của Tổ chức Lao động
Quốc tế (ILO) công bố năm 2013 cho thấy
năng suất lao động của Việt Nam năm 2013
thuộc nhóm thấp nhất Châu Á – Thái Bình
Dương – thấp hơn Singapore gần 15 lần, thấp
hơn Nhật 11 lần và Hàn Quốc 10 lần. So với
các nước láng giềng ASEAN có mức thu nhập
trung bình, năng suất lao động của Việt Nam
vẫn có khoảng cách lớn, chỉ bằng một phần
năm Malaysia và hai phần năm Thái Lan14.
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), sự phát
triển của nền kinh tế tri thức của một quốc gia
dựa trên bốn trụ cột sau: lực lượng lao động
trình độ cao, chất lượng cao; hệ thống sáng
tạo và ứng dụng công nghệ có hiệu quả; hệ
thống cơ sở hạ tầng, thông tin, tin học hiện
đại; hệ thống thể chế xã hội và thể chế kinh tế
hiện đại. Ngoài ra, kinh tế tri thức còn được
xác định dựa trên bốn tiêu chí cơ bản như sau:
14
nguoi-singapore-lam-bang-15-nguoi-viet-2989707.html; Ngày
truy cập: 01/7/2015
96
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
≥ 70% GDP do đóng góp của các ngành kinh
tế tri thức; ≥ 70% giá trị gia tăng do lao động
trí óc mang lại; ≥ 70% lực lượng lao động xã
hội là lao động trí óc; ≥ 70% vốn sản xuất là
vốn về con người.
Như vậy, theo Ngân hàng Thế giới (WB),
trụ cột quan trọng nhất của nền kinh tế tri thức
chính là “lực lượng lao động trình độ cao, chất
lượng cao”; còn trong bốn tiêu chí xác định
nền kinh tế tri thức thì có đến ba tiêu chí liên
quan đến nguồn nhân lực chất lượng cao. Qua
đây chúng ta thấy rằng để phát triển được nền
kinh tế tri thức thì nguồn nhân lực chất lượng
cao đóng vai trò quan trọng nhất. Do vậy, phát
triển kinh tế tri thức tốt nhất trong bối cảnh
hiện nay của Việt Nam là phải thúc đẩy phát
triển đội ngũ lao động chất lượng cao. Và, chỉ
có phát triển đội ngũ lao động chất lượng cao
để phát triển kinh tế tri thức, Việt Nam mới có
thể thực hiện được mục tiêu “tạo nền tảng để
đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”
hay xa hơn là “từ nay đến giữa thế kỷ XXI,
nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện
đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa”15.
Vấn đề được đặt ra là, nguồn nhân lực chất
lượng cao là gì? Theo cách hiểu mang tính
chất định tính thì “nguồn nhân lực chất lượng
cao là một bộ phận của lực lượng lao động, có
khả năng đáp ứng những yêu cầu phức tạp của
công việc, từ đó tạo ra năng suất và hiệu quả
cao trong công việc, có những đóng góp đáng
kể cho sự tăng trưởng và phát triển của cộng
đồng cũng như của toàn xã hội”16.
Mặt khác, mỗi quốc gia để phát triển bao
giờ cũng phải có các nguồn lực cho sự phát
triển. Trong bất kỳ hình thái kinh tế xã hội
15 Đảng CSVN (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. CTQG, HN, tr.71
16
doi/2014/30648/Giao-duc-dao-tao-voi-phat-trien-nguon-nhan-
luc-chat-luong.aspx; Ngày truy cập 27/6/2015
nào, trình độ và tính chất phát triển ra sao thì
các nguồn lực cho sự phát triển vẫn là tư liệu
sản xuất (đất đai, tài nguyên, máy móc thiết
bị, công nghệ, tài chính...) và sức lao động
(nguồn nhân lực và rộng ra là nguồn vốn con
người, vốn xã hội, vốn thể chế...). Trong đó,
sức lao động - nguồn nhân lực - con người là
yếu tố động nhất, nguồn gốc của mọi của cải
vật chất và sức sáng tạo ra các nền văn minh.
Thực tiễn lịch sử phát triển của nhân loại cho
thấy, sự thành bại của các quốc gia không thể
là quá trình lịch sử tự nhiên, mà là một quá
trình liên tục kế tiếp nhau của năng lực sáng
tạo mang tính cách mạng của nhân loại qua
các khúc quanh lịch sử. Một quốc gia giàu tài
nguyên thiên nhiên, rất thuận lợi cho sự phát
triển, nhưng chưa hẳn là quốc gia giàu có và
ngược lại, Nhật Bản là một minh chứng rõ
nhất cho vấn đề này.
Tóm lại, về cơ bản chúng ta có thể khẳng
định rằng, nguồn lực con người, vốn con người
là hết sức quan trọng trong chiến lược và chính
sách phát triển của mọi quốc gia. Theo Liên
Hợp quốc thì “nguồn nhân lực là tất cả những
kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và
tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự
phát triển của mỗi cá nhân và đất nước”. Ngân
hàng Thế giới cũng cho rằng “nguồn nhân lực là
toàn bộ vốn con người, bao gồm thể lực, trí lực,
kỹ năng nghề nghiệp của mỗi cá nhân”. Như
vậy, con người là tài nguyên đặc biệt và nguồn
nhân lực là tổng hòa thể lực và trí lực của lực
lượng lao động toàn xã hội. Nguồn nhân lực ấy
kết tinh truyền thống, kinh nghiệm, trí tuệ của
mỗi dân tộc và tinh hoa tri thức nhân loại được
vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh
thần phục vụ cho nhu cầu phát triển hiện tại và
tương lai của mọi quốc gia.
Ðiều này càng hoàn toàn đúng và trở thành
quan trọng hơn trong thời đại ngày nay, khi
97
Nguồn nhân lực . . .
khoa học và công nghệ đã thực sự trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp, kinh tế tri thức
ngày càng chiếm ưu thế trong phát triển kinh
tế - xã hội của mọi quốc gia - dân tộc; khi lợi
thế cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế đã không còn dựa trên
con số cộng của các yếu tố cấu thành đầu vào
như: đất đai, khai thác tài nguyên, lao động rẻ,
nhiều vốn tài chính, mà là dựa trên công nghệ,
tri thức, tư duy đổi mới và năng lực sáng tạo
của chính con người. Nguồn nhân lực, nguồn
vốn con người, theo đó, đang ngày càng được
xác định là yếu tố trung tâm trong hệ thống
các nguồn lực phát triển, nhân tố quyết định
việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các
nguồn lực khác. Và điều quan trọng hơn, ngày
nay, nguồn nhân lực được mọi quốc gia quan
tâm tới không phải là nguồn nhân lực nói
chung, mà là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Ðó là những người lao động có kỹ năng, các
nhà kinh doanh năng động và tài ba, các nhà
quản lý giỏi, các nhà khoa học và công nghệ
xuất sắc, các nhà lãnh đạo chính trị có tầm
nhìn chiến lược và tư duy đổi mới vượt trội.
Do đó, cũng có thể nói, nguồn nhân lực chất
lượng cao là nhân tài của các quốc gia, nhân
tố quyết định năng suất, chất lượng, hiệu quả
và khả năng cạnh tranh của mọi nền kinh tế;
quyết định vận mệnh của các dân tộc và tương
lai phát triển của nhân loại.
2. Chủ trương phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao gắn vớiphát triển kinh
tế tri thức ở Việt Nam nhằm đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Nhận thức rõ vai trò của nguồn nhân lực
đối với yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tại Ðại hội
VIII (1996), Ðảng đã đề ra quan điểm: “Lấy
việc phát huy nguồn lực con người làm yếu
tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững”17, và “nâng cao dân trí, bồi dưỡng và
phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt
Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa”18. Ðồng
thời, nhấn mạnh tầm quan trọng và ý nghĩa
quyết định của nguồn nhân lực chất lượng cao
trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng và
lợi thế cạnh tranh quốc tế đã thuộc về công
nghệ, tri thức, lao động có kỹ năng..., tại Ðại
hội X (2006), Ðảng đã đề ra chủ trương “đổi
mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao... chấn hưng
nền giáo dục Việt Nam”19. Và, để thực hiện
thắng lợi công cuộc đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức phải
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tức
là chuyển hướng chiến lược phát triển nguồn
nhân lực từ theo chiều rộng sang chiều sâu,
Ðảng chủ trương phải đặc biệt coi trọng và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Theo
tinh thần của Ðại hội X, Hội nghị Trung ương
7 khóa X đã ban hành Nghị quyết 27 (2009)
về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, xác định rõ vai trò căn bản, động lực
của việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao chính là xây dựng đội ngũ trí thức. Ðảng
nhấn mạnh: “Trí thức Việt Nam là lực lượng
lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong
tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng
kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Xây
dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp
nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất
nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng
và chất lượng hoạt động của hệ thống chính
17 Đảng CSVN (200), Các nghị quyết của Trung ương Ðảng 1996-
1999, Nxb. CTQG, HN, tr.85
18 Đảng CSVN (1996), Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb. CTQG, HN, tr.21
19 Đảng CSVN (2006), Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb. CTQG, HN, tr.91
98
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
trị. Ðầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư
cho phát triển bền vững”20.
Tại Ðại hội XI (2011) của Ðảng Cộng sản
Việt Nam, xuất phát từ yêu cầu thực hiện mục
tiêu tổng quát là “tạo nền tảng để đến năm
2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại”, Ðảng đã xác
định ba khâu đột phá chiến lược: hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ
tầng đồng bộ; và phát triển nhanh nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao,
trong đó phát triển và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực chất lượng cao được xác định
là “yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và
ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền
kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là
lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm
cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững”21.
Khâu đột phá này chính là bước ngoặt quan
trọng nhằm tập trung nâng cao sức mạnh nội
sinh: tri thức - trí tuệ của dân tộc Việt Nam
để thích ứng và đột phá phát triển trong một
thế giới năng động, của thời đại khoa học và
công nghệ phát triển như vũ bão; và chỉ có
như vậy, nền kinh tế nước ta mới có được sự
tăng trưởng nhanh, hiệu quả, có chất lượng và
bền vững; mới có thể thoát ra khỏi nguy cơ
rơi vào bẫy thu nhập trung bình đang hiện hữu
và sớm đưa nước ta trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội XI, Chính
phủ đã có hai văn bản rất quan trọng nhằm
phát triển nguồn nhân lực Việt Nam là: Chiến
lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ
2011-2020 đã được Chính phủ thông qua
trong Quyết định số 579/QĐ-TTg, ngày 19-
4-2011 và Quy hoạch phát triển nhân lực Việt
20 Sđd, tr.91
21 Ðảng CSVN (2011), Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. CTQG, HN, tr.130
Nam giai đoạn 2011-2020 cũng đã được Thủ
tướng Chính phủ ký tại Quyết định 1216/QĐ-
TTg, ngày 22-7-2011. Gần đây nhất là việc
Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua
Nghị quyết 29-NQ/TW về “Đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, Đảng không
chỉ coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, là sự
nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân,
mà còn nhấn mạnh ưu tiên đầu tư phát triển
giáo dục trong các chương trình, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội; chuyển mạnh quá
trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức
sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm
chất người học, học đi đôi với hành, lý luận
gắn với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp
với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Đó
là những văn bản pháp lý quan trọng có tính
định hướng để phát triển nhân lực Việt Nam
đến năm 2020 nhằm phát triển kinh tế tri thức
và phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
3. Thực trạng đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam
thời gian qua
Hiện tại, Việt Nam đang sở hữu một nguồn
nhân lực khá dồi dào về số lượng nhưng lại
rất hạn chế về mặt chất lượng. Cả nước có
khoảng 14.000 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học;
1.432 giáo sư; 7.750 phó giáo sư; 16.000 thạc
sĩ; 30.000 cán bộ hoạt động khoa học và công
nghệ; 52.129 giảng viên đại học, cao đẳng,
trong số đó 49% giảng viên đại học có trình
độ thạc sĩ trở lên. Cả nước hiện có 14.000 giáo
viên trung cấp chuyên nghiệp; 11.200 giáo
viên dạy nghề và 925.000 giáo viên hệ phổ
thông. Trong số 9.000 tiến sĩ được điều tra thì
có 70% giữ chức vụ quản lý, chỉ có 30% thực
99
Nguồn nhân lực . . .
sự làm công tác chuyên môn. Theo kết quả
điều tra gần đây, hiện tại ở nước ta 63% số
sinh viên tốt nghiệp đại học chưa có việc làm,
nhiều cơ quan, doanh nghiệp nhận sinh viên
vào làm việc phải mất từ 1 đến 2 năm đào tạo
lại. Trong số 37% sinh viên ra trường có việc
làm thì về cơ bản cũng chưa đáp ứng được yêu
cầu công việc22... Rõ ràng là chất lượng nguồn
nhân lực của nước ta chưa cao, có sự mâu
thuẫn giữa lượng và chất của nguồn nhân lực
chất lượng cao. Theo đánh giá của Ngân hàng
Thế giới (WB), chất lượng nguồn nhân lực
Việt Nam hiện nay đạt mức 3,39/10 điểm và
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
xếp thứ 73/133 quốc gia được xếp hạng23. Cơ
cấu đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta cũng có
sự mất cân đối nghiêm trọng: cứ 1 cán bộ tốt
nghiệp đại học thì có 1,16 cán bộ tốt nghiệp
trung cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật24. Trong
khi đó, tỷ lệ này của thế giới tương ứng là 4
và 12. Ở Việt Nam, cứ 1 vạn dân thì có 181
sinh viên đại học, trong khi đó của thế giới là
100 và Trung Quốc là 140... Hơn nữa, nguồn
nhân lực chất lượng cao ở nước ta lại phân
bố không hợp lý: 92,2% cán bộ có trình độ
tiến sĩ trở lên tập trung ở 2 thành phố lớn là
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, số cán bộ
có trình độ từ tiến sĩ trở lên ở các vùng Tây
Bắc, Tây Nguyên và Nam Bộ chiếm chưa tới
1%. Trong số giáo sư và phó giáo sư, có tới
86,2% ở Hà Nội; 9,5% ở Thành phố Hồ Chí
Minh, các địa phương còn lại chưa tới 4,3%25.
Những năm gần đây, ở Việt Nam mỗi năm có
hàng trăm ngàn sinh viên đại học, hàng chục
22
doi/2014/30648/Giao-duc-dao-tao-voi-phat-trien-nguon-nhan-
luc-chat-luong.aspx; Ngày truy cập 27/6/2015
23
content&view=article&id=1251:thc-trng-va-gii-phap-v-phat-
trin-nhan-lc-vit-nam&catid=250:vit-nam&Itemid=532; Ngày
truy cập 13/5/2015
24
doi/2014/30648/Giao-duc-dao-tao-voi-phat-trien-nguon-nhan-
luc-chat-luong.aspx; Ngày truy cập 27/6/2015
25 Sđd
ngàn học viên cao học, nghiên cứu sinh. Tỷ
lệ lao động có trình độ đại học trở lên tăng từ
3,8% trong tổng lực lượng lao động năm 2002
lên khoảng 6,2% trong năm 2013...
Như vậy, nguồn nhân lực chất lượng cao
ở nước ta hiện nay đang còn rất nhiều vấn đề
bất cập. Số lượng lao động qua đào tạo ở trình
độ từ đại học trở lên ngày một gia tăng, nhưng
chất lượng của lao động qua đào tạo, khả năng
thích ứng công việc và phát huy kết quả đào
tạo của số lao động này lại rất thấp. Theo kết
quả khảo sát gần đây, số lao động qua đào tạo
phát huy được tác dụng chưa tới 40%, tình
trạng bằng cấp không đúng thực chất, “bằng
dởm” không phải là hiện tượng cá biệt, ngay cả
những trường hợp được học hành, đào tạo rất
quy củ, bài bản một cách nghiêm túc nhưng khi
ra làm việc thực tế vẫn không đáp ứng được
yêu cầu, không phát huy được tác dụng...
Thực trạng này được lý giải như thế nào?
Theo chúng tôi nguyên nhân của thực trạng
trên phải được xem xét trên cả 3 phương diện:
đào tạo, sử dụng và đãi ngộ. Trên thực tế, chúng
ta vẫn thường nói đào tạo nguồn nhân lực phải
dựa vào nhu cầu, vào xu hướng phát triển của
nền kinh tế, đào tạo đúng địa chỉ sử dụng, tiếp
cận tinh hoa tri thức nhân loại... Nhưng trên
thực tế, chúng ta chưa đạt được hiệu quả như
mong muốn. Nhiều người cho rằng, đào tạo ở
Việt Nam chỉ là để phục vụ “cầu” còn “cung”
thì chưa rõ phải làm gì! Ngành nào là ngành
mũi nhọn cũng chưa được xác định nhất quán,
lĩnh vực nào là thế mạnh cần được quan tâm
cũng chưa rõ ràng, nội dung, chương trình,
mục tiêu đào tạo... chưa được xác định một
cách khách quan, khoa học. Hơn nữa, chúng ta
cũng đang còn lúng túng trong việc lựa chọn
và quyết định hình thức, phương pháp, loại
hình đào tạo thích hợp! Việc sử dụng lao động
cũng còn nhiều bất hợp lý. Nguyên tắc đúng
100
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
người, đúng việc, đúng chuyên môn ở nhiều
nơi vẫn chỉ là những câu nói cửa miệng. Việc
đãi ngộ lao động ở nước ta hiện nay cũng chưa
phù hợp, chưa tương xứng, đang là cản trở lớn
cho việc phát huy tiềm năng và sức sáng tạo
của lao động qua đào tạo. Chúng ta vẫn thường
nói “hiền tài là nguyên khí quốc gia” nhưng
chế độ đãi ngộ với “hiền tài” như thế nào thì
vẫn chỉ là các chủ đề được đề cập trong các
cuộc hội thảo, trong các dự kiến, dự định của
các cấp và các cơ quan có thẩm quyền. Chúng
ta rất dễ dàng nhận thấy sự chênh lệch đến độ
khó tưởng tượng trong đãi ngộ giữa thủ khoa
đại học, huy chương vàng Olympic các kỳ thi
học sinh giỏi quốc tế, mức thưởng cho một
phát minh sáng chế... với tiền thưởng cho “hoa
hậu”, tiền cat-xê cho các “sao”... Hiện tượng
“chảy máu chất xám”, đào tạo nhân tài nhưng
lại không sử dụng được người tài, đào tạo để
“người khác” sử dụng vẫn đang phổ biến ở
nước ta hiện nay đều có nguyên nhân từ cơ
chế, chính sách đãi ngộ đối với nguồn nhân
lực chất lượng cao của đất nước và thực trạng
này cũng rất nguy hiểm khi Cộng đồng kinh tế
ASEAN chính thức đi vào hoạt động cuối năm
2015 này. Vấn đề nguồn nhân lực chất lượng
cao ở Việt Nam hiện vẫn đang là bài toán cần
tìm lời giải. Mặc dù, xét về số lượng nhân lực
có học hàm, học vị, Việt Nam không thua kém
các nước trong khu vực, nhưng khả năng đáp
ứng nhu cầu công việc còn hạn chế, nhất là đối
với yêu cầu hội nhập quốc tế hiện nay. Để giải
quyết vấn đề này, việc đổi mới cơ chế giáo dục
đào tạo đang là một đòi hỏi bức thiết.
Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta
đã rất chú ý đến công tác đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao cho đất nước. Mặc dù có
rất nhiều cố gắng và triển vọng, song công tác
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước
ta còn gặp một số khó khăn và hạn chế.
Thứ nhất, hạn chế về khoảng cách giữa
đào tạo và nhu cầu xã hội trên hai phương
diện: Đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu về số
lượng, dự báo hằng năm đào tạo mới chỉ đáp
ứng được khoảng 40% nhu cầu của xã hội;
Đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu về chất
lượng, theo các đơn vị tuyển dụng ở Việt Nam
thì 80% đến 90% số sinh viên ra trường vừa
được tuyển dụng cần phải đào tạo lại ít nhất
là một năm.
Thứ hai, sự mất cân đối về số lượng giữa
các ngành nghề được đào tạo do sự thiếu định
hướng trong việc chọn nghề và chọn trường
cho sinh viên. Trên thực tế, việc chọn trường,
chọn ngành học của học sinh, sinh viên nhiều
khi lại dựa vào các quyết định cảm tính, mơ
hồ như ngành đó, trường đó đang là “mốt”,
gia đình có người thân quen, trường này dễ
đỗ, trường kia “danh giá”... Điều này dẫn đến
cung - cầu về nhân lực chất lượng cao vẫn
luôn ở trạng thái “thiếu vẫn thiếu, thừa vẫn
thừa”, gây lãng phí cho các gia đình và cho
cả xã hội.
Những hạn chế trên có nguyên nhân từ
những khó khăn về cơ sở vật chất, về nội
dung chương trình đào tạo, về phương pháp
giảng dạy, về đội ngũ giảng viên. Cơ sở vật
chất phục vụ giáo dục đào tạo ở nước ta còn
thiếu thốn và có sự chênh lệch rất lớn giữa các
vùng, miền, đặc biệt là các thiết bị giảng dạy
và học tập, các công trình phục vụ thí nghiệm
và thực hành cho sinh viên. Nội dung chương
trình đào tạo của các ngành học ở bậc đại học
đã có nhiều đổi mới, từng bước đi vào chuẩn
hóa. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn nhiều
giáo trình, bài giảng chưa được thường xuyên
cập nhật, chuẩn hóa về nội dung. Phương
pháp đào tạo của các trường cao đẳng, đại học
đều đã cố gắng đổi mới theo hướng nâng cao
tính chủ động, sáng tạo của sinh viên, đổi mới
phương pháp giảng dạy theo hướng chuyển
101
Nguồn nhân lực . . .
sang đào tạo theo tín chỉ, nhưng những đổi
mới này đang còn gặp nhiều khó khăn, trong
đó có khó khăn từ chính bản thân sinh viên, vì
sau 12 năm học phổ thông đã quá quen với lối
học thụ động. Đội ngũ giảng viên các trường
đại học, mặc dù số lượng có học hàm, học vị
hằng năm đều tăng nhưng vẫn còn tình trạng
thiếu các chuyên gia đầu ngành. Theo thống
kê của Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước
nhiệm kỳ 2009 – 2014, số giáo sư nghỉ hưu
gấp 3 lần số giáo sư mới được bổ sung.
Về cơ bản có thể rút ra mấy điểm về thực
trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam:
- Nguồn nhân lực ở Việt Nam khá dồi dào,
nhưng chưa được sự quan tâm đúng mức,
chưa được quy hoạch, chưa được khai thác,
chưa được nâng cấp, còn đào tạo thì chưa đến
nơi đến chốn, nhiều người chưa được đào tạo.
- Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn
đến tình trạng mâu thuẫn giữa lượng và chất.
- Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn
nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức,
chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để
cùng nhau thực hiện sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tóm lại, có thể đánh giá tổng quát về
nhân lực Việt Nam hiện nay là số lượng đông,
chất lượng “còn thấp”, thể hiện là tay nghề
thấp, chưa có tác phong công nghiệp, chưa
có những tổng công trình sư, kỹ sư, nhà khoa
học thật sự giỏi; chưa có những chuyên gia
giỏi; chưa có những nhà tư vấn, nhà tham
mưu giỏi; chưa có những nhà thuyết trình
giỏi; chưa có những nhà lãnh đạo, nhà quản
lý giỏi. Theo Viện nghiên xã hội Mỹ đánh giá
người Việt Nam rất “thông minh, sáng tạo”
và “ham học hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh”
song tiếc rằng, lại chưa được khai thác đầy đủ,
đào tạo chưa bài bản, điều đó ảnh hưởng đến
chất lượng nhân lực và ảnh hưởng đến sự phát
triển kinh tế - xã hội Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quyết định số 579/QĐ-TTg ngày 19/4/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát
triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020
2. Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 về việc phê duyệt quy hoạch phát triển nhân lực Việt
nam giai đoạn 2011-2020
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.CTQG, Hà
Nội
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.CTQG-ST,
Hà Nội
5. Nguyễn Văn Thạo – Nguyễn Viết Thông (đồng chủ biên) 92011), Tìm hiểu một số thuật ngữ trong
Văn kiện Đại hội XI của Đảng, Nxb.CTQG-ST, Hà Nội
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Tham luận tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.CTQG-
ST, Hà Nội
7. Hoàng Xuân Sơn và Hồ Thị Thanh Trúc (2014), Tăng trưởng xanh gắn với phát triển kinh tế tri thức
– lý luận và thực tiễn, Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật, số 3
8. www.cpv.org.vn
9.
10.
11.
12.
13.
14.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 54_8548_2122305.pdf