Tài liệu Ngữ cảnh và vai trò của ngữ cảnh trong dạy học ngoại ngữ - Phạm Ngọc Hàm: 3KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v
NGỮ CẢNH VÀ VAI TRÒ CỦA NGỮ CẢNH
TRONG DẠY HỌC NGOẠI NGỮ
PGS. TS. PHẠM NGỌC HÀM1
1 Đại học Ngoại ngữ – ĐHQG Hà Nội ✉phamngochamnnvhtq@gmail.com
Ngày nhận: 17/01/2017; Ngày hoàn thiện: 25/01/2017; Ngày duyệt đăng: 26/01/2017
Phản biện khoa học: TS. NGUYỄN THANH HÀ
TÓM TẮT
Ngữ cảnh là một trong những nhân tố tác động rất lớn đến quá trình giao tiếp ngôn ngữ, đồng thời
cũng là cơ sở để xác định ý nghĩa của từ và nội dung thông tin mà người phát ngôn muốn chuyển
tải tới người nhận ngôn, từ lâu đã trở thành vấn đề được giới nghiên cứu ngôn ngữ học trên thế
giới đặc biệt quan tâm. Ngày nay, ngữ cảnh được nghiên cứu dưới góc độ tri nhận và đặt trong
trạng thái động. Nghiên cứu ngữ cảnh có giá trị ứng dụng to lớn nhất là lĩnh vực dạy học ngoại ngữ.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi điểm lại lịch sử nghiên cứu về ngữ cảnh. Trên cơ sở đó chỉ
ra những nhân tố cấu thành ngữ cảnh cũng như vai trò của chúng đối...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 501 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ngữ cảnh và vai trò của ngữ cảnh trong dạy học ngoại ngữ - Phạm Ngọc Hàm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v
NGỮ CẢNH VÀ VAI TRÒ CỦA NGỮ CẢNH
TRONG DẠY HỌC NGOẠI NGỮ
PGS. TS. PHẠM NGỌC HÀM1
1 Đại học Ngoại ngữ – ĐHQG Hà Nội ✉phamngochamnnvhtq@gmail.com
Ngày nhận: 17/01/2017; Ngày hoàn thiện: 25/01/2017; Ngày duyệt đăng: 26/01/2017
Phản biện khoa học: TS. NGUYỄN THANH HÀ
TÓM TẮT
Ngữ cảnh là một trong những nhân tố tác động rất lớn đến quá trình giao tiếp ngôn ngữ, đồng thời
cũng là cơ sở để xác định ý nghĩa của từ và nội dung thông tin mà người phát ngôn muốn chuyển
tải tới người nhận ngôn, từ lâu đã trở thành vấn đề được giới nghiên cứu ngôn ngữ học trên thế
giới đặc biệt quan tâm. Ngày nay, ngữ cảnh được nghiên cứu dưới góc độ tri nhận và đặt trong
trạng thái động. Nghiên cứu ngữ cảnh có giá trị ứng dụng to lớn nhất là lĩnh vực dạy học ngoại ngữ.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi điểm lại lịch sử nghiên cứu về ngữ cảnh. Trên cơ sở đó chỉ
ra những nhân tố cấu thành ngữ cảnh cũng như vai trò của chúng đối với giao tiếp ngôn ngữ nói
chung và dạy học ngoại ngữ nói riêng.
Từ khóa: dạy học ngoại ngữ, ngữ cảnh, vai trò.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngôn ngữ với vai trò là công cụ giao tiếp, là phương
tiện để trao đổi tư tưởng, tình cảm, truyền đạt thông
tin, gắn kết con người với nhau. Một tín hiệu ngôn
ngữ được phát ra từ phía người phát ngôn thường
phải lệ thuộc vào những nhân tố chủ quan và khách
quan. Đồng thời, người nhận ngôn cũng phải căn cứ
vào những nhân tố đó để lý giải thông tin và đưa ra
phương án phản hồi nhằm đạt được sự hô ứng giữa
hai bên tham gia giao tiếp. Đối với văn bản viết, câu
hoặc đoạn văn trên dưới phải có quan hệ logic với
nhau, làm cơ sở xác định nghĩa của từ trong câu và
nghĩa của câu trong đoạn. Những nhân tố đó gọi là
ngữ cảnh. Khái niệm ngữ cảnh được coi là vấn đề hạt
nhân của ngôn ngữ học, nhất là ngôn ngữ học giao
tiếp và ngữ dụng học. Người Trung Quốc có câu “到什
么山,唱什么歌" (lên núi nào thì hát bài hát ấy/nhập
gia tùy tục) hay “见什么人说什么话" (gặp người nào
thì nói lời ấy). Câu nói tưởng chừng như một lời cửa
miệng đời thường, nhưng chất chứa trong đó là cả
một nguyên tắc giao tiếp và trong một chừng mực
nhất định, đã đề cập đến tâm điểm của ngữ cảnh:
Quan hệ giữa các đối tượng tham gia giao tiếp và môi
trường giao tiếp. Trong đó, việc phát ngôn phải có
chủ đích và hướng tới đối tượng nhận ngôn nhằm đạt
được hiệu quả như mong muốn. Ngữ cảnh không chỉ
là vấn đề được giới ngôn ngữ học quan tâm nghiên
cứu, mà nó còn là vấn đề thuộc lĩnh vực logic học và
có giá trị ứng dụng cao trong lĩnh vực dạy học ngôn
ngữ, nhất là dạy học ngoại ngữ và lĩnh vực dịch thuật.
Trải qua quá trình nghiên cứu, các học giả đã luôn
luôn kế thừa và phát triển, hình thành nên một môn
khoa học độc lập: Ngữ cảnh học. Ngữ cảnh học là một
môn khoa học gắn liền với khoa học ngôn ngữ, nhất
là giao tiếp ngôn ngữ.
4 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
Những năm gần đây, các học giả nghiên cứu ngôn
ngữ nói chung và ngữ cảnh nói riêng trên thế giới đã
và đang đạt được những bước đột phá từ ngoại tại
đến bản tính bên trong, từ trạng thái tĩnh tới trạng
thái động và theo hướng mở với những nghiên cứu
liên ngành. Nghiên cứu ngữ cảnh từng bước được
nâng lên một tầm cao mới. Lý luận về ngữ cảnh tri
nhận được hình thành, giúp người nghiên cứu và sử
dụng ngôn ngữ có một cách nhìn mới về ngữ cảnh.
Giá trị ứng dụng của việc nghiên cứu ngữ cảnh càng
thiết thực. Trong bài viết này, trước hết, chúng tôi
tổng kết lại những thành quả nghiên cứu chính của
các học giả trên thế giới về vấn đề ngữ cảnh, trên cơ
sở đó chỉ ra những nhân tố cấu thành ngữ cảnh cũng
như vai trò của chúng đối với giao tiếp ngôn ngữ nói
chung và dạy học ngoại ngữ nói riêng.
2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGỮ CẢNH
2.1. Đôi nét về lịch sử nghiên cứu ngữ cảnh
Trên thế giới, học giả đề cập đến vấn đề ngữ cảnh đầu
tiên là nhà ngôn ngữ học người Ba Lan Malinowski
(1923), ông chia ngữ cảnh thành ba tiểu loại, gồm
(1) ngữ cảnh lời nói (context of utterance); (2) ngữ
cảnh tình huống, gọi tắt là cảnh huống (context of
situation) và ngữ cảnh văn hóa (context culture). Với
vai trò là người kế thừa và phát triển quan điểm của
Malinowski, nhà ngôn ngữ học người Anh tên là Firth
đã tiến hành phân tích, làm nổi rõ hàm ý của ngữ cảnh
(context) và khẳng định ngôn ngữ có quan hệ mật
thiết với môi trường xã hội. Về sau, nhà ngôn ngữ học
nổi tiếng người Anh Halliday tiếp thu thành quả của
các học giả đi trước và chia ngữ cảnh thành hai loại:
ngữ cảnh ngôn ngữ và ngữ cảnh phi ngôn ngữ, đồng
thời đưa ra khái niệm ngữ vực (register). Halliday đã
đi sâu phân tích ba nhân tố hợp thành cảnh huống
giao tiếp, gồm ngữ trường (field), ngữ chỉ (tenor) và
ngữ thức (mode).
Sau những năm 80 của thế kỷ 20, giới nghiên cứu
ngôn ngữ học phương Tây đã tiếp thu có phê phán
thành tựu của ngữ cảnh học truyền thống, xây
dựng nên lí thuyết về ngữ cảnh học tri nhận và xem
xét ngữ cảnh ở trạng thái động. Năm 1986, hai nhà
ngôn ngữ học Dansperber và Deirdre Wilson cùng
cộng tác nghiên cứu, cho ra đời cuốn sách mang
tên “Liên quan: Giao tiếp và tri nhận” (Relevance:
Communication and Cognition). Từ đó, họ xây dựng
nên lý thuyết liên quan (The Relevance Theory) và đưa
ra khái niệm giả thiết ngữ cảnh (context assumptions).
Trong bối cảnh đó, trường phái ngữ cảnh tri nhận
(Cognitive environment) cũng được hình thành.
Lý luận về ngữ cảnh tri nhận ra đời đã mở ra một
không gian mới và cách nhìn mới cho công tác nghiên
cứu ngữ cảnh.
Cùng với các học giả phương Tây, giới ngôn ngữ học
Trung Quốc từ những năm 30 của thế kỷ trước cũng
bắt đầu quan tâm đến vấn đề ngữ cảnh. Người đầu
tiên đề cập đến ngữ cảnh ở Trung Quốc là Trần Vọng
Đạo với cuốn sách nhan đề “Tu từ học phát phàm” (修
辞学发凡). Trong đó có một nội dung dành cho ngữ
cảnh. Ông khẳng định, tu từ phải thích ứng với cảnh
huống giao tiếp, đồng thời chỉ ra sáu nhân tố cấu
thành cảnh huống, gồm 何故hà cố (nguyên cớ gì),
何事hà sự (sự việc gì), 何人hà nhân (ai/ người nào),
何地hà địa (nơi nào), 何时hà thời (lúc nào), 如何như
hà (như thế nào) (陈望道,1976). Như vậy, sáu nhân tố
tạo nên cảnh huống theo quan điểm của Trần Vọng
Đạo đã bao quát cả đối tượng, không gian, thời gian,
phương thức, có tác động đến quá trình giao tiếp.
Vương Đức Xuân từ những năm 60 của thế kỷ trước
cũng đã dành tâm sức cho nghiên cứu ngữ cảnh.
Trước hết, ông xuất phát từ vấn đề hoàn cảnh sử
dụng ngôn ngữ, từ đó phát triển vấn đề lên tầm cao
và hình thành nên khái niệm hoàn cảnh lời nói, quy
luật ngữ cảnh. Ông cho rằng, ngữ cảnh là do các nhân
tố chủ quan và khách quan của quá trình giao tiếp
ngôn ngữ tạo nên. Tiếp đó, Trương Chí Công (1982)
trong cuốn “Hán ngữ hiện đại” của mình cũng đề cập
đến vấn đề ngữ cảnh. Ông tách ngữ cảnh thành ngữ
cảnh hiện thực, ngữ cảnh xã hội, thời đại và ngữ cảnh
cá nhân. Riêng năm 1992, “Tập luận văn nghiên cứu
ngữ cảnh” (语境研究论文集), Nhà xuất bản Học viện
Ngôn ngữ Bắc Kinh và “Tập luận văn về tu từ học” (修
辞学论文集) của Hiệp hội Tu từ học Trung Quốc, Nhà
xuất bản Đại học Hà Nam lần lượt ra đời, đều là những
công trình nghiên cứu khá chuyên sâu về ngữ cảnh.
Năm 1999, tác giả Phùng Quảng Nghệ cho ra đời
cuốn “Bàn về tính thích ứng của ngữ cảnh” (语境适
应论 ngữ cảnh thích ứng luận). Cuốn sách gồm năm
chương, tập trung nghiên cứu chuyên sâu về tính
thích ứng của ngữ cảnh từ những góc nhìn vĩ mô và
vi mô. Trong đó, tác giả đã phân tích sâu các khía cạnh
5KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v
như chế độ chính trị xã hội, phương thức sống, hoàn
cảnh kinh tế, bối cảnh thời đại, khu vực, môi trường
văn hóa địa lý, tâm lý dân tộc, tôn giáo tín ngưỡng
là những vấn đề thuộc tầm vĩ mô cần phải thích
ứng. Các bình diện ngữ âm, từ vựng, ngữ nghĩa và
ngữ pháp thuộc tầm vi mô cũng cần phải thích ứng.
Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến cả các yếu tố như
tư thế, khoảng cách giao tiếp đều cần phải đảm bảo
tính thích ứng, đồng thời chỉ ra các quy tắc thích ứng
trong quá trình hợp tác giao tiếp giữa người nói và
người nghe (冯广艺, 1999).
Ngoài ra, còn phải kể đến “Luận ngữ cảnh” (论语境)
của Thạch Vân Tôn, “Ngữ cảnh và ngữ nghĩa” (语境
与语义) của Thường Kính Vũ, “Ý nghĩa ngữ dụng và
ngữ cảnh” (语用意义和语境) của Hà Triệu Hùng, “Tu
từ và hoàn cảnh ngôn ngữ” (修辞与语言环境) do
Diêu Điện Phương và Phan Triệu Minh đồng chủ biên,
“Giao tiếp lời nói và ngữ cảnh” (言语交际和语境) của
Triệu Đức Chu.
Như vậy, vấn đề ngữ cảnh là một trong những tâm
điểm của ngôn ngữ học và ngôn ngữ học giao tiếp, từ
lâu đã được các học giả trên thế giới quan tâm nghiên
cứu. Trải qua lịch sử hơn 90 năm, nghiên cứu về ngữ
cảnh đã đạt được những thành quả to lớn. Các công
trình nghiên cứu mang tính kế thừa và phát triển. Từ
trạng thái tĩnh, nghiên cứu về ngữ cảnh đã phát triển
sang trạng thái động. Phần lớn các học giả tuy có
những hướng phát triển khác nhau nhưng đều cho
rằng, nhân tố cấu thành ngữ cảnh bao gồm hai phương
diện: khách quan và chủ quan. Ngữ cảnh học tri nhận
nhìn nhận ngữ cảnh từ góc nhìn mới, có vai trò quan
trọng trong ngôn ngữ học giao tiếp. Nghiên cứu về
ngữ cảnh trong giao tiếp ngôn ngữ trên thế giới và ở
Trung Quốc đã đạt được những thành quả to lớn. Tuy
nhiên, ở Việt Nam, nghiên cứu về ngữ cảnh cho đến
nay vẫn còn là một khoảng trống cần được lấp đầy.
2.2. Đặc trưng và vai trò của ngữ cảnh
2.2.1. Đặc trưng của ngữ cảnh
Ngữ cảnh (context) là cách nói tắt của hoàn cảnh
ngôn ngữ. Ngữ cảnh liên quan đến các lĩnh vực như
ngôn ngữ học xã hội, ngữ nghĩa học, ngữ dụng học và
tu từ học của ngôn ngữ học hiện đại.
Về khái niệm ngữ cảnh, các học giả tuy có những
quan điểm và cách biểu đạt khác nhau, nhưng cũng
có nhiều điểm nhất trí với nhau. Tác giả Trần Cung
trong cuốn “Tu từ học tiếng Hán hiện đại”(现代汉语
修辞学)cho rằng: “Ngữ cảnh bao gồm môi trường
xã hội, môi trường tự nhiên và đoạn hoặc câu văn
trên dưới. Phân tích ra thì ngữ cảnh có các nhân tố
như: (1) môi trường có liên quan khi phát ngôn; (2)
tận dụng những điều kiện thời gian, địa điểm; (3) tận
dụng đặc điểm cảnh vật tự nhiên; (4) phù hợp với
quan hệ giữa người nói và người nghe/người đọc; (5)
phù hợp với tình hình của người nghe và người đọc;
(6) chú ý đến quan hệ giữa đoạn/câu văn trên dưới”
“Từ điển tu từ ngữ pháp tiếng Hán”(汉语语法修辞
学)của Trương Địch Hoa và một số tác giả khác lại
giải thích rằng: “Ngữ cảnh chỉ đoạn văn trên và dưới.
Từ, đoản ngữ, câu đều có thể có ngữ cảnh Ngoài
đoạn văn trên dưới ra, còn có ngữ cảnh nói, thậm chí
bao gồm các bối cảnh có liên quan đến lời nói, như
phong tục tập quán, tu dưỡng cá nhân, mục đích giao
tiếp v.v”
Vương Đức Xuân trong cuốn “Từ điển tu từ học”(修
辞学词典)cho rằng: “ Hoàn cảnh sử dụng ngôn
ngữ gọi tắt là “ngữ cảnh”. Nhân tố khách quan của
ngữ cảnh bao gồm thời gian, địa điểm, trường hợp,
đối tượng v.v; nhân tố chủ quan gồm: vị thế, nghề
nghiệp, tư tưởng, tu dưỡng, cảnh ngộ, tâm trạng v.v
Những nhân tố này có ảnh hưởng và ràng buộc việc
sử dụng ngôn ngữ.”
Thịnh Hiểu Minh trong cuốn “Quy tắc lời nói và nền
tảng tri thức” (话语规则与知识基础) cho rằng, yêu
cầu mang tính hữu hiệu của hành vi giao tiếp gồm
bốn loại hình “loại hình giao tiếp, loại hình xác nhận
sự thực, loại hình biểu lộ và loại hình quy chế.” Vì vậy,
cũng có bốn yêu cầu hữu hiệu tương ứng với bốn loại
hình trên, gồm “tính chân thực của việc lĩnh hội, tính
chân lý trong trần thuật, tính thành thật trong lời nói
và tính hợp quy trong hành vi.”
Lưu Hoán Huy trong cuốn “Giao tiếp học lời nói” (言语
交际学) dành một chương bàn về ngữ cảnh. Tác giả
không coi chủ thể sử dụng ngôn ngữ là một trong
những nhân tố cấu thành ngữ cảnh, với lý do “ảnh
hưởng của nhân tố chủ thể và nhân tố ngữ cảnh đối
với hoạt động lời nói và thành phẩm của nó, tức lời
nói có sự khác biệt về chất”. Tuy nhiên, tác giả vẫn
khẳng định, hoàn cảnh tạo nên lời nói không tách rời
người tham gia giao tiếp.
6 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
Chúng tôi không nhất trí quan điểm của Lưu Hoán
Huy ở điểm loại bỏ nhân tố chủ thể sử dụng ngôn ngữ
ra khỏi ngữ cảnh. Bởi vì, những người có bối cảnh văn
hóa khác nhau, năng lực tu dưỡng khác nhau, thuộc
những nghề nghiệp khác nhau, và mục đích giao tiếp
khác nhau thì hiệu quả sử dụng ngôn ngữ cũng khác
nhau. Trong sáng tác văn học, chủ thể sử dụng ngôn
ngữ chính là nhà văn, nhà thơ. Mỗi tác giả đều có
những phong cách khác nhau. Người đọc tác phẩm
cũng cần căn cứ vào nhân tố chủ thể sử dụng ngôn
ngữ để lí giải và hiểu tư tưởng, nội dung của tác phẩm.
Như trên đã tổng kết, thành quả nghiên cứu về ngữ
cảnh không chỉ có những chuyên luận, mà còn thể
hiện ở công tác biên soạn từ điển. Theo kết quả khảo
sát của chúng tôi, ở Trung Quốc, ngoài phần lớn các
loại từ điển về tu từ học ra, còn có một số từ điển khác
như “Từ điển ngôn ngữ học giản minh” (简明语言学
词典) của Vương Kim Tranh, “Từ điển ngữ pháp học”
(语法学词典) của Vương Duy Hiền, cũng có đề cập
và đưa ra cách giải thích về ngữ cảnh.
Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, ngữ cảnh có liên quan
nhiều đến tu từ học. Bởi lẽ, khi một phát ngôn được
truyền đến người nghe hoặc người đọc, chủ thể phát
ngôn phải căn cứ vào rất nhiều nhân tố chủ quan và
khách quan. Thứ nhất, nó phải phù hợp với quan hệ
logic giữa câu hoặc đoạn văn trên và dưới của phát
ngôn. Thứ hai, nó phải phù hợp với đối tượng tiếp
nhận phát ngôn cũng như trường hợp, mục đích, thời
gian, không gian phát ngôn. Thứ ba, nó thể hiện năng
lực tu dưỡng, trau dồi ngôn ngữ, văn hóa cũng như vị
thế, nghề nghiệp, thái độ, cảnh ngộ, trạng thái tâm
lý của người phát ngôn. Do đó, để đạt được hiệu quả
giao tiếp, người nói hoặc viết trước khi đưa ra phát
ngôn đều không thể tùy tiện, mà phải cân nhắc, lựa
chọn ngôn từ, tổ hợp kiểu câu, thậm chí trong ngôn
ngữ nói còn phải quan tâm đến cả ngữ điệu, ngữ
khí, đúng như sách “Luận ngữ” có câu “tam tư nhi
hậu ngôn chi” (suy nghĩ kỹ rồi mới nói). Mặt khác,
người nhận ngôn để có thể lí giải đúng thông tin mà
người nói hoặc viết truyền đạt cũng phải căn cứ vào
các nhân tố chủ quan và khách quan. Từ đó đưa ra
phương án phản hồi phù hợp, tạo ra mối tương tác
giữa hai bên tham gia giao tiếp. Như vậy, giao tiếp
ngôn ngữ không tách rời ngữ cảnh, điều này hoàn
toàn phù hợp với tính chất của “hoạt động ngôn ngữ
có một mặt cá nhân và một mặt xã hội” (Ferdinand de
Saussure, 1973).
Trong bối cảnh hiện nay, ngôn ngữ học tri nhận ngày
càng được giới nghiên cứu quan tâm, ngữ cảnh tri
nhận (cognitive context) cũng được đặt ra như một
hướng mới trong nghiên cứu ngữ cảnh. Hứa Quỳ Hoa
trong cuốn “Nghiên cứu thực tiễn về chức năng giải
thích ngữ nghĩa ngữ cảnh tri nhận” (认知语境语义阐
释功能的实证研究), Nhà xuất bản Đại học Nhân dân
Trung Hoa cho rằng, ngữ cảnh tri nhận là chỉ mạng
lưới cấu trúc tri nhận đã được người ta mô hình hóa
đối với một khái niệm nào đó dựa trên cơ sở kinh
nghiệm. Đó là kết quả của quá trình tri nhận hóa hoàn
cảnh ngôn ngữ, tri nhận hóa cảnh huống, tri nhận
hóa ngữ cảnh văn hóa. Ngữ cảnh tri nhận hội tụ đầy
đủ các đặc điểm như tính văn hóa, tính khu vực, tính
mơ hồ, trạng thái động (许葵花, 2007). Ngữ cảnh
tri nhận có khả năng giải thích ngữ nghĩa rất cao. Nói
cách khác, ngữ cảnh tri nhận là một quan điểm mới
về ngữ cảnh, có những điểm khác biệt với quan điểm
truyền thống về ngữ cảnh. Vì vậy, ngữ cảnh tri nhận
được xem xét trên góc độ cấu trúc tâm lý. Trong quan
hệ tương tác giữa đôi bên tham gia giao tiếp, để có
thể hiểu đúng ý nghĩa của lời nói, người nhận ngôn
phải hiểu được ngữ cảnh của mỗi một lời thoại. Ngữ
cảnh tri nhận nhấn mạnh vai trò hoạt động tâm lý của
con người khi lý giải thông tin mà người phát ngôn
truyền đạt tới từ góc độ trạng thái động. Như vậy, trải
qua quá trình tiến triển của ngôn ngữ học hiện đại,
nghiên cứu ngữ cảnh được chuyển mình từ trạng thái
tĩnh sang trạng thái động, nghĩa là ngữ cảnh được
nhìn nhận trong mối quan hệ tương tác giữa người
phát ngôn và người nhận ngôn.
Trên cơ sở tiếp thu có phê phán ý kiến của các học
giả đi trước, chúng tôi cho rằng, ngữ cảnh có thể chia
làm hai loại. Thứ nhất, ngữ cảnh là đoạn hoặc câu văn
trên dưới, thậm chí là vế trước và vế sau của một câu
hoặc sự kết hợp các từ với nhau trong một đoản ngữ
(đối với ngôn bản viết) và là chuỗi lời nói trước sau
của của người phát ngôn trong trường hợp độc thoại
và chuỗi lời nói trước sau trong tương quan giữa các
bên tham gia giao tiếp khi hội thoại (đối với ngôn bản
nói). Điều này càng phù hợp với ngôn ngữ Hán, một
ngôn ngữ âm tiết tính mà chữ Hán là loại văn tự biểu
ý có rất nhiều từ đồng âm, chữ đồng âm. Người ta
phải căn cứ vào sự kết hợp đó để phân biệt chính xác
các trường hợp đồng âm và lí giải đúng nghĩa của từ,
câu và cả văn bản. Đó là cách hiểu theo nghĩa hẹp.
Với nghĩa rộng, ngữ cảnh thể hiện ở: (1) các nhân tố
chủ quan thuộc về người phát ngôn và các nhân tố
7KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v
khách quan thuộc về người nhận ngôn, bao gồm
tuổi tác, giới tính, vị thế, nghề nghiệp, trạng thái
tinh thần, năng lực trau dồi ngôn ngữ, bối cảnh văn
hóa. Trong thời đại quốc tế hóa hiện nay, giao tiếp
giao văn hóa ngày càng mở rộng, ngữ cảnh còn bao
gồm cả tâm lý, văn hóa dân tộc của người tham gia
giao tiếp; (2) các nhân tố thuộc môi trường xã hội như
không gian xã hội trong giao tiếp và trường hợp giao
tiếp; (3) địa điểm và thời gian xảy ra hoạt động giao
tiếp (với cái gọi là môi trường trong ngữ cảnh, chúng
tôi chỉ đề cập đến môi trường xã hội mà không coi
môi trường tự nhiên là nhân tố hợp thành ngữ cảnh);
(4) mục đích giao tiếp và quan hệ giữa các bên tham
gia giao tiếp; (5) hành vi không lời của người tham gia
giao tiếp, như cử chỉ, tư thế, dung mạo, khoảng cách
giao tiếp. Với mỗi cuộc hội thoại, các bên tham gia
giao tiếp cần phải căn cứ vào ngữ cảnh để lựa chọn
hình thức ngôn ngữ cho phù hợp, nhằm giúp cho
cuộc thoại được duy trì và diễn ra thuận lợi. Điều đó
có nghĩa là, người tham gia giao tiếp cần phải “hòa
nhập” vào cuộc thoại để đạt được sự hô ứng và tuân
thủ nguyên tắc hợp tác trong giao tiếp.
Trong thực tế giao tiếp, có khi một ngữ cảnh được cố
định, xuyên suốt trong cả quá trình cuộc thoại diễn
ra, song cũng có khi cùng một cuộc thoại, ngữ cảnh
được thay đổi, chuyển hóa tùy thuộc vào việc thay đổi
vai giao tiếp và sự thay đổi trạng thái tâm lý của người
tham gia giao tiếp. Thí dụ, cuộc thoại của hai người
mới tiếp xúc với nhau lần đầu, trải qua quá trình trao
đổi, giao lưu tư tưởng, họ từ chỗ xa lạ mau chóng trở
nên thân thiết, có tiếng nói chung, tâm lý thoải mái
hơn, ngôn từ cũng từ chỗ trang trọng, dè dặt chuyển
sang suồng sã hơn, tự nhiên hơn. Cách xưng hô cũng
có thể thay đổi cho phù hợp với sự thay đổi của quan
hệ giao tiếp.
Căn cứ kết quả phân tích trên đây, chúng tôi đưa ra sơ
đồ về ngữ cảnh như hình 1.
2.2.2. Vai trò của ngữ cảnh trong giao tiếp ngôn ngữ
Trước hết, phải khẳng định rằng, ngữ cảnh có vai trò
vô cùng quan trọng đối với việc phát ngôn và nhận
ngôn. Ngữ cảnh tạo điều kiện cho ngôn ngữ thực
hiện chức năng quy chiếu. Về phía người phát ngôn,
trong quá trình giao tiếp, trước hết phải căn cứ vào
các nhân tố cấu thành ngữ cảnh để lựa chọn ngôn từ,
kiểu câu, sử dụng ngữ khí phù hợp để có thể truyền
đạt thông tin đến người nhận ngôn một cách hiệu
quả nhất. Ca dao Việt Nam có câu: “Lời nói chẳng mất
tiền mua, lựa/ liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau”, đã
thể hiện rõ nét vai trò của ngữ cảnh trong giao tiếp
ngôn ngữ mà trước hết là hành vi phát ngôn. Trong
trường hợp đôi bên tham gia giao tiếp có sự khác biệt
về năng lực ngôn ngữ, vị thế xã hội, trạng thái tâm
lý, bối cảnh văn hóa, thì người phát ngôn cần có
những điều chỉnh ngôn từ cho phù hợp, nhằm đạt
được sự thống nhất về quan hệ giao tiếp, tuân thủ
nguyên tắc hợp tác trong giao tiếp. Đồng thời, người
nhận ngôn cũng phải căn cứ vào các nhân tố ngữ
cảnh để lý giải đúng thông tin mà người phát ngôn
truyền đạt để đưa ra phương án đối đáp hợp lý, giúp
cho cuộc thoại diễn ra một cách thuận lợi.
Trong một ngữ cảnh nhất định, các đơn vị ngôn ngữ
tham gia vào quá trình tổ hợp lời nói, thực hiện chức
năng giao tiếp dù là từ, từ tổ, câu hay đơn vị cao hơn
câu như đoạn văn cũng đều có quan hệ logic, ràng
buộc lẫn nhau mà không thể tồn tại một cách độc
lập được. Bởi vì, khi tách rời các đơn vị đó ra cũng có
nghĩa là chúng đã không còn ngữ cảnh để tồn tại,
điều đó sẽ ảnh hưởng đến việc lý giải thông tin, nhất
là đối với những đơn vị nhỏ như từ hoặc từ tổ. Một nhà
ngôn ngữ học đã nói, cho tôi một ngữ cảnh, tôi sẽ xác
định được nghĩa của từ. Ngữ cảnh đã trở thành điều
Hình 1. Sơ đồ về ngữ cảnh
8 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
kiện cần và đủ để lý giải thông tin mà người nói hoặc
viết truyền đạt tới người nghe hoặc đọc. Để đảm bảo
cho văn bản nói hoặc viết có tính logic, giữa các câu,
các đoạn cần chú ý đến các thành phần chuyển tiếp.
Thành phần chuyển tiếp có thể là từ, câu, thậm chí là
một đoạn nhỏ, đóng vai trò nối kết các đoạn văn trên
và dưới cũng như nối kết lời thoại của người nói và
người nghe, nhất là dẫn ra đoạn văn sau, gợi mở cho
đối tượng giao tiếp tích cực tham gia vào cuộc thoại.
Trong quan hệ xã hội, mỗi người đều có thể sắm
nhiều vai giao tiếp khác nhau. Mặt khác, đôi bên
tham gia giao tiếp có khi thuộc nhiều quan hệ khác
nhau. Chẳng hạn, một sinh viên ưu tú sau khi tốt
nghiệp được nhận công tác giảng dạy tại trường cũ
của mình, quan hệ của cựu sinh viên đó với thầy cô
đã từng dạy mình ở ngôi trường đó vừa là quan hệ
đồng nghiệp, vừa là quan hệ thầy trò. Mặt khác, đôi
bên giao tiếp có khi là quan hệ quyền thế, có khi là
quan hệ liên nhân. Mục đích giao tiếp, trường hợp
giao tiếp cũng khác nhau, có khi là giao tiếp chính
thức, có khi là giao tiếp không chính thức. Vì vậy,
khi bước vào cuộc thoại, người ta thường chọn cho
mình một quan hệ giao tiếp có lợi nhất cho việc thực
hiện mục đích giao tiếp. Chẳng hạn, giữa A và B vừa
là quan hệ thân tộc, vừa là quan hệ giữa thủ trưởng
với nhân viên, tùy vào từng tính chất và mục đích của
cuộc thoại, họ có thể lựa chọn một trong hai quan
hệ đó sao cho vai giao tiếp được chọn thuận lợi nhất
đối với việc thực hiện mục đích giao tiếp. Quan hệ vai
giao tiếp trong tiếng Hán và tiếng Việt thường được
xác định bởi cách lựa chọn từ ngữ xưng hô, bao gồm
tự xưng và đối xưng. Để đạt được hiệu quả cao trong
giao tiếp, người ta phải áp dụng các chiến lược giao
tiếp. Trong đó, việc tận dụng các yếu tố cấu thành ngữ
cảnh là vô cùng quan trọng, giúp người tham gia giao
tiếp phát huy được mặt mạnh trên các phương diện
như vai trò, địa vị của người phát ngôn và người nhận
ngôn, thời gian, không gian diễn ra hoạt động ngôn
ngữ, mức độ chính thức hay không chính thức của
cuộc thoại. Từ đó có được phương án làm cho lời
nói của mình phù hợp với chủ đề của cuộc thoại cũng
như phù hợp với ngữ vực trong môi trường giao tiếp.
Người nhận ngôn cũng phải căn cứ vào ngữ cảnh để
xác định đúng và lý giải chính xác ý nghĩa của thông
tin mà người phát ngôn truyền đạt.
Việc chuyển dịch thông tin từ ngôn ngữ này sang
ngôn ngữ kia cũng cần phải gắn với ngữ cảnh. Trong
những trường hợp việc biểu đạt giữa hai ngôn ngữ
không có mối tương ứng hoàn toàn 1:1, càng cần
phải căn cứ vào ngữ cảnh để tìm ra cách biểu đạt
tương đương giữa ngôn ngữ đích với ngôn ngữ
nguồn. Một ví dụ điển hình về sự chênh lệch trong
cách sử dụng ngôn từ của tiếng Hán và tiếng Việt
là đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai.
Nếu như trong tiếng Hán, ngôi thứ nhất 我ngã/我
们ngã môn và ngôi thứ hai 你nhĩ/你们nhĩ môn cùng
với biến thể 您 biểu thị tôn xưng là rất phổ biến thì
trong tiếng Việt, xưng hô bằng từ xưng hô thân tộc
lại chiếm ưu thế vượt trội. Chính vì vậy, một khi tách
rời ngữ cảnh, người dịch sẽ không thể chuyển dịch
chính xác đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất và ngôi
thứ hai từ tiếng Hán sang tiếng Việt một cách chính
xác. Điển hình nhất là dịch kịch bản phim truyền
hình Trung Quốc, dịch giả nhất thiết phải kết hợp
nghe và nhìn mới có thể xác định đúng vai giao tiếp
của từng nhân vật trong từng cuộc thoại để chuyển
dịch chính xác đại từ nhân xưng.
3. NGỮ CẢNH TRONG DẠY HỌC NGOẠI NGỮ
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa, công tác dạy
học ngoại ngữ ngày càng được coi trọng. Để có thể
rút ngắn thời gian, đồng thời nâng cao hiệu quả dạy
học ngoại ngữ, vấn đề đổi mới phương pháp giảng
dạy được đặt lên hàng đầu. Dạy học ngoại ngữ theo
đường hướng giao tiếp đã thể hiện được ưu thế của
nó. Để có được môi trường giao tiếp, nhất là giao
tiếp ngôn ngữ trong giờ học trên lớp, người dạy phải
đóng vai trò là người tổ chức và người học là nhân
vật trung tâm. Thông qua quá trình nghiên cứu bài
giảng, người dạy phải thực sự chủ động, sáng tạo và
linh hoạt trong việc thiết kế các tình huống giao tiếp
khác nhau xoay quanh nội dung chủ đề của mỗi bài
học. Hình thức thể hiện gồm độc thoại, đối thoại, hội
thoại. Để có được những “màn kịch” tự nhiên, sát thực
cho người học vận dụng các kiến thức ngôn ngữ vừa
được tích lũy, thực hành giao tiếp một cách có hiệu
quả, người dạy hơn ai hết phải nắm được đặc điểm,
vai trò, nhất là các yếu tố cấu thành ngữ cảnh và căn
cứ vào đó, vận dụng một cách sáng tạo, đưa ra các
tình huống giao tiếp khác nhau, giúp người học có
thể sắm nhiều vai giao tiếp xoay quanh một chủ đề.
Tình huống giao tiếp chính là sự thể hiện sinh động
của ngữ cảnh giao tiếp, giúp người học đặt mình
vào những vai giao tiếp khác nhau, với những mục
đích giao tiếp khác nhau, vận dụng ngôn từ vào từng
9KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v
ngôn cảnh để truyền đạt và lý giải thông tin, thông
qua các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết.
Giai đoạn đầu, với người mới tiếp xúc với ngoại ngữ,
trong giáo trình ngoại ngữ sơ cấp nói chung và giáo
trình tiếng Trung Quốc nói riêng, các bài hội thoại
thường có chú thích đôi điều về quan hệ giữa người
nói và người nghe, không gian diễn ra hoạt động
ngôn ngữ, mục đích của hành động. Những thông
tin này chính là sự giới thiệu ngắn gọn nhất về ngữ
cảnh của cuộc thoại diễn ra ở phía sau. Ví dụ, bài khóa
bài 47 giáo trình Hán ngữ Tập II quyển hạ, nguyên
bản của Dương Ký Châu, Nhà xuất bản Đại học Ngôn
ngữ Văn hóa Bắc Kinh, trước đoạn hội thoại thứ nhất
có chú thích Mary và Mike đến trung tâm hội nghị tìm
một người bạn(玛丽和麦克到会议中心去找一个朋
友)hay đoạn thoại thứ hai bài khóa bài 50 có mấy
chữ trên máy bay(在飞机上). Những nội dung chú
thích ấy tuy đơn giản, nhưng nó có tác dụng rất lớn
đối với việc dẫn dắt triển khai nội dung cuộc thoại ở
phía sau. Đồng thời giúp người học từng bước nhận
thức được vai trò của các nhân tố ảnh hưởng đến việc
sử dụng ngôn từ trong cuộc thoại. Người dạy cần
hướng đạo cho người học từ chỗ nắm được mối liên
hệ giữa lời chú thích hay đúng hơn là lời dẫn thoại
trong bài khóa đến chỗ mô phỏng để chuyển sang
các cảnh huống giao tiếp khác.
Trong phần lớn giáo trình, các bài học đều thiết kế
tranh minh họa và một hệ thống bài tập đa dạng, nhất
là bài tập về diễn đạt nói và viết, yếu tố ngữ cảnh được
các tác giả biên soạn giáo trình hết sức quan tâm. Các
bài luyện tập đó đều gắn với cảnh huống giao tiếp,
đoạn/câu văn trên dưới. Đặc biệt là trong mỗi bức
tranh đều là một không gian không lời, tạo điều kiện
cho người dạy tận dụng nó để đưa ra các yêu cầu cho
người học thực hành miêu tả tranh dưới những góc
nhìn khác nhau, vai giao tiếp khác nhau. Người học
thông qua quan sát, trừu tượng hóa bức tranh và biến
nội dung của nó từ không lời thành có lời. Điều đó
vừa có tác dụng vận dụng các yếu tố ngữ cảnh vào
thực tiễn thực hành giao tiếp ngôn ngữ, vừa có tác
dụng trau dồi năng lực quan sát, phát hiện vấn đề,
năng lực thẩm mỹ và tư duy liên tưởng cho người học.
Bên cạnh việc khai thác nội dung và hình thức của
mỗi bài học trong giáo trình, người dạy còn có một
không gian sáng tạo rất lớn, đó là tổ chức trò chơi,
tạo ra không gian giao tiếp với sự tham gia của các
nhân tố chủ quan và khách quan để người học có thể
luân phiên sắm các vai giao tiếp khác nhau, thực hiện
các hành vi trao lời, đáp lời và tương tác, có tác dụng
thúc đẩy ba vận động đặc trưng của hội thoại. Trong
đó, hai vận động đầu do từng bên tham gia giao tiếp
thực hiện, nhằm phối hợp với nhau tạo thành vận
động thứ ba.
Trong điều kiện thiết bị dạy học ở các trường ngày
càng hiện đại, việc ứng dụng công nghệ thông tin
vào quá trình dạy học ngày càng phổ biến. Nhờ đó,
các thiết bị nghe nhìn được phát huy tác dụng. Trong
quá trình soạn giáo án điện tử, người dạy thông qua
thiết kế tranh ảnh, hình họa tạo cảnh huống giao tiếp
cho người học. Bên cạnh đó, hoạt động ngoại khóa,
đi thực tế xã hội,đều có tác dụng tạo cho người học
hoàn cảnh giao tiếp ngôn ngữ. Ngay cả khâu thuật
lại bài khóa cũng cần được thực hiện một cách linh
hoạt qua các vai trần thuật khác nhau, như dùng lời
của bản thân người trần thuật, hoặc dùng lời của một
trong các thành viên tham gia hội thoại đã xuất hiện
trong bài khóa. Tất cả những thao tác đó trong tổ
chức dạy học cần được vận dụng một cách linh hoạt,
mềm dẻo, tạo ra cảnh huống giao tiếp càng đa dạng,
phong phú, giúp cho người học luôn có cảm giác mới
mẻ. Hứng thú cũng được liên tục hình thành và đi từ
cao trào này đến cao trào khác, khiến cho giờ học có
sức cuốn hút, đạt được hiệu quả cao. Ngoài ra, trong
quá trình thiết kế đề thi, nhất là hình thức tự luận,
người thực hiện cũng cần dày công cho đề thi nói và
viết có được một cảnh huống rõ ràng, tạo điều kiện
cho người học có thể đặt mình vào cảnh huống giao
tiếp đó để triển khai nội dung đúng hướng, nâng cao
chất lượng bài thi.
4. KẾT LUẬN
Ngữ cảnh là vấn đề hạt nhân trong giao tiếp ngôn
ngữ. Ngữ cảnh cũng có nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Vấn
đề ngữ cảnh từ lâu đã nhận được sự quan tâm của
giới nghiên cứu ngôn ngữ. Hướng nghiên cứu ngữ
cảnh đã tiến triển từ trạng thái tĩnh sang trạng thái
động. Ngữ cảnh tri nhận là một thuật ngữ mới trong
nghiên cứu ngôn ngữ học giao tiếp hiện nay. Các
nhân tố hợp thành ngữ cảnh bao gồm đoạn văn trên
dưới, lời thoại trước sau, kết hợp với các nhân tố chủ
quan và khách quan tham gia và tác động đến quá
trình truyền đạt thông tin, lý giải thông tin. Nghiên
cứu ngữ cảnh có giá trị ứng dụng thiết thực trong việc
10 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
nâng cao hiệu quả giao tiếp, gắn kết con người với
con người trong quan hệ xã hội và ứng dụng vào dạy
học ngoại ngữ cũng như dịch thuật. Để cải thiện chất
lượng dạy học ngoại ngữ theo đường hướng giao
tiếp, việc vận dụng kiến thức ngữ cảnh và ngữ cảnh
học vào quá trình thiết kế cảnh huống giao tiếp, đưa
người học vào môi trường thực hành giao tiếp ngôn
ngữ là vô cùng quan trọng, khiến cho hoạt động dạy
học ngoại ngữ trở nên sinh động, thiết thực, gắn lý
luận ngôn ngữ với thực tiễn sử dụng ngôn ngữ./.
Tài liệu tham khảo:
1. Ferdinand de Saussure (1973), Giáo trình ngôn ngữ
học đại cương, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
2. 陈弓(1993), 现代汉语修辞学,河北教育出版
社。
3. 陈望道(1976), 修辞学发凡,上海人民出版
社。
4. 冯广艺(1999), 语境适应论,湖北教育出版
社。
5. 刘焕辉(2001), 言语交际学,江西教育出版
社。
6. 盛晓明(2000), 话语规则与知识基础,学林出
版社。
7. 王德春(1987), 修辞学词典,浙江教育出版
社。
8. 许葵花(2007), 认知语境语义阐释功能的实证
研究,人民大学出版社。
9. 张涤华等人(1988), 汉语语法修辞词典,安徽
教育出版社。
CONTEXT AND ITS ROLE IN TEACHING FOREIGN LANGUAGES
PHAM NGOC HAM
Abtract: Context is one of the components that have an enormous influence over the process of
communicating, and is used to discover the meaning of a word and information that the speaker
conveys to the receipient, and this issue has received numerous attention from researchers ever
since. These days, context is researched in terms of recognition and being put in active status.
Studying context has considerable application especially in teaching foreign language. In this
article, we would like to summarize the history of studying context. Then we display the elements
forming context and roles in communicating and teaching foreign language.
Key words: teaching foreign langugae , context, role.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 51_1148_2137236.pdf