Ngôn ngữ giao tiếp của giáo viên trong trường Tiểu học nhìn từ lý thuyết ngữ dụng

Tài liệu Ngôn ngữ giao tiếp của giáo viên trong trường Tiểu học nhìn từ lý thuyết ngữ dụng: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 66 (6/2019) No. 66 (6/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 15 NGÔN NGỮ GIAO TIẾP CỦA GIÁO VIÊN TRONG TRƯỜNG TIỂU HỌC NHÌN TỪ LÝ THUYẾT NGỮ DỤNG Communicative language of teachers in primary schools from the theory of pragmatics TS. Trần Thị Lam Thủy(1), TS. Nguyễn Thị Thu Hằng(2), TS. Trịnh Cam Ly(3) (1),(2),(3) Trường Đại học Sài Gòn TÓM TẮT Bài viết tập trung nghiên cứu các yếu tố chi phối ngôn ngữ giao tiếp của giáo viên trong trường tiểu học dưới ánh sáng của lí thuyết ngữ dụng. Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hình thành và phát triển kĩ năng giao tiếp cho giáo viên. Từ khóa: giao tiếp sư phạm, ngôn ngữ giao tiếp, trường tiểu học ABSTRACT The paper focuses on the factors that govern teachers' communicative language in primary schools in the light of the theory of pragmatics, thereby propo...

pdf8 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 576 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ngôn ngữ giao tiếp của giáo viên trong trường Tiểu học nhìn từ lý thuyết ngữ dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 66 (6/2019) No. 66 (6/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 15 NGÔN NGỮ GIAO TIẾP CỦA GIÁO VIÊN TRONG TRƯỜNG TIỂU HỌC NHÌN TỪ LÝ THUYẾT NGỮ DỤNG Communicative language of teachers in primary schools from the theory of pragmatics TS. Trần Thị Lam Thủy(1), TS. Nguyễn Thị Thu Hằng(2), TS. Trịnh Cam Ly(3) (1),(2),(3) Trường Đại học Sài Gòn TÓM TẮT Bài viết tập trung nghiên cứu các yếu tố chi phối ngôn ngữ giao tiếp của giáo viên trong trường tiểu học dưới ánh sáng của lí thuyết ngữ dụng. Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hình thành và phát triển kĩ năng giao tiếp cho giáo viên. Từ khóa: giao tiếp sư phạm, ngôn ngữ giao tiếp, trường tiểu học ABSTRACT The paper focuses on the factors that govern teachers' communicative language in primary schools in the light of the theory of pragmatics, thereby proposing solutions to form and develop communication skills for teachers. Keywords: pedagogical communication, communicative language, primary school 1. Đặt vấn đề Nghiên cứu về ngôn ngữ giao tiếp nói chung đã được quan tâm từ rất lâu trong lịch sử Ngôn ngữ học từ phương diện lí luận đến ứng dụng. Từ những năm 50 của thế kỉ XX, nhiều nhà triết học, logic học như L. Wittgenstein, J. Austin, J. Searle xem xét, nghiên cứu ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp với những công trình đầu tiên về ngữ dụng học. Đến G. Kasper (1997) trong bài viết Can pragmatic competence be taught đã nhấn mạnh đến những hiểu biết về ngữ dụng học và năng lực ngôn ngữ như là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên năng lực giao tiếp. Các tác giả H. Stephen Straight trong mục đích, phương pháp và lí thuyết trong giảng dạy ngôn ngữ (bản dịch), F. Lowenthal, F. Vandamme trong Pragmatics and Education nghiên cứu đến việc giảng dạy ngôn ngữ đều khẳng định mục đích đầu tiên của việc học ngôn ngữ là đạt đến sự trôi chảy, lưu loát trong giao tiếp. Tuy nhiên, các tác giả này chủ yếu quan tâm đến việc ứng dụng năng lực ngữ dụng vào phát triển năng lực giao tiếp cho đối tượng người học ngôn ngữ thứ hai. Bên cạnh những công trình đặt nền móng về lí luận, thế giới ngày càng quan tâm hơn đến việc sử dụng hiệu quả ngôn ngữ trong giao tiếp. Nếu chỉ làm một thao tác tìm kiếm trên công cụ tìm kiếm của Email: tranthilamthuy@gmail.com SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019) 16 Internet với các từ khóa “sử dụng hiệu quả ngôn ngữ trong giao tiếp”, chỉ chưa đầy 1 phút, chúng ta đã có ngay 3.470.000 kết quả; tương tự với cụm từ “using language of result in the communication” chúng ta đã có một con số đáng nể trong chưa đầy 1 phút là 9.870.000 kết quả. Tình hình này cho thấy mối quan tâm đặc biệt của nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng đối với ngôn ngữ giao tiếp và dạy học ngôn ngữ giao tiếp. Ở Việt Nam, một trong những người khởi xướng đầu tiên là Đỗ Hữu Châu với các công trình nghiên cứu về Ngữ dụng học, đặt nền móng cho việc nghiên cứu ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp như Đại cương ngôn ngữ học, tập 2 – Ngữ dụng học, Giáo trình ngữ dụng học; Cơ sở ngữ dụng học, Giáo trình ngữ dụng học.v.v. Tiếp sau Đỗ Hữu Châu, ngữ dụng và ngôn ngữ giao tiếp được khai thác gần hơn với ngôn ngữ đời sống và ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương với các tác giả như Nguyễn Đức Dân, Bùi Minh Toán, Đỗ Thị Kim Liên và nhiều tác giả với các bài viết trên tạp chí bàn về ngôn ngữ giao tiếp trong những ngữ cảnh nhất định. Riêng trong phạm vi giáo dục, ngôn ngữ giao tiếp cũng xuất hiện nhiều công trình quan tâm nghiên cứu với các tên tuổi như Trần Hữu Luyến, Trương Dĩnh, Nguyễn Quang Ninh, Nguyễn Trí, Nguyễn Thị Phương Thảo, Nguyễn Thị Hiên, Nguyễn Thị Xuân Yến.v.v. Điểm qua các bài viết về ngôn ngữ và giao tiếp trong trường học, cho thấy các tác giả đã quan tâm đến vấn đề từ nhiều phương diện liên quan đến chương trình, sách giáo khoa, từ nội dung đến phương pháp, đến các bài tập thực hành giao tiếp đều được đề cập ở hầu hết các cấp học. Riêng cấp học tiểu học cũng đã có một số công trình tiêu biểu như Dạy hội thoại cho học sinh tiểu học (Dự án phát triển giáo viên tiểu học, Hà Nội, 2007 do Nguyễn Trí (chủ biên) và Hoạt động giao tiếp với dạy học tiếng Việt ở tiểu học (NXB Đại học Sư phạm của Phan Phương Dung và Đặng Kim Nga, 2009).v.v. Tuy nhiên, các công trình kể trên đều mang tính cục bộ, chưa thể thành hệ thống. Đối tượng mà các công trình đã có hướng tới hầu như là chỉ mối quan hệ giữa giao tiếp với hoạt động dạy học, đối tượng chính được quan tâm đến ở đó là học sinh. Câu hỏi mà các tác giả đặt ra vẫn xoay quanh trục chính là làm thế nào để giáo viên (GV) dạy cho học sinh (HS) giao tiếp qua các bài học. Còn người dạy sẽ như thế nào vẫn chưa được quan tâm thích đáng. Trong phạm vi của bài viết này, trước hết, chúng tôi muốn tìm hiểu về thực trạng giao tiếp trong trường tiểu học nhằm xây dựng một hệ thống cơ sở cho những phạm vi giao tiếp cụ thể dành cho giáo viên. Góp phần giúp GV hoàn thiện thêm kĩ năng giao tiếp của mình trước khi họ có thể truyền dạy tri thức và rèn luyện kĩ năng cho học sinh. 2. Các yếu tố chi phối giao tiếp và giao tiếp sư phạm 2.1. Các yếu tố chi phối giao tiếp Các nhân tố giao tiếp là những yếu tố có mặt trong hoạt động giao tiếp, ảnh hưởng và chi phối đến cuộc giao tiếp đó (kể cả chi phối hình thức lẫn nội dung) như nhân vật giao tiếp, thực tế được nói tới, tiền giả định giao tiếp, phương tiện và kênh giao tiếp, đích giao tiếp và ngữ cảnh giao tiếp là những nhân tố giao tiếp thông thường. a. Nhân vật giao tiếp Nhân vật giao tiếp là những người tham gia vào hoạt động giao tiếp và tương TRẦN THỊ LAM THỦY và Cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 17 tác với nhau bằng ngôn ngữ. Khi bản thân là một nhân vật giao tiếp, người giao tiếp buộc phải chú ý đến vai giao tiếp của mình trong cuộc thoại và quan hệ liên nhân giữa mình cùng các đối tác. Đó là tương quan vị thế xã hội của mình với đối tác (vai trên hay dưới xét về tuổi tác, địa vị, trình độ) và mối quan hệ tình cảm đã có (thân tình hay còn xa lạ, khách sáo). Tất cả các yếu tố này đều sẽ chi phối, buộc mỗi người giao tiếp phải có hành vi, cử chỉ, lời nói phù hợp với vai của mình. b. Nguyên tắc hội thoại Muốn cho một cuộc hội thoại thành công, các nhân vật tham gia hội thoại phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc này được phát biểu trong Nguyên tắc cộng tác hội thoại của Grice, Lý thuyết quan yếu của Wilson và Sperber và Phép lịch sự hay nguyên tắc tôn trọng thể diện.v.v. Nguyên tắc cộng tác được Grice đề xuất với các phương châm hội thoại. Còn Wilson và Sperber cho rằng một phát ngôn có tính quan yếu là một phát ngôn có tác động đối với ngữ cảnh. Xác định tính quan yếu của phát ngôn là nhiệm vụ của người giao tiếp bằng cách: đối chiếu với ngữ cảnh (tri thức nền), người nghe suy ý từ nghĩa của phát ngôn mà tìm ra tính quan yếu của phát ngôn tiếp nhận được. Phép lịch sự được R. Lakoff (1977) xác định là sự tôn trọng nhau trong tương tác hội thoại. Càng tuân thủ nguyên lí lịch sự thì nguy cơ đối mặt với những trở ngại trong giao tiếp giữa các cá nhân càng được giảm thiểu. Vì vậy cần thực hiện những nguyên tắc sau: i) không áp đặt (trong giao tiếp mang tính nghi thức); ii) để ngỏ sự lựa chọn (trong giao tiếp thông thường) và iii) làm cho người đối thoại cảm thấy thoải mái (trong trò chuyện thân mật). Những nguyên tắc này chi phối và tác động mạnh mẽ tới quá trình hội thoại. c. Phương châm hội thoại Phương châm hội thoại là những quy định mà người tham gia hội thoại phải tuân thủ thì cuộc giao tiếp mới thành công. Có 5 phương châm hội thoại chính là: phương châm về lượng (khi giao tiếp, cần nói đúng nội dung; nội dung của lời nói phải đáp ứng đúng yêu cầu của cuộc giao tiếp, không thiếu, không thừa); phương châm về chất (khi giao tiếp, đừng nói những điều mà mình không tin là đúng hay không có bằng chứng xác thực); phương châm quan hệ (khi giao tiếp, cần nói đúng vào đề tài giao tiếp, tránh nói lạc đề); phương châm cách thức (khi giao tiếp, cần chú ý nói mạch lạc, ngắn gọn, tránh cách nói mơ hồ), phương châm lịch sự (khi giao tiếp cần tế nhị và thể hiện sự tôn trọng người khác). Để giao tiếp thành công, cần nắm vững các phương châm hội thoại. Tuy nhiên, căn cứ vào tình huống giao tiếp cụ thể, cần vận dụng phương châm hội thoại cho phù hợp và linh hoạt. d. Thương lượng hội thoại Thương lượng hội thoại là quá trình vận động, tương tác giữa các đối tượng tham gia giao tiếp để đạt tới mục đích. Trong thương lượng hội thoại, các nhân vật giao tiếp cần chú ý đến 3 yếu tố chính: đối tượng thương lượng, phương thức thương lượng và kết cục hội thoại. e. Lập luận “Lập luận là đưa ra những lý lẽ nhằm dẫn dắt người nghe đến một kết luận hay chấp nhận một kết luận nào đấy mà người nói muốn đạt tới” (Đỗ Hữu Châu, 2001). Trong giao tiếp, nếu nắm vững và vận dụng tốt lí thuyết lập luận, người giao tiếp SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019) 18 có thể đưa ra những chứng cứ, lý lẽ để thuyết phục, đàm phán, hướng đối phương có thể tin vào thông tin mình cung cấp. Nếu không biết sử dụng lập luận, người nói có thể sẽ trở nên lúng túng, bị động trong chính tình huống mà mình đưa ra. g. Thực tế được nói tới Thực tế được nói tới còn gọi là nội dung của ngôn bản trong giao tiếp. Nội dung ấy giúp người giao tiếp trả lời được cho các câu hỏi: ‘‘Mình sẽ nói/ viết vấn đề gì?, Mình sẽ gửi thông điệp gì tới người nghe/ người đọc” thì mới có thể xác định được hiện thực được nói tới. h. Đích giao tiếp Mỗi hoạt động giao tiếp bao giờ cũng hướng tới một hoặc một số mục đích nhất định nào đó (gọi là đích giao tiếp). Đích của giao tiếp vô cùng đa dạng, phong phú, có khi chỉ đơn thuần là để làm quen, bày tỏ tâm tư, suy nghĩ, thông báo một tư tưởng, nhận thức nào đó của mình nhưng cũng có khi là đưa ra một lời yêu cầu, đề nghị đòi hỏi người nghe phải giải đáp, thực hiện. Đích trong giao tiếp người ta còn gọi là đích tác động. Thông thường, người nói/viết tác động đến người nghe/đọc với 3 dạng đích: tác động về mặt nhận thức, tác động về mặt tình cảm, tác động về mặt hành động. Cuộc giao tiếp đạt được hiệu quả (toàn phần hoặc một phần) khi và chỉ khi đạt được đích giao tiếp. Ngược lại, cuộc giao tiếp có thể hoàn toàn thất bại vì không hề đạt được mục đích đặt ra từ ban đầu. i. Hoàn cảnh giao tiếp Bối cảnh diễn ra cuộc giao tiếp được gọi là hoàn cảnh giao tiếp và được phân ra làm 2 loại: hoàn cảnh giao tiếp rộng (bao gồm hoàn cảnh địa lý, lịch sử, kinh tế... chung của đất nước/dân tộc, tham gia vào cuộc giao tiếp dưới dạng những kinh nghiệm, những vốn hiểu biết chung giữa các nhân vật giao tiếp); hoàn cảnh giao tiếp hẹp (yếu tố thời gian, địa điểm, hình thức giao tiếp, tình trạng sức khỏe, những sự việc diễn ra) trong quá trình giao tiếp. Tùy theo hoàn cảnh giao tiếp có nghi thức hay phi nghi thức, tùy theo điều kiện thời gian, nơi chốn... diễn ra cuộc giao tiếp, người nói/viết sẽ lựa chọn nội dung, hình thức diễn đạt phù hợp. k. Tiền giả định giao tiếp Tiền giả định giao tiếp là những hiểu biết, những kinh nghiệm, vốn tri thức chung giữa các nhân vật; là điều kiện để cho một cuộc giao tiếp diễn ra bình thường. Nhờ có tiền giả định giao tiếp mà cuộc giao tiếp tránh được tình trạng “ông nói gà, bà nói vịt” hoặc “vặn vẹo” nhau do nội dung giao tiếp khó có thể diễn đạt hết bằng lời. l. Phương tiện và kênh giao tiếp Phương tiện giao tiếp là tất cá yếu tố được dùng để thể hiện thái độ, tình cảm, tư tưởng, mối quan hệ và những tâm lý khác trong một cuộc giao tiếp. Phương tiện giao tiếp chính gồm hai nhóm: ngôn ngữ (lời nói, chữ viết) và phi ngôn ngữ (ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ). Như vậy, nghiên cứu nhân tố giao tiếp giúp chúng ta hiểu sâu hơn, đầy đủ hơn về giao tiếp, các nhân tố tham gia vào hoạt động giao tiếp và chi phối cuộc giao tiếp đó để biết cách điều chỉnh hoạt động giao tiếp của mình nhằm đạt được hiệu quả giao tiếp cao. 2.2. Giao tiếp sư phạm Giao tiếp sư phạm là hoạt động giao tiếp diễn ra trong hoàn cảnh giao tiếp hẹp (trường học). Trong đó, chủ thể của hoạt động là GV nhằm truyền đạt và lĩnh hội các tri thức khoa học, các kỹ năng nghề TRẦN THỊ LAM THỦY và Cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 19 nghiệp, vốn sống để xây dựng và phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh. Giao tiếp sư phạm thường mang tính chuẩn mực dựa trên nền tảng tình cảm, thuyết phục, cảm hóa, vận động. Đây là hoạt động được xã hội tôn vinh, bảo đảm trong môi trường an toàn, lành mạnh. Chính vì vậy, mỗi một GV trong quá trình giao tiếp phải luôn luôn chú ý đến tính chuẩn mực, làm gương cho HS noi theo; đồng thời HS phải có thái độ tôn kính người thầy (được thể hiện trong Luật Giáo dục). Trong môi trường trường học, có một số yếu tố có thể làm chậm hoặc tác động tiêu cực đến quá trình chuyển giao thông tin một cách hiệu quả. Bao gồm: - Trình độ nhận thức và mức độ nhận thức theo cảm tính: sự quá chênh lệch về tuổi tác, cương vị, trình độ văn hóa giữa người phát và người nhận có thể là những yếu tố tạo ra sự hiểu lầm hoặc không hiểu nhau; - Sự khác biệt về giới tính cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả quá trình giao tiếp vì giới tính khác nhau tạo nên những phong cách khác nhau; - Tâm lý, cảm xúc: các cảm xúc thái quá, các sự thay đổi tâm lí đột ngột cản trở nhiều nhất đến quá trình giao tiếp hiệu quả; - Những chấn thương tình cảm: nỗi buồn, đau đớn, thất vọng; - Những sự khác nhau về chính kiến, những xung đột; - Những định kiến về người khác; - Đối tượng muốn nói rõ sự thật nhưng cảm thấy không an toàn vì sự có mặt của một người thứ ba; - Các trở ngại do môi trường (tự nhiên và xã hội): Những yếu tố gây nhiễu như: các kích thích thị giác gây phân tán tư tưởng; nhiệt độ không khí quá cao, từ 26 đến 33°c làm giảm từ 28% đến 50% khả năng tiếp thu thông tin; tiếng ồn từ 60 đến 100 decibel làm cho số lượng các thông tin tiếp thu sai lệch lên tới 40%.v.v. Dựa trên các hoạt động sư phạm và các mối quan hệ trong trường tiểu học, chúng tôi phân ra các loại giao tiếp như sau: - Giao tiếp giữa GV và học sinh; - Giao tiếp giữa các đồng nghiệp với nhau (bao gồm giao tiếp giữa GV và ban giám hiệu, giữa các đồng nghiệp); - Giao tiếp giữa GV và phụ huynh học sinh. 3. Giao tiếp của giáo viên trong trường tiểu học Để nắm được thực trạng và đề ra giải pháp hình thành kĩ năng xử lí tình huống phù hợp, chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng sử dụng ngôn ngữ giao tiếp và giao tiếp của 70 giáo viên tại một số trường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Bằng hình thức phiếu hỏi và trao đổi trực tiếp, chúng tôi đã có một số chia sẻ cũng như thông tin về thực trạng giao tiếp và sử dụng ngôn ngữ giao tiếp của giáo viên. Kết quả bước đầu cho thấy: - Đối tượng mà GV gặp khó khăn nhiều nhất khi giao tiếp là phụ huynh HS (96% GV chọn). Đây là đối tượng rất đa dạng với đủ các thành phần xã hội, đòi hỏi GV phải linh hoạt trong ứng xử và tiếp xúc. Chính vì vậy, GV ngại tiếp xúc với phụ huynh cũng không có gì lạ. - Trong giao tiếp với đồng nghiệp, Ban Giám hiệu cũng như GV đều hướng tới tạo sự thân thiện trong khi vẫn giữ đúng vai vị thế giao tiếp (xưng hô chủ yếu là thầy/cô – tôi/em hoặc anh/chị - tôi/em). Ngay cả khi có sự bất đồng phải có tranh luận (thậm chí tranh cãi), hầu hết GV vẫn chọn xưng hô như thường ngày, lời nói vẫn giữ chuẩn mực của nhà giáo. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019) 20 - Trong giao tiếp với phụ huynh, GV cũng lựa chọn hướng tới tạo sự thân thiện bằng cách xưng hô anh/chị - em hoặc ba/mẹ - cô/thầy. Khi phụ huynh có thắc mắc hoặc phản ứng không phù hợp, hầu hết GV vẫn lựa chọn phương án bình tĩnh giải thích để phụ huynh hiểu, trường hợp bất đắc dĩ vượt ra ngoài khả năng mới làm phiền đến sự hỗ trợ của BGH. - Đối với học sinh, hầu như GV đều chọn cách xưng hô hết sức thân mật đúng với tinh thần “khi đến trường cô giáo như mẹ hiền”, xưng cô/thầy và gọi con. Mặc dù kết quả cho thấy khá cụ thể song quan sát trong quá trình giáo viên điền phiếu hỏi cũng như trả lời phỏng vấn, những cơ sở khoa học của ngữ dụng học không được áp dụng một cách thường xuyên. Nói cách khác, GV ứng xử, làm việc theo cảm tính chứ không tự phân tích để dựa trên một cơ sở lí luận/khoa học để hành xử. Từ thực tế đó, chúng tôi đề xuất thêm một số giải pháp để hình thành kĩ năng sử dụng ngôn ngữ giao tiếp của GV trong trường tiểu học dựa trên khung lí thuyết của ngữ dụng học. 4. Đề xuất một số giải pháp hình thành kĩ năng giao tiếp cho giáo viên tiểu học 4.1. Xây dựng mục đích giao tiếp và hình thành lập luận cho cuộc giao tiếp Bất kì cuộc giao tiếp nào cũng có mục đích, dù chỉ là để tạo mối quan hệ thân thiện hay trao đổi truyền đạt tư tưởng, nhận thức. Bởi vậy, trước khi vào cuộc giao tiếp, GV nên xác lập mục tiêu đồng thời hình thành trước các ý (luận cứ) để có thể chủ động trong cuộc hội thoại. Chẳng hạn để trao đổi với phụ huynh tình hình học tập của con em họ, GV cần tuân thủ các bước lập luận: (1) thăm hỏi (tạo tình cảm và không khí thân thiện), (2) khen ngợi những điểm HS đã làm được, (3) bày tỏ mong muốn HS sẽ có kết quả tốt hơn nữa trong tương lai, (4) nói về những hạn chế cần khắc phục, (5) mong muốn phụ huynh cùng phối hợp. Như vậy, phụ huynh sẽ có tâm lí thoải mái và dễ dàng phối hợp cùng GV và nhà trường hơn. 4.2. Xác lập tiền giả định giao tiếp chung cho cả người nói và người nghe Trong các cuộc giao tiếp, rất nhiều phát ngôn của người nói bắt đầu bằng như anh/chị/em/thầy/cô đã biết. Đằng sau tổ hợp này là những thông tin mà hầu như cả người nói và người nghe đều đã biết. Việc nhắc lại là để người nói khẳng định một lần nữa những nhận thức và quan điểm chung, nhằm tránh hiểu lầm hoặc thiếu định hướng cho thông tin mới. 4.3. Tạo hoàn cảnh giao tiếp hẹp phù hợp với vai giao tiếp và nội dung giao tiếp Hoàn cảnh giao tiếp hẹp của giao tiếp sư phạm thông thường là lớp học, trường học. Mọi cuộc giao tiếp diễn ra trong đó đều phải tuân theo chuẩn mực và quy định của nhà trường. Sự thân thiện, tính tích cực, tính lịch sự và thái độ tôn trọng người tham gia giao tiếp cũng như mọi người xung quanh phải được đảm bảo như những nguyên tắc của giao tiếp trong trường học. 4.4. Tạo quan hệ liên nhân thân mật trong giao tiếp Một cuộc trò chuyện thân mật bao giờ cũng giúp người giao tiếp dễ dàng đạt được mục đích, đồng thời xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp với đối tác. Chính vì vậy, tạo sự thân thiện luôn là mối quan tâm hàng đầu trước khi vào cuộc giao tiếp. Với người Việt, biện pháp được sử dụng nhiều nhất là sử dụng từ xưng – hô. Bằng cách kéo người đối diện lại gần mình hơn qua việc dùng các danh từ thân tộc như anh/chị - em, TRẦN THỊ LAM THỦY và Cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 21 cô/bác/chú/dì – con/cháu.v.v. Đặc biệt, GV và phụ huynh còn có cách xưng – gọi ba/mẹ - cô/thầy khiến người trong cuộc cảm thấy ấm áp và có trách nhiệm hơn. Đây là một trong những biện pháp giúp GV cải thiện nỗi e ngại tiếp xúc với phụ huynh nhiều nhất. Ngoài ra, nếu bắt buộc phải nhận xét về HS với phụ huynh, cần tránh phàn nàn, kể lể lỗi của HS (nếu có). Nếu phải góp ý để thay đổi, GV cũng phải “lựa lời” sao cho phụ huynh cảm nhận sự chân thành và yêu thương con trẻ của GV. Có như vậy, sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong giáo dục mới đạt đến hiệu quả cao nhất. 4.5. Sử dụng phương tiện giao tiếp chuẩn mực Với phương châm chọn lọc những yếu tố ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản có tính chất trong sáng, đẹp đẽ, và chuẩn mực để phù hợp với các nhân tố giao tiếp, đáp ứng được những đòi hỏi về thẩm mĩ ngôn ngữ. GV cần xây dựng cho mình và cho cả HS phương tiện giao tiếp chuẩn mực. Về ngữ âm, lấy hệ thống cách phát âm của giới tri thức sử dụng ngôn ngữ chuẩn hóa, chứ không phải trên cách phát âm của một cộng đồng địa phương để hướng các em tiếp cận và sử dụng thành thạo được hệ quy chuẩn phát âm chuẩn. Về từ ngữ, GV cần sử dụng và cung cấp cho HS hệ thống từ ngữ chuẩn mực, biết sử dụng từ ngữ để diễn đạt đúng truyền thống đạo đức, văn hóa của dân tộc. Đặc biệt, GV cần lưu ý thêm một số điểm khi giao tiếp với học sinh: - Khen ngợi một cách chân thành những nỗ lực hoặc thành tích trong học tập của các em; - Giọng nói ấm áp, truyền cảm, hấp dẫn, không nói lay, nói lắp, ngữ điệu vừa phải sinh động; - Vốn từ phong phú, đa dạng, dễ hiểu, phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp sư phạm; - Lắng nghe, khích lệ, động viên các em nói ra những băn khoăn, lo lắng cũng như nguyện vọng của mình. Biết đặt mình vào vị trí của các em để hiểu được tâm lý và tìm được sự đồng cảm, thấu hiểu nhằm dễ thuyết phục học sinh; - Không quát tháo, không nặng lời, không dùng những từ ngữ xúc phạm “láo, hỗn,..” gây tổn thương các em; - Không nên nhắc mãi những nhược điểm đã được khắc phục của các em. Vì thực tế cho thấy rằng: thưởng nhiều hơn phạt, khen nhiều hơn chê là cách giáo dục có hiệu quả nhất; - Thật chân thành quan tâm đến đối tượng giao tiếp, không giả tạo, làm sao để các em tìm thấy được sự gần gũi, tin cậy trong hoạt động giao tiếp giữa thầy và trò. 5. Kết luận Giao tiếp sư phạm là một dạng giao tiếp đặc biệt. Bởi ở đây không đơn thuần chỉ là giao tiếp để chuyển tải thông tin mà qua đó, chúng ta giáo dục, hình thành đạo đức, nhân cách cho thế hệ trẻ. Bởi vậy, trong bất kì cuộc giao tiếp nào với tư cách là GV, người giao tiếp đều phải hướng tới sự chuẩn mực cả về thái độ, cử chỉ, lời nói.v.v. Xem xét giao tiếp của GV dưới ánh sáng của lí thuyết ngữ dụng học, chúng tôi cho rằng, việc hiểu biết và vận dụng các lí thuyết ngữ dụng vào giao tiếp là cần thiết và hữu ích cho mỗi người tham gia giao tiếp. Hi vọng những đề xuất của chúng tôi ở đây có thể góp phần giúp GV tiểu học cũng như những người tham gia giao tiếp có thể vận dụng và đạt được thành công hơn trong cuộc sống. Bài báo thuộc đề tài NCKH – Mã số CS2018-26. Nhóm tác giả chân thành cảm ơn Trường Đại học Sài Gòn đã tài trợ cho đề tài nghiên cứu này. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019) 22 TÀI LIỆU THAM KHẢO Austin J. L. (1955). How to do things with words. Oxford at the Clarendon Press. (1962). Đỗ Hữu Châu (2001). Đại cương ngôn ngữ học. Tập 2: Ngữ dụng học. Hà Nội: NXB Giáo dục. Grice, H.P. (1968). “Utterer's Meaning, Sentence Meaning, and Word Meaning” Foundations of Language. 4. Reprinted as ch.6 of Grice 1989. pp. 117–137. I.U.V. Rozdextvenxki (1997). Những bài giảng về ngôn ngữ học đại cương. TP.HCM: NXB KHXH. F. Lowenthal, F. Vandamme (1986). Pragmatics and Education. New York: Plenum press. Ngô Công Hoàn (1997). Giao tiếp và ứng xử sư phạm. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Sperber, D., and Deirdre Wilson. (1986). Relevance: communication and cognition. Oxford: Basil Blackwell. 10. Yule, G. (1996), Pragmatics. Ngày nhận bài: 11/5/2019 Biên tập xong: 15/6/2019 Duyệt đăng: 20/6/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf13_163_2214918.pdf
Tài liệu liên quan