Tài liệu Nghiên cứu về tiêu chuẩn xác định chết tim và hiến thận: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 212
NGHIÊN CỨU VỀ TIÊU CHUẨN XÁC ĐỊNH CHẾT TIM VÀ HIẾN THẬN
Nguyễn Anh Tài*, Lê Thanh Liêm*, Trần Quang Vinh*
TÓM TẮT
Mục đích: tìm kiếm các tiêu chuẩn quyết định ngừng hồi sức trong quá trình chết tim có kiểm soát để nhận
thận hiến từ những bệnh nhân (BN) có bệnh lý nặng mà khả năng hồi sức nội khoa không thành công - nhằm làm
tiền đề cho phát triển nguồn thận hiến từ người cho chết tim ngừng đập
Phương pháp: tiến cứu, cắt ngang mô tả hàng loạt trường hợp BN điều trị tại các khu vực hồi sức tích cực
Bệnh viện Chợ Rẫy. Chúng tôi chú trong đến các yếu tố quyết định thời điểm ngừng hồi sức và thời gian từ lúc
ngưng hồi sức đến khi BN tử vong - tình trạng không hồi phục của bệnh lý, điểm Wincosin và huyết áp tâm thu.
Kết quả nghiên cứu này sẽ giúp xây dựng tiêu chuẩn quyết định ngừng hồi sức trong hiến tạng từ người cho tim
ngừng đập.
Kết quả:...
9 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 290 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu về tiêu chuẩn xác định chết tim và hiến thận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 212
NGHIÊN CỨU VỀ TIÊU CHUẨN XÁC ĐỊNH CHẾT TIM VÀ HIẾN THẬN
Nguyễn Anh Tài*, Lê Thanh Liêm*, Trần Quang Vinh*
TÓM TẮT
Mục đích: tìm kiếm các tiêu chuẩn quyết định ngừng hồi sức trong quá trình chết tim có kiểm soát để nhận
thận hiến từ những bệnh nhân (BN) có bệnh lý nặng mà khả năng hồi sức nội khoa không thành công - nhằm làm
tiền đề cho phát triển nguồn thận hiến từ người cho chết tim ngừng đập
Phương pháp: tiến cứu, cắt ngang mô tả hàng loạt trường hợp BN điều trị tại các khu vực hồi sức tích cực
Bệnh viện Chợ Rẫy. Chúng tôi chú trong đến các yếu tố quyết định thời điểm ngừng hồi sức và thời gian từ lúc
ngưng hồi sức đến khi BN tử vong - tình trạng không hồi phục của bệnh lý, điểm Wincosin và huyết áp tâm thu.
Kết quả nghiên cứu này sẽ giúp xây dựng tiêu chuẩn quyết định ngừng hồi sức trong hiến tạng từ người cho tim
ngừng đập.
Kết quả: 35 bệnh nhân thuộc phân nhóm Maastricht III (15 BN - 42,9%) và IV (20 BN - 57,1%) đồng ý
tham gia đánh giá ngừng hồi sức có kiểm soát để đánh giá quá trình chết tim ngừng đập tại các khu vực hồi sức
tại Bệnh viện Chợ Rẫy (11/2014-11/2015). Chấn thương sọ não nặng (82,9% và đột quị não nặng (11,4%) là
những nguyên nhân phổ biến nhất trong nghiên cứu chúng tôi. Không có sự khác biệt lớn về tuổi, giới tính và chỉ
số khối cơ thể giữa hai phân nhóm Maastricht III và Maastricht IV. Nguyên nhân tử vong là khác biệt rõ nhất
giữa hai phân nhóm nghiên cứu: chấn thương sọ não nặng là nguyên nhân duy nhất trong Maastricht IV – Chấn
thương sọ não nặng, Đột quị não, Nhồi máu cơ tim và Trạng thái động kinh là những nguyên nhân tử vong
trong Maastricht III - p=0,047. Tất cả BN trong nghiên cứu chúng tôi đều tử vong trong vòng 60 phút sau khi
ngừng hồi sức có kiểm soat. không có sự khác biệt về thời gian thiếu máu nóng giữa 2 phân nhóm nghiên cứu
(p=0,11). Phân tích bằng Kaplan-Meier: phân nhóm Masstricht III - BN có điểm Wincosin càng cao (19 - 24) có
thời gian thiếu máu nóng càng ngắn; không có sự liên quan giữa trị số huyết áp tâm thu (≤ 55 mmHg) tại thời
điểm trước ngừng hồi sức với thời gian tử vong (p=0,212). Phân tích hồi qui Cox: biểu đồ hàm sống sót tích lũy
giữa 2 tiêu chuẩn thang điểm Wincosin sau khi đã hiệu chỉnh về tiêu chuẩn huyết áp tâm thu - thang điểm
Wincosin là tiêu chuẩn có thể dự đoán thời gian chết tim sau ngừng hồi sức có kiểm soát trong nghiên cứu của
chúng tôi (p=0,047).
Kết luận: Thang điểm Wisconsin là yếu tố dự đoán có giá trị khả năng tử vong trong vòng 60 phút sau khi
ngừng hồi sức có kiểm soát ở BN thuộc phân nhóm Maastricht III và nên sử dụng để quyết định thời điểm ngừng
hồi sức ở các BN hiến tạng từ người chết tim ngừng đập.
Từ khóa: Người hiến tạng tim ngừng đập; ngừng hồi sức trong chết tim có kiểm soát; hiến thận.
ABSTRACT
RESEARCH ON THE CRITERIA FOR IDENTIFYING CARDIAC DEATH AND ORGAN DONOR
Nguyen Anh Tai, Le Thanh Liem, Tran Quang Vinh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 2 - 2017: 212 - 220
Purpose: Identify criteria that decided the time of withdrawal of life-support in controlled cardiac death to get
kidney donation from patients with a serious illness that medical resuscitation failed - to develop the kidney
donations from non-heart-beating donors (NHBDs).
* Bệnh viện Chợ Rẫy.
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Anh Tài ĐT: 0913724242 Email: anhtaintk@hotmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 213
Methods: prospective, cross-sectional descriptive case series of patients were treated in the intensive care area
Cho Ray Hospital. We pay for the factors affecting the time that decided to withdrawal of life-support and the time
between withdrawal of life-support to circulation death - irreversible condition of pathology, Wisconsin scale
withdrawal of life-support and systolic blood pressure. The research results will help develop criteria for
withdrawal of life-support in NHBDs.
Results: 35 patients subgroup Maastricht III (15 patients - 42.9%) and IV (20 patients - 57.1%) agree
participate in controlled withdrawal of life-support to evaluate cardiac arrest deaths in the intensive care areas of
Cho Ray Hospital (11/2014 - 11/2015). Severe head injuries (82.9 %;) and severe stroke (11.4%) are the most
cause of death. There were no significant differences in age, gender and body mass index between the two
subgroups Maastricht III and IV. Cause of death is the most obvious difference between the two subgroups
studied: severe brain injury was the sole cause of Maastricht IV - severe traumatic brain injury, Stroke,
Myocardial Infarction and Status epilepticus is the cause of death in the Maastricht III - p = 0.047. All patients in
our study die within 60 minutes after controlled withdrawal of life-support and there is no difference in warm
ischemic time between 2 subgroup (p=0.11).Kaplan-Meier analysis: subgroup Maastricht III – the Wisconsin
points of patients is higher (19-24) the warm ischemic time is shorter; there is no relationship between systolic
blood pressure (≤55mmHg) at the time of controlled withdrawal of life-support with the time between withdrawal
of life-support to circulation death (p=0.212). Cox regression analysis: chart cumulative survival function between
2 criteria: Wisconsin ‘scale after adjustment for systolic blood pressure criteria – Wisconsin ‘scale is criteria that
can predict the time between controlled withdrawal of life-support to circulation death in our study (p=0.047).
Conclusions: Wisconsin scale is the good prognostic factor of death within 60 minutes controlled
withdrawal of life-support in Maastricht III and should use to decide the time to withdrawal of life-support in
non-heart-beating donors.
Keywords: non-heart-beating donors (NHBDs); withdrawal of life-support in controlled cardiac death;
kidney donation.
ÐẶT VẤN ĐỀ
Ghép thận là phương pháp điều trị thành
công cho BN suy thận giai đoạn cuối và đã
chứng minh giúp kéo dài, cải thiện chất lượng
sống của BN. Tuy nhiên, nguồn thận hiến không
đáp ứng đủ so với nhu cầu. Hiện nay ở nước ta
nguồn thận hiến có thể là từ người cho còn sống
hoặc từ người cho chết não.
Sự khác biệt giữa nhu cầu và lượng thận
hiến dự đoán ngày càng tăng theo thời
gian(8,15,16). Các trung tâm ghép tạng trên thế
giới đã và đang tìm kiếm nguồn tạng hiến mới
- tạng hiến từ người chết tim ngừng đập (non-
heart-beating donors – NHBDs) để góp phần
rút ngắn sự khác biệt này(2,3,6,13).
Ở nước ta, luật hiến tạng từ người cho chết
não đã được ra đời từ năm 2006(10), và số lượng
thận hiến từ người cho chết não đến nay chỉ là:
20, nguồn thận hiến chủ yếu là từ người cho
sống. Danh sách chờ ghép thận ngày càng kéo
dài và nguồn thận hiến chưa bao giờ đáp ứng
đủ. Vì vậy, tuyển chọn nguồn tạng hiến từ người
cho chết tim ngừng đập là xu hướng tất yếu.
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm chọn
lựa các ứng viên từ những BN có bệnh lý nặng
mà khả năng hồi sức nội khoa không thành công
để nghiên cứu về tiêu chuẩn xác định chết tim và
hiến thận nhằm làm tiền đề cho phát triển nguồn
tạng hiến từ người cho chết tim ngừng đập.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu tiến cứu, cắt
ngang mô tả hàng loạt trường hợp: các BN có
bệnh lý chấn thương sọ não, đột quị não, bệnh
thần kinh nặng khác hoặc bệnh tim nặng đang
điều trị tại các khu vực hồi sức tích cực ngoại
thần kinh, Nội thần kinh và hồi sức tim mạch từ
tháng 11 năm 2014 đến tháng 11 năm 2015 thỏa
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 214
các tiêu chuẩn chọn bệnh, tiêu chuẩn loại trừ,
đồng ý hồi sức đến giai đoạn cuối cùng và có ý
kiến hội chẩn các chuyên khoa liên quan khẳng
định hồi sức tiếp tục kéo dài là không còn hiệu
quả cũng như không có lợi cho người bệnh để
đưa vào nghiên cứu.
Các dữ liệu cơ bản về dịch tễ học của đối
tượng nghiên cứu và tình trạng bệnh lý, tiền căn
được ghi nhận. Để chẩn đoán chết tim chúng tôi
thu thập nhiều biến số như điện tim, huyết áp
động mạch xâm lấn, siêu âm timbiến đổi theo
thời gian từ lúc ngưng hồi sức đến khi tuyên bố
chết tim ngừng đập. Qui trình và tiêu chuẩn
đánh giá chết tim trong nghiên cứu này được
tuân theo hướng dẫn từ Hội ghép tạng Hoa kỳ
(the American Society of Transplant Surgeons.-
ASTS)(2). Các yếu tố giúp đưa ra quyết định
ngừng hồi sức là tình trạng không hồi phục của
bệnh lý, điểm Wincosin và huyết áp tâm thu ở
thời điểm quyết định ngừng hồi sức.
Thời gian thiếu máu nóng là yếu tố quan
trọng quyết định chất lượng thận hiến (dưới 60
phút), vì vậy chúng tôi tập trung phân tích các
yếu tố tham gia trong quyết định thời điểm
ngừng hồi sức nhằm xác định các yếu tố liên
quan đến đến thời gian từ lúc ngưng hồi sức đến
khi BN chết tim trong vòng 60 phút. Kết quả
nghiên cứu này sẽ giúp xây dựng tiêu chuẩn xác
định chết tim và hiến thận – tiêu chuẩn ngừng
hồi sức và hiến thận từ người chết tim.
Nghiên cứu sử dụng phần mềm SPSS 20.0 để
xử lý và phân tích.
KẾT QUẢ
Từ tháng 11 năm 2014 đến tháng 11 năm
2015, 35 BN thuộc phân nhóm Maastricht III và
IV đồng ý hồi sức đến giai đoạn cuối và tham gia
đánh giá ngừng hồi sức có kiểm soát khi có
quyết định ngừng hồi sức của Hội đồng quyết
định ngừng hồi sức để đánh giá quá trình chết
tim ngừng đập tại các Khu vực tại Bệnh viện
Chợ Rẫy.
Đặc tính lâm sàng và cân lâm sàng đối
tượng nghiên cứu
Bảng 1: Đặc điểm chẩn đoán
Đối tượng nghiên cứu n Tỉ lệ %
Tuổi
35,9 ± 12,8
< 50 27 77,1
≥ 50 08 22,9
Giới nam 30 85,7
BMI
< 25 34 97,1
25 – 29 01 2,9
≥ 30 00 00
Phân loại
Maastricht
III 15 42,9
IV 20 57,1
Tiền căn gia
đình
tăng huyết áp 02 5,7
đột quị não 01 2,9
Đái tháo đường 02 5,7
Bệnh tim thiếu máu 02 5,7
Tiền căn
Tăng huyết áp 04 11,4
Đái tháo đường 01 2,9
Hút thuốc lá 11 31,4
uống rượu nhiều 14 40
bệnh mạch vành 01 2,9
suy tim 01 2,9
bệnh thận 01 2,9
Chẩn đoán
Chấn thương sọ
não nặng 29 82,9
Nhồi máu não 02 5,7
Xuất huyết não 02 5,7
Nhồi máu cơ tim 01 2,9
Trạng thái động
kinh 01 2,9
Nam giới (chiếm 85,7%), tỉ lệ nam: nữ là 6:1
(30:5), 77,1% BN dưới 50 tuổi; chỉ có 22,9% từ 50
tuổi trở lên (được xếp vào đối tượng hiến thận
mở rộng theo tiêu chuẩn tuổi). Không có đối
tượng nào béo phì (BMI >30).
BN thuộc phân nhóm Maastricht III và phân
nhóm Maastricht IV là 42,9% và 57,1% (15 và 20
BN). Nguyên nhân tử vong nhiều nhất là chấn
thương sọ não nặng – chiếm 92,9%; các nguyên
nhân khác lần lượt là Nhồi máu não (5,7%), xuất
huyết não (5,7%), Trạng thái động kinh (2,9%) và
Nhồi máu cơ tim (2,9%).
Tiền căn: uống rượu và hút thuốc lá chiểm tỉ
lệ khá cao (lần lượt là 40% và 31,4%); tiếp theo đó
là tăng huyết áp với tỉ lệ 11,4%; trong khi đó tiền
căn đái tháo đường, đột quị não chỉ chiếm 2,9%
và chỉ có 2,9% ghi nhận có bệnh thận trước đó.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 215
Tình trạng lâm sàng ở thời điểm vào nghiên
cứu
Bảng 2: Tình trạng lâm sàng
n %
Kiểu thở tăng thông khí 01 2,9
Nhịp thở không đều 08 22,9
Không nhịp tự thở 26 74,3
Nội khí quản 35 100
Thở máy 35 100
Không dùng thuốc vận mạch 13 37,1
Dùng Dopamine và Noradrenaline 03 8,6
Chỉ dùng Adrenaline 01 2,9
Chỉ dùng Noradrenaline 17 48,6
Chỉ dùng Dopamine 01 2,9
Liều Dopamine 5 - 10 mcg/kg/p 01 2,9
Liều Dopamine 10 - 15 mcg/kg/p 01 2,9
Liều Dopamine 15 - 20 mcg/kg/p 02 5,7
Liều Dopamine > 20 mcg/kg/p 01 2,9
Liều Noradrenaline 5 - 10 mcg/kg/p 01 2.9
Liều Noradrenaline 10 - 15 mcg/kg/p 06 17,1
Liều Noradrenaline 15 - 20 mcg/kg/p 08 22,9
Liều Noradrenaline > 20 mcg/kg/p 05 14,3
Tất cả BN nghiên cứu đều có tình trạng
lâm sàng nặng (GCS trung bình 3,1 điểm; thấp
nhất: 3 điểm; cao nhất: 5 điểm) và tiên lượng
hồi sức nội khoa tiếp tục để kéo dài cuộc sống
là không có lợi - theo ý kiến hội chẩn các
chuyên khoa liên quan.
22 trường hợp (62,9%) sử dụng thuốc vận
mạch dùng để duy trì huyết áp, trong đó
Noradrenalin là thuốc được sử dụng phổ biến
nhất 20/22 – 91% với liều trung bình đến cao (≥
10mcg/kg/ph) - 19 bệnh nhân (95% - 19/20).
Trung bình huyết áp tâm thu ở thời điểm vào
nghiên cứu là: 89,29 mmHg (40-150 mmHg).
100% BN trong nghiên cứu đều được hỗ trợ hô
hấp bằng máy thở qua nội khí quản.
Thời gian thiếu máu nóng theo phân loại
Maastricht
Thời gian từ khi ngừng hồi sức hô hấp – tuần
hoàn đến khi tuyên bố chết tim ngừng đập được
chú ý đặc biệt trong quá trình chết tim có kiểm
soát vì đây là một trong những yếu tố quan
trọng quyết định chọn lựa thận hiến. Khoảng
thời gian này được trình bày ở hình 1.
Hình 1: Thời gian từ khi ngừng hồi sức đến khi chẩn đoán chết tim ngừng đập
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 216
Thời gian từ lúc ngừng hồi sức đến khi chẩn
đoán chết tim ngừng đập trung bình trong
Maastricht IV là 18,75 ± 12,3 phút trong khi đó ở
nhóm Maastricht III là 13,13 ± 5,8 phút. Sự khác
biệt này không có ý nghĩa thống kê, p= 0,11.
Đối với bệnh nhân chết não (Maastricht IV),
việc ngừng hồi sức bệnh nhân sẽ tử vong –
chúng tôi ngừng hồi sức khi huyết áp tâm thu
xung quanh 55mmHg và hình 1 đã minh chứng
tất cả BN đều tử vong trong vòng 60 phút.
Đối với BN tiên lượng tử vong hoặc sẽ dẫn
tới chết não (Maastricht III), chúng tôi sử dụng
tiêu chuẩn huyết áp và thang điểm Wisconsin
làm cơ sở để quyết định thời điểm ngừng hồi
sức. Kết quả được trình bày ở hình 2,3 và 4.
Phân tích Kaplan-Meier về khả năng sống
còn của BN Maastricht III liên quan với điểm
Wisconsin trước khi ngừng hồi sức cho thấy:
- Tất cả BN đều tử vong vòng 25 phút sau khi
ngừng hồi sức.
- Khoảng thời gian sống còn liên quan chặt
chẽ với điểm Wincosin với p=0,035
- Điểm Wisconsin càng cao thời gian sống
càng ngắn.
Hình 2: Khả năng sống của BN Maastricht III và điểm Wisconsin trước ngừng hồi sức
Phân tích Kaplan-Meier về khả năng sống
còn của BN Maastricht III liên quan với trị số
huyết áp tâm thu trước khi ngừng hồi sức cho
thấy:
- Tất cả BN đều tử vong vòng 25 phút sau khi
ngừng hồi sức.
- Khoảng thời gian sống còn không liên quan
trị số tiêu chuẩn huyết áp tâm thu với p=0,212.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 217
Hình 3: Khả năng sống của BN Maastricht III và tiêu chuẩn huyết áp tâm thu trước ngừng hồi sức
Hình 4: Biểu đồ hàm sống còn tích lũy kết hợp 2 tiêu chuẩn: thang điểm Wincosin sau khi đã hiệu chỉnh về tiêu
chuẩn huyết áp tâm thu trước khi ngừng hồi sức
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 218
Chúng tôi sử dụng hồi qui Cox - phân tích đa
biến: tiêu chuẩn trị số huyết áp tâm thu và tiêu
chuẩn điểm Wisconsin trước khi ngừng hồi sức –
để tiên lượng khả năng sống còn của BN
Maastricht III, kết quả:
- Tiêu chuẩn huyết áp tâm thu không tiên
lượng được thời gian sống còn trong mô hình
này với p=0,6.
- Tiêu chuẩn điểm Wisconsin có giá trị tiên
lượng được thời gian sống còn trong mô hình
này với p=0,047.
Biểu đồ hàm sống còn tích lũy kết hợp 2
tiêu chuẩn: Điểm Wincosin sau khi đã hiệu
chỉnh về tiêu chuẩn huyết áp tâm thu trình
bày ở hình 4.
BÀN LUẬN
Chấn thương sọ não và đột quị não là
nguyên nhân tử vong chính trong nghiên cứu
của chúng tôi (bảng 1). Kết quả này tương tự
như các nghiên cứu đây(1, 5,9,11, 12) - tổn thương não
nặng là nguyên nhân chính gây tử vong của các
ứng viên chết tim có kiểm soát. Tiền căn các
bệnh lý nội, ngoại khoa trong các đối tượng
nghiên cứu ít được ghi nhận – cao nhất là tăng
huyết áp với tỉ lệ 11,4%, có thể do phần lớn BN
nghiên cứu này là chấn thương sọ não nặng và
trẻ tuổi (35,9 ± 12,8), điều này khá thuận lợi cho
thận hiến.
BN trong nghiên cứu của chúng tôi được
đánh giá là chết não hoặc có khả năng sẽ chết
não, mặc dù đã được hồi sức tích cực về hô hấp,
tuần hoàn (phần lớn liều thuốc vận mạch
Dopamin, Noradrenalin ≥ 15mcg/kg/p), tình
trạng; tình trạng tuần hoàn có khuynh hướng
xấu đi trước khi đi đến quyết định ngừng hồi
sức. Tuy các nghiên cứu trước đây về quyết định
ngừng hồi sức ở BN chết tim có kiểm soát để lấy
thận hiến không đề cập đến tình trạng huyết áp,
chúng tôi thống nhất ý kiến từ các chuyên gia và
chọn huyết áp tâm thu là một tiêu chuẩn cần
phải có để quyết định thời điểm ngừng hồi sức –
trị số huyết áp tâm thu khoảng 55 mmHg.
Quyết định ngưng hồi sức trong nghiên cứu
của chúng tôi được đưa ra dựa vào hai tiêu
chuẩn: huyết áp tâm thu(10) và điểm Wincosin(1)
(gồm các biến số về tuổi, chỉ số khối cơ thể, tình
trạng đường thở, thuốc vận mạch hoặc tăng co
bóp cơ tim và tình trạng hô hấp theo dõi sau 10
phút ngưng hỗ trợ máy thở và độ bão hòa oxy để
dự đoán khả năng tiếp tục thở sau ngưng các hỗ
trợ duy trì sự sống và tiên lượng thời gian tử
vong dưới 90 phút sau ngừng hồi sức(7). Quá
trình ngừng hồi sức thực hiện tại khoa Hồi sức
tích cực Bệnh viện Chợ Rẫy.
Hình 1 cho thấy tất cả BN trong nghiên
cứu đều được chẩn đoán chết tim trong vòng
60 phút từ lúc ngưng hồi sức– thỏa điều kiện
nhận thận hiến ở ở BN chết tim có kiểm soát
về mặt thời gian.
Tiên lượng về thời gian sống còn sau khi
ngừng hồi sức của điểm Wincosin và trị số huyết
áp tâm thu trước khi ngừng hồi sức được minh
họa ở hình 2 và 3. Tiên lượng này chỉ dành cho
nhóm BN thuộc Maastricht III - Điểm Wincosin
có giá trị tiên lượng thời gian sống còn trong
vòng 60 phút sau khi ngừng hồi sức (p=0,035)
trong khi đó trị số huyết áp tâm thu không thỏa
ý nghĩa thống kê (p=0,212): Điểm Wisconsin
càng cao thời gian sống càng ngắn. Kết quả này
tương đồng với nghiên cứu của Lewis J: Điểm
Wincosin có khả năng dự đoán chính xác đến
90% BN có khả năng tử vong trong vòng 02 giờ(7)
Biểu đồ hàm sống còn tích lũy kết hợp 2 tiêu
chuẩn: thang điểm Wincosin sau khi đã hiệu
chỉnh về tiêu chuẩn huyết áp tâm thu trước khi
ngừng hồi sức có được từ phương trình hồi qui
Cox - hình 4 - Tiêu chuẩn điểm Wisconsin có giá
trị tiên lượng được thời gian sống còn trong mô
hình này với p=0,047 mạnh hơn tiêu chuẩn huyết
áp tâm thu trước khi ngừng hồi sức. Điều này
một lần nữa khẳng định một khi BN đã có ý kiến
hội chẩn: tiếp tục hồi sức kéo dài là không hiệu
quả, không có lợi cho BN, thang điểm Wincosin
là tiêu chuẩn giúp chọn lựa thời điểm ngừng hồi
sức trong chết tim có kiểm soát.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 219
Tương tự như nghiên cứu của UW(15), mẫu
nghiên cứu của chúng tôi chỉ thực hiện trên một
nhóm nhỏ BN (35 so với 43) và đa số BN có tổn
thương não không hồi phục có nhiều khả năng
điễn tiến đến chết não. 100% BN trong nghiên
cứu chúng tôi có điểm Wincosin ≥19 (BN ít có
khả năng tự thở sau khi ngừng hổ trợ hô hấp –
theo thang điểm Wincosin) – trung bình là 20,07
và kết cục đều tử vong sớm sau khi ngừng hồi
sức (≤ 25 phút). Kết quả này khác với báo cáo từ
nghiên cứu của Cooper và cộng sự(4) – có đến
10% các ứng viên tiềm năng hiến tạng được trả
lại khu vực hồi sức do không chết trong khoảng
thời gian đánh giá chết tim có kiểm soát.
Nghiên cứu của chúng tôi bao gồm cả BN có
tổn thương não không hồi phục và một số loại
bệnh nặng khác. Rất khó để dự đoán thời gian
chết sau ngừng hồi sức nhưng lại rất cần thiết
phát triển các công cụ tiên lượng cho ứng viên
tiềm năng hiến thận từ nguồn người chết tim
ngừng đập để tránh mất thận hiến. Ngoài ra,
công cụ đánh giá này phải tránh gây bức xúc cho
gia đình, khó khăn cho đội ghép thận và tốn kém
nhiều cho bệnh viện. Như vậy, các công cụ để
nhận diện ứng viên thích hợp để hiến thận là
vấn đề cần được nghiên cứu.
Mục đích của nghiên cứu tiêu chuẩn chết tim
và hiến thận là để xây dựng mô hình nhằm phân
biệt ai là người sẽ chết trong vòng 60 phút và ai
có thể sẽ không chết trong khoảng thời gian này
trong số ứng viên chết tim ngừng đập. Tất cả BN
nghiên cứu của chúng tôi chết trong 25 phút, do
đó độ mạnh để phân biệt của mô hình nghiên
cứu này tương đối yếu vì không có BN nào chết
sau 60 phút (khoảng thời gian thiết kế cho phép
lấy thận đối với ngừơi chết tim ngừng đập) để so
sánh. Mặc dù mô hình trong nghiên cứu chúng
tôi (sử dụng điểm Wincosin và huyết áp tâm thu
trước ngừng hồi sức) chính xác 100% (hình 1),
chúng tôi cảm thấy rằng tính chính xác để xác
định chết trong vòng 60 phút là hợp lý cho mô
hình sơ bộ. Tuy nhiên, đây cũng là một hạn chế
khác của nghiên cứu chúng tôi vì nghiên cứu chỉ
tại một trung tâm và tập trung tại khu vực hồi
sức Bệnh viện Chợ Rẫy – mang tính hàn lâm,
không chịu ảnh hưởng bởi áp lực hiến thận, do
đó các BN trong nghiên cứu này đều chết sớm
khi ngừng hồi sức (điểm Winsosin cao và huyết
áp tâm thu thấp khi ngừng hồi sức) và điều này
có thể đưa đến thận hiến có thời gian thiếu máu
dài hơn và có thể ảnh hưởng đến chất lượng
thận hiến. Đánh giá thêm về mô hình này cần
thêm các nghiên cứu tiền cứu khác.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu này giúp chúng tôi xây dựng qui
trình thực hành tại Bệnh viện Chợ Rẫy về chết
tim và hiến thận trong đó công cụ giúp xác định
thời điểm ngừng hồi sức cho các ứng viên hiến
thận tiềm năng từ người cho chết tim: phân
nhóm Maastrict III sử dụng tiêu chuẩn Wincosin,
phân nhóm Maastricht sử dụng tiêu chuẩn huyết
áp tâm thu. Tuy nhiên, mô hình này cần được
đánh giá thêm trên các ứng viên hiến thận chết
tim từ các bệnh lý khác ngoài não, cũng như ở
các trung tâm khác. Nếu tính chắc chắn của công
cụ này được khẳng định, mô hình công cụ này sẽ
ích cho chương trình ghép tạng từ người hiến
chết tim ngừng đập.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ali AA, Freed D, Large S (2013). The Donation after
Circulatory Death Donor can be a Source of Organs for
Cardiac Transplantation. J Clin Exp Cardiolog, S9:007.
2. Bernat JL, D’Alessandro AM, Port FK, et al (2006). Report of
a national conference on donation after cardiac death. Am J
Transplant, 6(2):281-291.
3. Centers for Medicare & Medicaid Services (2006).
Department of Health and Human Services. Medicare and
Medicaid Programs: Conditions for Coverage for Organ
Procurement Organizations (OPOs); Final Rule. Fed Reg,
71:30981-31054.
4. Cooper JT, Chin LT, Krieger NR, et al (1993). Donation after
cardiac death: the University of Wincosin experience with
renal transplantation. Am J Transplant, 4(9):1409-4.
5. DeVita MA, Snyder JV, Grenvik A (1993). History of organ
donation by patients with cardiac death. Kenn Inst Ethics J,
3(2):113–129.
6. Joint Commission on Accreditation of Healthcare
Organizations (2006). Revisions to Standard LD.3.110. Jt
Comm Perspect, 26(6):7.
7. Lewis J, Peltier J, Nelson H, et al (2003). Development of the
University of Wincosin donation after cardiac death
evaluation tool. Prog Transplant, 13(4):265-73.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 220
8. Marks WH, Wagner D, Pearson TC, et al (2006). Organ
dona- tion and utilization, 1995-2004: entering the collabora-
tive era. Am J Transplant, 6(5 Pt 2):1101-10.
9. Miller FG, Truog RD, Brock DW (2010). The dead donor
rule: can it withstand critical scrutiny? J Med Philosophy,
35(3):299–312.
10. Quốc Hội Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
(2006). Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và
hiến, lấy. Luật số 75/2006/QH11, khóa XI, kỳ họp thứ 10, số
ngày 29 tháng 11 năm 2006.
11. Sampson BG, et al (2013). Is donation after cardiac death
reducing the brain-dead donor pool in Australia?. Critical
Care and Resuscitation, 15(1):21-27.
12. Summers DM, Johnson RJ, Allen J, Fuggle SV, Collett D,
Watson CJ, Bradley JA (2010). Analysis of factors that affect
outcome after transplantation of kidneys donated after
cardiac death in the UK: a cohort study. Lancet,
376(9749):1303–11.
13. U.S. Department of Health and Human Services Advisory
Committee on Organ Transplantation (2007). Consensus
Recommendations to the HHS Secretary.
14. United Network for Organ Sharing (2007). Bylaws
Appendix B Attachment III—NHBDS Recovery Protocol
Model Elements.
laws/bylaws.asp?resources=true.
15. United Network for Organ Sharing Organ Donation and
Transplantation (2007). U.S. Transplantation Data.
16. Xue JL, Ma JZ, Louis TA, Collins AJ (2001). Forecast of the
number of patients with end-stage renal disease in the
United States to the year 2010. J Am Soc Nephrol, 12(12):2753-
2758.
Ngày nhận bài báo: 15/02/2017
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 27/02/2017
Ngày bài báo được đăng: 05/04/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_ve_tieu_chuan_xac_dinh_chet_tim_va_hien_than.pdf