Tài liệu Ngọn nguồn tư tưởng của văn học phật giáo Lý - Trần Phạm - Thị Thu Loan: JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2017-0092
Social Science, 2017, Vol. 62, Iss. 11, pp. 81-88
This paper is available online at
NGỌN NGUỒN TƯ TƯỞNG CỦA VĂN HỌC PHẬT GIÁO LÝ - TRẦN
Phạm Thị Thu Loan
Khoa Đại cương, Trường Đại học Thái Bình
Tóm tắt.Văn học Phật giáo Lý- Trần được xem là thành tựu xuất sắc nhất của văn học Phật
giáo Việt Nam. Quá trình sưu tập và nghiên cứu nó được liên tục chú trọng từ thời trung
đại tới nay, bởi các học giả tên tuổi như Lê Quý Đôn, Trần Văn Giáp, Nguyễn Lang, Lê
Văn Siêu, Nguyễn Đăng Thục, Lê Mạnh Thát, Nguyễn Huệ Chi,. . . Công tác nghiên cứu
được thực hiện trên nhiều phương diện: sưu tầm, dịch thuật, tìm hiểu nội dung, phân tích
cấu trúc thi pháp, so sánh học. . . Tuy đó là những bước đi cần thiết tất yếu của lý luận văn
học nhưng chưa đủ. Truy tìm ngọn nguồn tư tưởng của văn học Phật giáo Lý - Trần từ nền
tảng tư tưởng của văn học Đại thừa Phật giáo sẽ giúp ta giải quyết được vấn đề then chốt
để tìm ra đặc trưng cơ bản...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 584 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ngọn nguồn tư tưởng của văn học phật giáo Lý - Trần Phạm - Thị Thu Loan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2017-0092
Social Science, 2017, Vol. 62, Iss. 11, pp. 81-88
This paper is available online at
NGỌN NGUỒN TƯ TƯỞNG CỦA VĂN HỌC PHẬT GIÁO LÝ - TRẦN
Phạm Thị Thu Loan
Khoa Đại cương, Trường Đại học Thái Bình
Tóm tắt.Văn học Phật giáo Lý- Trần được xem là thành tựu xuất sắc nhất của văn học Phật
giáo Việt Nam. Quá trình sưu tập và nghiên cứu nó được liên tục chú trọng từ thời trung
đại tới nay, bởi các học giả tên tuổi như Lê Quý Đôn, Trần Văn Giáp, Nguyễn Lang, Lê
Văn Siêu, Nguyễn Đăng Thục, Lê Mạnh Thát, Nguyễn Huệ Chi,. . . Công tác nghiên cứu
được thực hiện trên nhiều phương diện: sưu tầm, dịch thuật, tìm hiểu nội dung, phân tích
cấu trúc thi pháp, so sánh học. . . Tuy đó là những bước đi cần thiết tất yếu của lý luận văn
học nhưng chưa đủ. Truy tìm ngọn nguồn tư tưởng của văn học Phật giáo Lý - Trần từ nền
tảng tư tưởng của văn học Đại thừa Phật giáo sẽ giúp ta giải quyết được vấn đề then chốt
để tìm ra đặc trưng cơ bản nhất của mảng văn học này.
Từ khóa: Văn học Phật giáo, Phật giáo Nguyên thủy, Đại thừa Phật giáo, các tông phái, tác
phẩm văn học Phật giáo Lý - Trần,. . .
1. Mở đầu
Văn học Phật giáo Việt Nam là một bộ phận trong cấu trúc tổng thể của văn học Việt nam.
Đó là tập hợp những tác phẩm ngôn từ có chức năng tôn giáo (nghi lễ hoặc truyền đạo. . . ) thể hiện
trực tiếp hay gián tiếp những tư tưởng giáo lí Phật - Thiền (chú giải, kinh nghiệm về các vấn đề
liên quan đến giáo pháp hoặc sự chứng ngộ các yếu nghĩa của giáo pháp), tán tụng Phật và thánh
chúng, hay biểu lộ các trạng thái tâm hồn của những người tu đạo. . . Những vấn đề liên quan tới
Phật giáo, kể cả sự chống báng, phải được lí giải qua cái nhìn và cảm quan Phật học, tức là nó phải
có công dụng giúp cho sự thâu nhiếp thân tâm của con người theo Giới, Định và Tuệ nhằm giải
thoát vô minh và đau khổ.
Việc nhận thức nguồn gốc và những nội dung tư tưởng cốt yếu của văn học Phật giáo Lý -
Trần từ nền tảng tư tưởng của các giáo phái Phật giáo là một trong những phương diện cơ bản của
lịch sử văn học Phật giáo. Về phương diện nghiên cứu thuần túy triết học có các công trình [4, 6,
7, 8]. Tuy nhiên, các công trình này chỉ phản ánh các giá trị tư tưởng triết học thuần túy và không
có phân tích nào liên hệ tới văn học Phật giáo Việt Nam.
Về phía các học giả nghiên cứu và phê bình văn học Phật giáo có thể kể tới Nguyễn Duy
Hinh, Nguyễn Huệ Chi, Phạm Tú Châu, Nguyễn Phạm Hùng, Nguyễn Công Lý, Nguyễn Hữu Sơn,
Đỗ Ngây,. . . [3, 5].
Tuy đã có một số công trình nghiên cứu nguồn gốc tư tưởng của Phật giáo Lý - Trần từ góc
độ triết học Phật giáo Đại thừa hoặc vấn đề Tam giáo Đồng nguyên, nhưng chưa có công trình
Ngày nhận bài: 15/5/2017. Ngày sửa bài: 2/7/2017. Ngày nhận đăng: 20/9/2017
Liên hệ: Phạm Thị Thu Loan, e-mail: thuloan792007@ gmail.com
81
Phạm Thị Thu Loan
khoa học nào đi sâu vào tìm hiểu và phân tích ngọn nguồn của tư tưởng văn học Phật giáo Lý -
Trần từ các triết lý các tông phái Phật giáo Đại thừa và sự biểu hiện của tư tưởng đó trong các tác
phẩm văn học một cách cụ thể và có hệ thống.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Đặc điểm của nền văn học Phật giáo Lý - Trần từ nền tảng căn bản của văn
học Phật giáo Đại thừa
Giáo lí nhà Phật (Kinh, Luật, Luận) được truyền vào Việt Nam từ rất sớm kết hợp với nhu
cầu biên dịch và lưu truyền kinh sách Phật giáo là cơ sở quan trọng cho sự hình thành nền văn
học Phật giáo. Như vậy, cơ sở hình thành của văn học Phật giáo chính là giáo lí nhà Phật và ngôn
ngữ thành văn dân tộc. Văn học Phật giáo Lý - Trần là một bộ phận của văn học dân tộc, tập hợp
những tác phẩm ngôn từ có chức năng tôn giáo (nghi lễ hoặc truyền đạo. . . ) được sáng tác bằng
chữ Hán và chữ Nôm; thể hiện trực tiếp hay gián tiếp những tư tưởng giáo lí Phật - Thiền (chú
giải, kinh nghiệm về các vấn đề liên quan đến giáo pháp hoặc sự chứng ngộ các yếu nghĩa của giáo
pháp), tán tụng Phật và thánh chúng, hay biểu lộ các trạng thái tâm hồn của những người tu đạo. . .
giới hạn trong một giai đoạn lịch sử cụ thể là thời đại Lý - Trần. Nhận thức nội dung tư tưởng của
văn học Phật Giáo Lý - Trần từ nền tảng tư tưởng của khuynh hướng văn học Phật giáo Đại thừa
có thể thấy những điểm đáng chú ý. Lịch sử Phật giáo Việt chịu ảnh hưởng trực tiếp và toàn diện
bởi tư tưởng và phương thức tu trì của hệ phái Phật giáo Bắc truyền đậm màu sắc Trung Hoa, với
hệ thống văn tự chủ yếu để lưu chuyển Tam tạng là Hán ngữ. Mặc dầu lịch sử du nhập của Phật
giáo vào đất Việt gắn liền với hành trạng của một đại sư có nguồn gốc Tây Trúc là Khương Tăng
Hội, nhưng quá trình hình thành và phát triển của Phật giáo nước nhà thời Lý - Trần lại có những
móc xích chặt chẽ với ba tông phái chính của Thiền tông từ Trung Quốc là Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô
Ngôn Thông và Thảo Đường. Lịch sử Phật giáo giai đoạn này có chứng kiến những tranh chấp ảnh
hưởng quan trọng của Thiền tông, Mật tông và Tịnh Độ tông. Song vai trò tiên phong của thiền
sư Thường Chiếu đã tạo tiền đề căn bản cho sự thống nhất tư tưởng các tông phái Phật giáo du
nhập vào Việt Nam, để sau đó, Trần Nhân Tông với địa vị chính trị tối cao đã đưa sự thống nhất
đó vào thực tế bằng sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, khẳng định thế độc tôn của Thiền
tông trong giai đoạn Phật giáo hưng thịnh được thượng tôn là quốc giáo. Trong sử liệu hoặc văn
hóa vật chất, ảnh hưởng của Mật tông và Tịnh Độ tông có thể còn sắc nét, nhưng với toàn bộ di
sản văn học Phật giáo Lý - Trần còn được bảo tồn, thì dấu ấn ảnh hưởng của Thiền tông là hoàn
toàn nổi trội. Mặt khác, cũng cần nhắc lại quan điểm của Lê Mạnh Thát trong cuốn Lịch sử Phật
giáo Việt Nam, tập 2, phần tựa, về sự phân chia lịch sử Phật giáo Việt Nam. Theo đó, thời kì Lý -
Trần Phật giáo lần lượt trải qua hai dấu mốc của thời kì Phật giáo thế sự và Phật giáo cư trần lạc
đạo, trước khi ảnh hưởng của nó tan vỡ trên vũ đài chính trị. Những tư tưởng chính thống của các
trường phái Đại thừa có ảnh hưởng tới các tác giả văn học Phật giáo Việt Nam không mang tính hệ
thống, cũng không thuần nhất ở một trường phái mà mang tính cách tổng hòa, pha trộn. Trước tác
của nhiều hành giả xuất hiện dấu ấn tư tưởng của nhiều tông phái và ngay trong chính Thiền tông
với ba dòng thiền lớn cũng chỉ có sự tách biệt về nguồn gốc và pháp tu, chứ sự tách biệt không
biểu hiện ở sáng tác của từng tác giả. Các hành giả tu Mật Tông bàn bạc về Hữu – Vô nhiều hơn
là trì chú, như Từ Đạo Hạnh, Trì Bát, Diệu Nhân. . . các hành giả Thiền tông cũng không hề kì thị
Mật tông hay Tịnh Độ. Tác giả văn học điển hình nhất cho sự cộng hưởng tổng hợp về tư tưởng
tông phái này ở giai đoạn Lý - Trần có lẽ là Tuệ Trung Thượng sĩ. Tác phẩm và hành trạng của ông
phản ánh một tư duy phong phú mà nhất quán, thấu suốt mà tự tại, an nhiên. Ông bàn định cả về lí
Không, đập phá cả khái niệm, quan điểm nhị nguyên, chấp ngã, chấp giới. Ông cũng biểu lộ thành
82
Ngọn nguồn tư tưởng của văn học Phật giáo Lý - Trần
công trong thi ca con người bản nhiên và con người Thiền hòa quang đồng trần như ghi nhận của
Trần Nhân Tông trong Thượng sĩ hành trạng: “Ta trộn lẫn vào thế tục, hòa cùng ánh sáng, đối với
mọi vật chưa từng xúc phạm hay trái ngược” (Hỗn tục hòa quang, dữ vật vị thường xúc ngỗ).
2.2. Các hệ tư tưởng từ các tông phái Đại thừa Bắc truyền ảnh hưởng đến Phật
giáo nước ta thời Lý - Trần
Pháp Tướng tông với trọng tâm giải thoát là tư tưởng vượt thoát Có - Không, chủ trương
vượt bỏ ngoài mọi khái niệm, mọi chấp kiến để trực giác được thế giới trong một thực tại, không
tuyệt đối cái Hiện hữu cũng không tuyệt đối hóa cái Bản thể, gọi là Bất Nhị Pháp [3]. Sự đối đãi,
so sánh là nhân của mọi vướng mắc, phân biệt sai lầm, đánh mất đi tính chất một pháp, một thực
tại, một chân lí của vạn hữu. Trong văn học Phật giáo Lý - Trần, ảnh hưởng của Pháp Tướng tông
chưa có tính chất toàn diện và hệ thống, nhưng tinh chất của nó dường như đã hiện diện trong tư
tưởng của hầu hết các Thiền sư. Các tác giả văn học Phật giáo lớn của thời đại Lý – Trần như Cứu
Chỉ, Pháp Thuận, Vạn Hạnh, Thông Biện, Từ Đạo Hạnh, Tuệ Trung, Huyền Quang,. . . đều trực
tiếp luận bàn về tính Không hoặc vấn đề Có - Không, Sống - Chết như là căn nguyên cho tinh thần
Bất Nhị của nhà Phật, liên quan trực tiếp đến giải quyết sinh tử luân hồi. Vấn đề Có - Không được
thiền sư Cứu Chỉ đời vua Lý Thánh Tông lần đầu đặt ra trong sách Truyền Đăng: “Khổng Mặc thì
giữ thuyết Có, Lão trang thì chủ thuyết Không. . . Chỉ có Phật giáo không nhận “Có” hay “Không”
mới có thể giải quyết được vấn đề sống chết” (Duy hữu Phật giáo bất hứa Hữu Vô, khả liễu sinh
tử). Trong bài kệ thị tịch của thiền sư Cứu Chỉ, vấn đề Có - Không lại được ông nhắc tới bằng một
tên gọi khác là hữu vi và vô vi, như một xác quyết cho sự giải thoát rốt ráo: “Hữu vi, vô vi tòng
thử xuất, Hà sa thế giới bất khả lượng”. Nếu Vạn Hạnh chỉ nhắc tới Có - Không trong câu đầu của
kệ thị tịch đề dẫn cho tinh thần nhậm vận và vô úy, thì Quốc sư Thông Biện trong bài kệ chỉ quyết
yếu vào được chân tông của đạo lại bàn định đến cả vấn đề Có - Không và vấn đề không chấp
vào Có - Không, vượt khỏi cái nhìn nhị nguyên vướng bận vào thời gian và không gian: “Sắc thị
Không, Không tức Sắc, Không thị Sắc, Sắc tức Không, Sắc Không câu bất quản, Phương đắc khế
Chân tông”. Tương tự như vậy, Từ Đạo Hạnh xác quyết yếu tính của Có - Không và thái độ không
chấp trước, không vướng mắc vào Có hay vào Không trong bài kệ “Hữu Vô”: Tác hữu trần sa hữu,
Vi không nhất thiết không, Hữu Không như thủy nguyệt, Vật trước hữu không không. Ni sư Diệu
Nhân trong một bài Kệ đã đưa ý niệm về Có - Không vào vấn đề sinh tử như một qui luật thường
tình, càng sợ hãi càng thêm ràng buộc. . .
Tư tưởng của phái Tam Luận tông dựa trên nền tảng của Kinh Bát Nhã, đề cập tới ba vấn
đề là: phá tà kiến, thủ chấp về Ngã và đề cao con đường Trung đạo; vấn đề Chân đế - tục đế...
Tam Luận tông chủ trương tất cả đều có thể thành Phật, gồm các yếu chỉ: bất sinh, bất diệt, bất lai,
bất khứ, bất thường, bất đoạn, bất nhất, bất nhị để đạt tới trí tuệ viên dung. Cái nhìn phá chấp của
tông phái dựa trên nền tảng của tính Không trung luận đưa đến một cái nhìn lạc quan và tự tin vào
sự bình đẳng và năng lực tự giải thoát cho con người. Điều này được các thế hệ tác giả văn học
Phật giáo Lý - Trần tiếp thu như thế nào? Theo ghi chép của Truyền Đăng tập lục về lời dặn dò
đệ tử của tổ Tì Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) là Pháp Hiền tại chùa Pháp Vân, đã cho thấy ngay từ
tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi ảnh hưởng của thuyết Không trung quán luận đã đậm nét: “Tâm ấn của chư
Phật không có lừa dối, tròn vẹn như Thái Hư, không thừa, không thiếu, không đi, không lại, không
được, không mất, không giống, không khác, không thường còn, không gián đoạn, vốn không nơi
sinh cũng không nơi diệt, không xa cách mà không phải không xa cách, chỉ vì đối với cái duyên tà
vọng mà phải đặt ra cái tên giả thiết đó thôi. Cho nên các Phật trong ba thế giới cũng lấy Tâm ấn
như thế, các Tổ Sư cũng được Tâm ấn như thế, đến ta và ngươi cũng được Tâm ấn như thế, cho đến
các loài hữu tình, vô tình cũng được Tâm ấn như thế” Phật giáo Việt Nam thời Lý, Trần trong trước
83
Phạm Thị Thu Loan
tác của một số tác giả văn học Phật giáo thể hiện ảnh hưởng của tư tưởng Tam Luận tông, tiêu biểu
là Lý Thái Tông, Trần Thái Tông, Tuệ Trung, Trần Nhân Tông,. . . Lý Thái Tông không chỉ bàn
trực tiếp về đặc tính chân Vô tông của Bát Nhã trong cuộc hội kiến với chư tôn, thiền đức, mà còn
nói thẳng tới tính cách bình đẳng của giác ngộ giữa Phật và chúng sinh là nhờ “pháp tính bản lai
đồng”. Tuệ Trung Thượng Sĩ viết “Mê ngộ bất dị”, “Phàm thánh bất dị” nhằm phá tan vọng chấp
về Mê và Ngộ bằng nhất quán Tính Không để tìm ra bản nhiên thanh tịnh, không sinh cũng không
diệt, không thuỷ cũng không chung: “Chỉ cần bỏ nhị kiến. Thực tại lộ hình dung”. Tuệ Trung cũng
đồng nhất các phạm trù Phật - chúng sinh, sinh tử - Niết bàn, sắc - không, bồ đề - phiền não, mê -
ngộ, Thánh - phàm, thiện - ác. Kế tiếp tư duy của Tuệ Trung, Trần Nhân Tông sau này tiếp tục bàn
luận và thuyết giảng về “hữu - vô” như một hiển bày của chân lý. Trong bài Hữu cú vô cú, ông vua
Phật không còn khuyên nhủ người ta phải biết đến, phải thừa nhận Có - Không nữa, mà vượt lên
đó là tinh thần đả phá chấp trước Có - Không, chuyển hóa thành vấn đề Mê và Ngộ không hai. Kẻ
nào chấp vào Có - Không khác gì như cây ngã, như dây héo, kể cả mấy ông Tăng “đập đầu méo
óc”. Dính mắc vào chuyện lập tông lập chỉ về Có - Không thì thật chẳng khác nào “dùi rùa đập
ngói” “khắc thuyền mò gươm” “theo tranh vẽ đi tìm ngựa vẽ”. Dứt bỏ phân biệt và tranh chấp Có -
Không, sẽ tự nhiên thông suốt được chân đế. Bài phú Cư trần lạc đạo phú cũng thể hiện được tinh
thần thoát ly luôn cả có thiền hay không thiền: “Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”.
Về Hoa Nghiêm Tông, pháp môn này được xây dựng trên nền tảng Kinh Hoa Nghiêm chủ
trương về pháp giới Duyên khởi: Một là tất cả, tất cả là một. Cốt lõi của tinh thần Hoa Nghiêm
là dẫn chúng ta vào pháp giới hay cái nhìn chân thật vào thế giới. Pháp giới duyên khởi cho rằng
vũ trụ cộng hữu trên phổ quát, tương liên và biểu hiện lẫn nhau, khởi duyên cho nhau. Vậy nên,
mỗi tàn hoa, ngọn cỏ, bầu trời, mỗi tâm ý, thân phận, sự bừng giác trong chính thế giới thực tại
của chúng ta ở đây đều có khả năng giúp nhận thức nguồn tâm, tức là chúng đang thuyết pháp thế
giới Sa bà theo cách thức của riêng mình, đó là đặc sắc tư duy của Phật giáo Đại thừa. Thiên nhiên
trong cảm thức thẩm mĩ Thiền nhờ thế có đặc tính cô liêu, tịch tĩnh mà tương giao, cảm ứng với
con người giác ngộ để biểu lộ, hiển bày chân tâm trong sáng, u huyền, tịch diệu: “Thụy khởi châm
thanh vô mịch xứ, Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ”. Nghĩa là: Tỉnh giấc tiếng chày đâu chẳng
biết, Trên cành hoa quế trăng mới lên (Trần Nhân Tông). Mặt khác cái nhìn thiên nhiên cũng đầy
chất thi vị, nghệ sĩ và cá tính, nó biểu hiện cho một nguồn tâm bén nhạy, thông đồng được với
diệu tâm của vạn hữu, trực giác tuyệt vời: Phản quang trần thế giới, Khai nhãn túy mang mang” .
Nhìn lại cõi nhân thế, Mở mắt vẫn say nồng (Ngọ thụy, Huyền Quang). Tìm giác ngộ trong thực
tại và tinh thần Vô phân biệt Tuệ Trung Thượng sĩ bỏ qua giai đoạn nhận thức Hữu Vô đi thẳng lên
một tầm cao: đừng chấp Có - Không, nhưng còn phải thấy Có - Không là thông suốt nhau, Có -
Không biểu hiện nhau và rốt cuộc là đồng nhất. Bài thơ Vạn sự quy như của ông biểu thị trọn vẹn
tinh thần này, và đây cũng là cơ sở cho những lí giải cho tinh thần phá chấp, phá mê rất táo bạo và
khác thường ở Thượng Sĩ: “Phiền não và Bồ đề vốn chẳng hai, Chân Như và vọng niệm hết thảy là
Không” “Đừng hỏi chuyện sống, chết, chúng sinh hay Phật. Các ngôi sao đều hướng về Bắc, nước
thì hướng về Đông mà thôi”. Nền tảng Hoa Nghiêm cũng tạo nên tinh thần sống phóng khoáng tùy
duyên bất biến: tất cả do duyên sinh tất cả do duyên diệt, “mình ngồi thành thị nết dụng sơn lâm”.
Pháp Hoa Tông là tông phái chủ trương: trong mỗi niệm đều đầy đủ cả Không quán - tất
cả các pháp đều không, Giả quán - tất cả các pháp đều giả tạm, Trung quán - tất cả các pháp đều
là phương tiện. Có tức là Không, là giả, là trung, ba chân lí phối hợp tròn đầy gọi là Viên dung
Tam thế. Pháp Hoa Tông đã mở bày ra sự nhiệm màu của Pháp Bụt với tính cách phổ thông, đại
chúng và thực tiễn cho tất cả người tu. Sư Thường Chiếu nhờ đó cho rằng: “Đạo bản vô nhan sắc,
Tân tiên nhật nhật khoa”. Chữ gia trong câu thơ Hà xứ bất vi gia? ám chỉ cội nguồn, bản thể, tự
tính của mỗi người. Mà nó khế hợp được với chư Phật trong tam thiên đại thiên thế giới tức là khế
84
Ngọn nguồn tư tưởng của văn học Phật giáo Lý - Trần
hợp với bản thể của vũ trụ. Không gian trong tính bản thể và không gian vũ trụ đều là một pháp.
Kế tiếp quan niệm “một là tất cả, tất cả là một” của Hoa Nghiêm, tinh thần Pháp Hoa là tinh thần
dung chứa tất cả, thấu hiểu tất cả và hóa độ tất cả. Như câu trả lời của thiền sư Khánh Hỷ với Pháp
Dung về sắc - không, phàm - thánh không có sự phân biệt: “Càn khôn tận thị mao đầu thượng,
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung”, nghĩa là: Trời đất ở trên đầu một sợi lông, Mặt trăng, mặt trời
đựng trong hạt cải, (Pháp Dung sắc không phàm thánh chi vấn). Hình tượng không gian bao la vô
cùng vô tận thường được dụ cho Phật tính, là biểu trưng của bản thể vũ trụ vô biên cũng ẩn dụ cho
chân tâm viên giác tròn đầy. Trần Thái Tông trong Tựa Thiền tông chỉ nam có giảng: “Phật không
có nam bắc, mọi người đều có thể tu cầu. Tánh có trí ngu, đồng sẵn giác ngộ. Vì vậy, phương tiện
dẫn dụ đám người mê, để sáng tỏ đường tắt sanh tử, là kinh điển của đức Phật chúng ta”. Bài Phật
Tâm ca của Tuệ Trung cũng khẳng định: “Tâm của muôn loài tức Phật tâm, Tâm Phật tâm ta cùng
khế hợp, pháp vẫn y nguyên như kim cổ” (Vạn pháp chi tâm tức Phật tâm, Phật tâm khước dữ ngã
tâm hiệp. Pháp nhĩ như nhiên cắng cổ kim). Vậy, “Dừng tam nghiệp mới lặng thân tâm. Đạt một
lòng thì thông tổ giáo, Mày ngang mũi dọc, tướng tuy lạ xem ắt bằng nhau” (Trần Nhân Tông). Tư
tưởng tất cả các pháp đều là phương tiện của Pháp Hoa tông khiến hình thành từ văn học Phật giáo
Lý - Trần mẫu hình tượng về con người hành đạo tự do dấn thân, tự tại, tùy duyên. Như vua Lý
Nhân Tông từng truy tán Vạn Hạnh là: “Vạn Hạnh dung tam thế, Chân phù cố sấm cơ”. Hành trình
của con người Thiền trong các trước tác của các thiền sư, nhà thơ thể hiện rõ ý chí dấn thân vào
cuộc đời, kể cả việc tham chính tạo ra con đường “Phật giáo đồng hành cùng dân tộc” mà sự hoà
đồng huyền diệu vào đời sống đó rất thiết tha, hữu hiệu mà không bám víu; giải thoát mà không lìa
bỏ. Tinh thần hòa quang đồng trần cũng được Thiền tông áp dụng để tỏ bày thái độ đập vỡ bám víu
vào hình thức, các danh từ và khái niệm, phá vỡ vấn đề giả tạo, đập tan quan niệm lưỡng nguyên.
Mật tông là giai đoạn phát triển thứ ba của tư tưởng Đại thừa Phật giáo chủ trương về Tổng
thể thế giới, khả năng thể nhập thực tại qua thần chú và thiền định. Mật Giáo sớm ảnh hưởng vào
Việt Nam, có lẽ là dòng Mật Tông thịnh vượng từ đời Đường Trung Quốc. Mật tông không chỉ
là dấu nối cho sự hòa đồng của cả ba phái Thiền - Tịnh - Mật, mà còn là nguồn cảm hứng lớn
của văn học Phật giáo với các đại diện như Không Lộ, Từ Đạo Hạnh, Trì Bát,. . . Trong bài Ngư
Nhàn, theo Thích Minh Tuệ thì “Quan điểm Mật giáo của thiền sư (Không Lộ) đã thể hiện rõ nét
trong bài kệ”. Trần Thái Tông cũng chú giải Kim Cương Tam muội Kinh trên tinh thần của Thiền
tông: nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính, thâm tín chúng sinh không khác nhau về chân tính.
Các tiểu truyện về cao tăng Việt Nam như Vạn Hạnh, Minh Không, Giác Hải, Từ Đạo Hạnh, Đại
Điên,. . . dày đặc yếu tố Mật tông. Trong Thiền Kệ của một số tác giả kết thúc bằng những câu trì
chú Mật tông như: úm, tô rô, tô rô tất rị (Thơ Trì Bát). Còn vua Lý Nhân Tông ca ngợi sư Giác Hải
là: “Giác Hải tâm như biển, Thông huyền đạo lại huyền, Thần thông gồm biến hóa, Một phật, một
thần tiên”.
Thiền tông hay Phật Tâm tông, đây có thể xem là tông phái có ảnh hưởng mạnh mẽ và bao
trùm nhất các nước hệ phái Phật giáo Bắc truyền. Tông phái này chú trọng phương pháp: dĩ tâm
truyền tâm, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật, vô tướng,
vô môn, vô trụ, vô tu, vô chứng, thánh trí vô trí. Sau Huệ Năng, các thiền phái tiếp tục duy trì sức
lan truyền vượt thời gian của nó và có ảnh hưởng trực tiếp vào Việt Nam. ở giai đoạn Lý - Trần,
Phật giáo Thiền tông để lại số lượng Thi kệ, Ngữ lục, Truyện truyền đăng,. . . nhiều nhất và có giá
trị nội dung và nghệ thuật làm nên diện mạo đặc sắc của cả một nền văn học. Những tư tưởng cơ
bản của Thiền tông bao quát mảng văn học Phật giáo Lý - Trần là: Phật tại tâm, Kiến tính, Phản
quan và phá chấp, tinh thần dấn thân hòa quang đồng trần, tùy duyên tùy tục, cư trần lạc đạo. . .
Tinh thần tự giác, vô úy, phóng khoáng và thâm diệu có trong các bản Kinh lớn như Kim Cương,
Bát Nhã, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Viên Giác. . . đều được lĩnh hội và thực hành hòa hợp với tinh
85
Phạm Thị Thu Loan
thần tự tại, đồng nhất tính Hữu Vô, hành mà vô hành, động mà an nhiên bất động. Phương án công
án để lắng nghe tiếng nói trong im lặng, phương án thoại đầu đối đáp Kinh sách, các pháp tu đốn
ngộ và tiệm ngộ song hành nhau. . .
Về quan niệm Phật tại tâm: đó là tôn chỉ tu là trở về được với trực giác của thực tại: Tức Phật
tức tâm, vạn vật nhất thể. “Thực hiện quán tưởng Bát Nhã hay Ngộ không phải tìm cái gì ở chỗ nào
trong không gian, thời gian mà thực hiện tại tâm mình, cho nên bảo vô đắc vô thất”. Quốc sư Phù
Vân, Viên Chứng khuyên vua Trần Thái Tông quay về tìm chứng ngộ bên trong chính mình ngay
khi vua vừa trốn lên núi đi tu: Trong núi vốn không có Phật ‘tâm tịch nhi tri, thị danh chân Phật”
(lòng lặng mà biết là chân Phật). Trần Nhân Tông bật ngộ trong Cư trần lạc đạo: “Bụt ở trong nhà
chẳng phải tìm xa. Nhân khuây bản nên ta tìm Bụt, đến cóc hay chỉn Bụt là ta”. “Chỉn bụt là lòng”.
Phật tại tâm chính là tinh thần Kiến Tính, ở đó Tự Tính tự giác ngộ, tự sáng tỏ, tỏ ngay, tu ngay khi
hành giả gột rửa hết vọng tưởng mê lầm che phủ, khi đó cũng chẳng phải đặt ra Bồ Đề, Niết Bàn,
cũng chẳng đặt ra giải thoát với tri kiến... mà được đồng nhất với Tự Ngã. Như bông sen thanh tao
không nhiễm ô nở trong lò lửa, Tự tính và Phật tính là một, thường lìa tất cả Pháp, tự do tự tại, dọc
ngang được hết, không còn ràng buộc. Kiến tính là tinh hoa của triết học Thiền tông, là con đường
nhập thẳng vào Chân Như vô phân biệt: Người thấy Tính, lập cũng được, chẳng lập cũng được,
đi lại tự do không vướng mắc, ứng theo công dụng mà làm, ứng theo lời nói mà đáp, thấy khắp
hóa thân, không lìa tự tính, liền được thần thong dong tự tại, chơi đùa Tam muội, như thế gọi là
Kiến Tính (Kinh Pháp Bảo Đàn, Phẩm thứ 8). Pháp Loa đặt vấn đề then chốt của học Phật là Kiến
tính: “Phù Phật học chi lưu, tiên tu kiến tính - học Phật, trước hết cần thấy Tính” (Thượng thừa
tam học khuyến chúng phổ thuyết). Huyền Quang cũng nói: “Cốc được tính ta nên Bụt thực, Ngại
chi non nước cảnh đường xa” (Vịnh Vân Yên tự phú). Bởi thơ Thiền phản ánh con người Kiến tính,
con người đã thực chứng và liễu ngộ chân lí tối hậu nên văn học Phật giáo cũng hiện diện thêm
về mẫu hình tượng con người hành hương, tìm kiếm gia hương chân thật. “Tột trừ nhân ngã thì ra
thực tướng kim cương, chứng ngộ thực sự là đã trở về đến quê nhà”. Hình tượng con người hành
hương trước nhất là con người còn đang đi tìm cầu đường về - chính là con người luôn băn khoăn,
trăn trở đối lập mình với con người thanh sắc lãng tử của nhân một đời uổng phí theo vô thường,
đừng để hoa tàn xuân luống qua. Bên cạnh đó là con người đã tỉnh thức, kiến tính: “Chín khúc
sông Hoàng khai tuệ nhãn, Đường xa không bước vẫn về nhà’ (Niệm tụng kệ - Trần Thái Tông).
Phật tính không mất trong con người là gia hương bản quán: “Chỉ vì sự tập hợp huân nhiễm lâu
đời của chúng sinh mà phát ra sóng gió tri kiến của thần thức, vì chúng sinh buông mình theo con
đường ô trọc che lấp cho nên không biết đem ánh sáng tuệ giác để soi chiếu khiến cho bốn phương
thành xứ lạ. Mơ hồ không biết rõ lối về”. Tu là sự trở về thức nhận “đến được bến bờ kia thì mặt
mũi xưa nay tự nhiên hiển lộ’, tức là tìm ra bản lai diện mục, là con người thật không vị trí - Vô vị
chân nhân, vốn là những ẩn dụ nổi tiếng nhà Thiền. Thấy cái bản tính thanh tịnh vốn không nhơ,
không sạch, không thêm không bớt, không một không hai - bản tính huyền ngưng, chân tâm trạm
tịch của bản thể thì không còn vướng mắc và sợ hãi sinh tử. Như trích Kim cương Tam muội chú
giải Kinh của Trần Thái Tông: “Bản tính sâu trầm, chân tâm trong lặng, khuyết tròn đều dứt. tính
trí nào tìm được mối manh; tan hợp đều quên, tai mắt há dự vào hình bóng. Có – Không nắm trọn,
đạo tục san bằng, sừng sững riêng mình, cao siêu có một. Đó là dòng sông trọng yếu của tự tính
Kim cương”. Tất yếu nó mở ra cho văn học những mẫu hình tượng mới về con người Vô úy, vô cầu,
vô tu, vô chứng, con người biết phản quan tự kỉ, biết phá vỡ mọi rào cản thế sự, không bị kẹt lại
trong bất kì một hình thức, danh tướng nào. Phá vỡ thời gian, phá vỡ không gian, cả sự mặc cảm
thân phận hữu hạn, nhỏ bé và nghiệp chướng. “Làm trai có chí xông trời thẳm, Theo gót Như Lai
luống nhọc mình” (Thơ Quảng Nghiêm). Tu trong Thiền tông không phải là gìn giữ như Phật giáo
Nguyên Thủy, mà tu là quay về, tu là chuyển nghiệp ngay trong hiện tiền, làm cho cuộc đời được
86
Ngọn nguồn tư tưởng của văn học Phật giáo Lý - Trần
giải thoát bây giờ và ở đây. Đây là cơ sở hình thành tinh thần tùy tục, tùy duyên, hòa quang đồng
trần, dấn thân, cư trần lạc đạo từ Thường Chiếu đến Trần Nhân Tông: tại quang tại trần, thường li
quang trần.
Tịnh Độ tông là tông phái chủ trương tín tâm niệm Phật, nương tựa vào tha lực nên có tính
chất phổ độ bình dân. Để giải thoát người tu Tịnh Độ phải có đủ Tín - Hạnh -Nguyện: tin chắc
có cõi Cực Lạc, tin chắc mình niệm Phật sẽ được Phật rước về Cực Lạc; cố gắng Niệm Phật, phát
nguyện sanh về cõi Cực Lạc. Có ba phương thức tu Tịnh độ: Quán chiếu Tịnh độ, Tha phương Tịnh
Độ và Tịnh Độ hiện tiền. Mặc dù ảnh hưởng rất rộng lớn, nhưng vì hướng tới phổ độ đại chúng
nên dấu ấn của Tịnh Độ tông để lại trong văn học chỉ phổ biến ở mảng văn học đậm sắc thái dân
gian như thơ lục bát, song thất lục bát. Pháp tu Tịnh Độ tông được văn học Phật giáo Lý - Trần tiếp
thu qua phương thức tu chứng của Thiền, nhấn mạnh sự nhiếp tâm thực chứng thực tại: “Tịnh độ
là lòng sạch chớ còn ngờ hỏi đến tây phương. Di đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về cực lạc”
3. Kết luận
Tựu trung lại, các pháp môn Đại thừa đa dạng về cả tông phái và tư tưởng (khoảng 20 trường
phái lớn), nhưng hạnh nguyện tu hành không sai biệt: sứ mệnh cứu độ chúng sinh. Chân lý cứu
cánh của tư tưởng Đại thừa là cái Toàn diện vô phân biệt, kể cả khi xem xét hiện tượng trong một
giới hạn có tính sai biệt trên cả ba phương diện: Thể, Tướng, Dụng. Thể của Đại thừa là bản thể
của vạn hữu, tướng của Đại thừa là biểu hiện của vạn hữu bao la vô cùng vô tận và Dụng của Đại
thừa nói đến khả năng siêu việt, bất khả tư nghì của nó. Đó là cơ sở để tư tưởng Đại thừa phát triển
thành các ý niệm Tự Tính Duyên Khởi, Bát Nhã cứu cánh, Vạn hữu giai Không, Bình đẳng Tính
Trí, Sinh Tử tức Niết Bàn,. . . [9; tr.5]. Phật giáo Đại thừa không quá coi trọng tính chất Khổ và Bất
tịnh của thế giới như phái Tiểu thừa nên ba cánh cửa giải thoát của Đại thừa là: Không, Vô tướng,
Vô tác. Đại thừa còn xem sự biến hoại không cùng tận của Vô thường không chỉ là một sự thật
đáng kinh hãi mà còn là một cơ hội của duyên sinh, của tu tập và cải biến tích cực. Vô ngã không
chỉ là trạng thái hư không, vô sở hữu đáng buồn mà còn là sự chuyển hóa vào nhau của vạn hữu:
một là tất cả, tất cả là một. Hiểu như vậy thì vị Bồ Tát đi trong đời tự tại, thanh lương, vững vàng
mà uyển chuyển như núi đi trong sóng nước, làm mà như không làm, cứu độ tất cả mà vẫn không
thấy có người cứu độ và người được cứu độ. Tuệ vô nguyện, vô phiền, không phân biệt khiến Bồ
Tát tâm bất thối chuyển, tự do nhập vào Tam muội hay luôn an trụ sáu ba la mật vì lợi ích chúng
sinh. Tiếp thu những tinh chất của tư tưởng Đại thừa Phật giáo qua ảnh hưởng của các Tông phái
Trung Hoa, các tác giả văn học Phật giáo Lý - Trần vừa có được sự tiếp nối tinh thần huyết mạch
của Đại thừa, vừa bộc lộ vào văn học tinh thần thực hành, ứng dụng để đạt đến sự tự tại, an trụ
trong Chánh Pháp mà vẫn đóng góp tích cực cho đất nước và nhân dân trong cuộc đồng hành kiên
cường và dài lâu cùng dân tộc. Văn học Phật giáo Lý - Trần, do vậy, vừa là một bộ phận khắng khít
của văn học dân tộc, vừa là một phần trong mạch chảy ngọt ngào, miên viễn của Phật giáo Đại
thừa vào nhân sinh đau khổ.
Truy tìm ngọn nguồn tư tưởng của văn học Phật giáo Lý - Trần từ nền tảng tư tưởng của văn
học Đại thừa và Nguyên thủy Phật giáo sẽ giúp ta giải quyết được ba vấn đề then chốt: Thứ nhất:
Bản chất của văn học Phật giáo là biểu hiện tư tưởng giáo lý Phật đà hơn là thi triển năng lực ngôn
từ. Thứ hai: Văn học Phật giáo Việt nam là một bộ phận nằm trong dòng chảy văn học Phật giáo
Đại thừa theo truyền thống Bắc truyền, nên có thể tìm thấy những diện mạo chung của nó với các
nền văn học Phật giáo khác trên nhiều mặt: cái tôi của tác giả văn học, bản chất hình tượng văn
học, thông điệp nhân sinh và bản thể giải thoát của văn học,. . . Thứ ba: Tiếp nhận văn học Phật
giáo Lý - Trần để tiếp thu các tinh chất tư tưởng của loại văn học này trong nhận thức và cải tạo
87
Phạm Thị Thu Loan
những khó khăn tinh thần của con người trong cuộc sống hiện đại nhiều nghịch cảnh, chứ không
phải những mổ xẻ cấu trúc thi pháp văn học mới là hướng đi phù hợp với sứ mạng và tôn chỉ tồn
tại của Phật giáo và những triết lí siêu nghiệm của nó vẫn chất chứa trong văn học Phật giáo như
một bí tạng vô giá.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Huệ Chi chủ biên, 1988. Thơ văn Lý Trần (tập 2). Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
[2] Đoàn Trung Còn, 1995. Các tông phái đạo Phật. Nxb Tổng hợp, Tp. Hồ Chí Minh.
[3] Thích Phước Đạt, 2013. Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm. Nxb Hồng
Đức.
[4] Nguyễn Lang, 2000. Việt Nam Phật giáo sử luận. Nxb Văn Học, Hà Nội.
[5] Nguyễn Công Lý, 1997. Bản sắc dân tộc trong văn học Thiền tông thời Lý – Trần. Nxb Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
[6] Nguyễn Đăng Thục, 1996. Thiền học Trần Thái Tông. Nxb Thuận Hóa.
[7] Thích Mật Thể, 2004. Việt Nam Phật Giáo sử lược. Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
[8] Thích Minh Tuệ, 1993. Lược sử Phật giáo Việt Nam. Thành Hội Phật Giáo TP Hồ Chí Minh
ấn hành.
[9] Tuệ Sỹ, 1972. Dẫn vào thế giới văn học Phật giáo. Tư tưởng, Bộ IV, Tu viện Đại học Vạn
Hạnh, Sài Gòn.
[10] Tuệ Sỹ, 1972. Tinh hoa triết học Phật giáo. Tu viện Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn.
ABSTRACT
The ideological foundation of Ly-Tran Buddhist literature
Phạm Thị Thu Loan
General department, Thai Binh Universty
Ly-Tran Buddhist literature is considered the best excellence of Buddhist culture in Vietnam.
The process of collecting and researching it is concerned with the emphasis from the great to
the present, by scholars such as Le Qui Don, Tran Van Giap, Nguyen Lang, Le Van Sieu, Le
Manh That, Nguyen Hue Chi, so on. Research is carried out in many ways: collecting, translating,
exploring content, analyzing the structure of poetry, comparing learning... These are indispensable
steps of literary theory, but it is not full. Finding the ideological foundation of Ly-Tran Buddhist
literature from the ideological background of Mahayana and Theravada Buddhism will help solve
the key problem in order to find the most basic characteristic of the text.
Keywords: Buddhist literature, Theravada Buddhism, Mahayana Buddhism, sects, Ly - Tran
Buddhism literature works.
88
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4985_pttloan_7475_2127506.pdf