Tài liệu Nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa – một số xu hướng chính ở Việt Nam - Phùng Phương Nga: Phùng Phương Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 153 - 158
153
NGHIÊN CỨU VĂN HỌC TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA –
MỘT SỐ XU HƯỚNG CHÍNH Ở VIỆT NAM
Phùng Phương Nga*
Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Ở Việt Nam, có hai xu hướng nghiên cứu chính: xu hướng tự nghiệm và xu hướng giới thiệu lý
thuyết từ phương Tây. Hai xu hướng này bao gồm bốn hình thức nghiên cứu: nghiên cứu tác phẩm
văn học từ các yếu tố văn hóa, nghiên cứu văn học trên cơ sở chỉ ra các chủ đề văn hóa, tư tưởng
văn hóa, các giá trị văn hóa trong văn học; dùng giá trị văn hóa để cắt nghĩa văn học, nghiên cứu
văn học từ hoàn cảnh xã hội, tiền đề văn hóa, nghiên cứu theo ngữ học văn hóa, thi pháp học văn
hóa, ký hiệu văn hóa
Từ khóa: nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa, phương pháp, Việt Nam
Bất kì ngành khoa học nào cũng có lí thuyết
và hệ thống phương pháp nghiên cứu phù
hợp. Tuy nhiên, cần lựa chọn phương pháp
đúng thời điểm, đúng đối tượng bởi đó là chìa
khóa quan trọng...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 407 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa – một số xu hướng chính ở Việt Nam - Phùng Phương Nga, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phùng Phương Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 153 - 158
153
NGHIÊN CỨU VĂN HỌC TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA –
MỘT SỐ XU HƯỚNG CHÍNH Ở VIỆT NAM
Phùng Phương Nga*
Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Ở Việt Nam, có hai xu hướng nghiên cứu chính: xu hướng tự nghiệm và xu hướng giới thiệu lý
thuyết từ phương Tây. Hai xu hướng này bao gồm bốn hình thức nghiên cứu: nghiên cứu tác phẩm
văn học từ các yếu tố văn hóa, nghiên cứu văn học trên cơ sở chỉ ra các chủ đề văn hóa, tư tưởng
văn hóa, các giá trị văn hóa trong văn học; dùng giá trị văn hóa để cắt nghĩa văn học, nghiên cứu
văn học từ hoàn cảnh xã hội, tiền đề văn hóa, nghiên cứu theo ngữ học văn hóa, thi pháp học văn
hóa, ký hiệu văn hóa
Từ khóa: nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa, phương pháp, Việt Nam
Bất kì ngành khoa học nào cũng có lí thuyết
và hệ thống phương pháp nghiên cứu phù
hợp. Tuy nhiên, cần lựa chọn phương pháp
đúng thời điểm, đúng đối tượng bởi đó là chìa
khóa quan trọng mở ra nhiều thành công và
những chân trời tri thức mới. Thực tế nghiên
cứu cho thấy, không có phương pháp nghiên
cứu nào không bị thay thế bằng một phương
pháp mới hơn. Trong mấy chục năm qua, sự
thay đổi về quan niệm giá trị, thay đổi về đề tài,
chủ đề, kỹ thuật viết...của văn học đã làm cho
các nhà lý luận phê bình thấy cần thiết phải có
những phương pháp giải mã văn bản một cách
phù hợp. Nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn
hóa được đánh giá là một phương pháp/một
cách tiếp cận đem lại nhiều kết quả mới.*
Với truyền thống từ hàng nghìn năm trước,
Việt Nam là đất nước có nền văn học dân tộc
đáng tự hào, nhất là thơ ca. Tuy nhiên, ở góc
độ lý luận văn học, phương pháp nghiên cứu
văn học lại có sự phát triển không đồng bộ
với thực tế sáng tác. Sự tồn tại của các cấp độ
trong phương pháp nghiên cứu văn học dường
như chỉ mang ý nghĩa về mặt lý thuyết. Chính
vì vậy, đặt ra vấn đề nghiên cứu lý thuyết, tìm
hiểu lịch sử của một lý thuyết hay một phương
pháp (tức là tìm hiểu về sự xuất hiện, vận dụng
và sáng tạo) là vấn đề vô cùng khó khăn.
Nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa ở Việt
Nam cũng ở trong tình trạng như vậy.
Qua khảo sát, phân tích chúng tôi nhận thấy,
nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa ở
Việt Nam không phải là vấn đề của đương
đại, mà thực tế đã được nhiều nhà nghiên cứu
*
Tel: 0915 141514; Email: phungphuongnga@gmail.com
văn học triển khai, vận dụng, trong đó có hai
xu hướng chính: nghiên cứu tự nghiệm và
giới thiệu, nghiên cứu trên nền tảng lý thuyết
phương Tây.
Nghiên cứu tự nghiệm là nghiên cứu gắn với
các hiện tượng văn học cụ thể, từ cái cụ thể
mà nâng thành khái quát. Đây là hình thức
nghiên cứu phổ biến của các nhà nghiên cứu:
Trần Thanh Mại (Trên dòng sông Vị, Hàn
Mạc Tử), Lê Thanh (Thi sĩ Tản Đà, Tú Mỡ,
Trương Vĩnh Ký, Cuộc phỏng vấn các nhà
văn), Trương Tửu (Nguyễn Du và Truyện
Kiều), Đào Duy Anh (Khảo luận Kim Vân
Kiều Truyện), Trần Trọng Kim (Đạo Phật
trong truyện Kiều), Nhất Hạnh (Thả mộ bè
lau), Trần Đình Hượu (Nho giáo và văn học
Việt Nam trung cận đại), Nguyễn Văn Huyên
(Hát đối của thanh niên nam nữ Việt Nam),
Trần Ngọc Vương (Nhà nho tài tử và văn học
Việt Nam, Mẫu hình hoàng đế và con đường
tìm kiếm sự thể hiện bản ngã trong triết học
và văn học khu vực Đông Á), Trần Nho Thìn
(Văn học Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn
văn hóa), Lê Nguyên Cẩn (Truyện Kiều dưới
góc nhìn văn hóa), Nguyễn Huệ Chi (Văn học
Cổ cận đại Việt Nam từ góc nhìn văn hóa đến
các mã nghệ thuật), Đỗ Lai Thúy (Hồ Xuân
Hương, hoài niệm phồn thực).....
Nghiên cứu trên nền tảng lý thuyết là việc các
nhà nghiên cứu chủ động trong việc xác lập
cơ sở lý thuyết, lấy tiền đề từ lý thuyết nghiên
cứu của phương Tây. So với xu hướng thứ
nhất thì xu hướng thứ hai phát triển muộn
hơn, ít công trình nghiên cứu hơn, nhưng lại
là xu hướng có cường độ và tốc độ thu hút các
nhà nghiên cứu ngày càng rõ rệt. Tiêu biểu là
Phùng Phương Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 153 - 158
154
các bài viết và công trình: Giải mã vă hóa
trong tác phẩm văn học (Trần Lê Bảo), Quan
hệ giữa văn chương và văn hóa Việt Nam
(Phan Ngọc), Vị thế của văn học trên sân chơi
văn hóa trong tiến trình lịch sử (Lã Nguyên),
Trần Đình Sử (Chuyển hướng nghiên cứu văn
hóa trong văn học Trung Quốc; Giá trị văn
hóa của văn học Việt Nam); Đỗ Lai Thúy (Từ
cái nhìn văn hóa, Phê bình văn học - con vật
lưỡng thê ấy, Theo bước chân những người
khổng lồ), Nguyễn Văn Dân (Phương pháp
nghiên cứu văn học), Phương Lựu (Mười
trường phái phê bình văn học phương Tây
hiện đại), Nguyễn Văn Hạnh (Phương pháp
nghiên cứu văn học), Trần Hải Yến chủ biên
(Nghiên cứu văn học Việt Nam, những khả
năng và thách thức)....
Rõ ràng, ở Việt Nam, nhận thức về phương
pháp nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa
ngày càng sáng rõ hơn, ý thức tìm hiểu và xây
dựng nội dung phương pháp cũng ngày càng
được các nhà nghiên cứu dụng tâm xây dựng
và giới thiệu. Dù chưa xây dựng cấu trúc về
phương pháp, tiến tới định danh, xây dựng
mô hình, hình thành các bước và các thao tác
vận dụng, nhưng đây là những công trình có ý
nghĩa to lớn trong viêc xây nền móng, tạo đà
cho một cú hích lớn trong tình hình nghiên
cứu văn học của nước nhà.
Ngoài ra, không thể không thể kể đến những
công trình dịch thuật về nghiên cứu văn học
từ góc nhìn văn hóa được các nhà nghiên cứu
giới thiệu đến công chúng trong những năm
gần đây. Từ công trình đầu tiên: Sáng tác của
F.Rabelais và nền văn hóa dân gian Trung
Cổ và Phục hưng do học giả Phạm Vĩnh Cư
dịch; cho đến gần mười năm sau, hai công
trình: Nghiên cứu văn hóa - lý thuyết và thực
hành (của Chris Barker - do ThS. Đặng Tuyết
Anh dịch), và Ký hiệu học văn hóa (của
IU.M.Lotman do Lã Nguyên, Đỗ Hải Phong,
Trần Đình Sử dịch) đã góp phần rất lớn trong
việc xây dựng và định hình phương pháp
nghiên cứu văn học từ văn hóa.
Nhìn chung, việc nghiên cứu văn học trên cơ
sở của văn hóa, hay dùng các phương pháp
văn hóa để nghiên cứu văn học ở Việt Nam
vẫn mang tính chất như một cuộc "du hành"
về lý thuyết. Nó không thoát khỏi tính chất tự
nghiệm, diễn giải như trong mô hình chung
của các phương pháp nghiên cứu văn học
khác ở Việt Nam. Vì vậy trên cơ sở đúc kết
các xu hướng nghiên cứu như trên, chúng tôi
đưa ra hình dung về bốn hình thức nghiên cứu
văn học từ góc nhìn văn hóa đã từng tồn tại
trong lịch sử nghiên cứu văn học Việt Nam.
1. Thứ nhất, nghiên cứu tác phẩm văn học từ
các yếu tố văn hóa góp phần hình thành nên
tác phẩm văn học. Nói cách khác đó là đặt tác
phẩm trong không gian văn hóa cá nhân để
luận giải, coi văn hóa cá nhân như là một căn
cước thông hành để đi vào thế giới nghệ thuật
của tác phẩm. Chúng tôi gọi đó là phê bình
ngoại quan văn hóa.
Phê bình ngoại quan văn hóa cũng được chia
làm hai giai đoạn. Ở giai đoạn đầu, phê bình
ngoại quan văn hóa được biểu hiện bằng lối
phê bình, nghiên cứu dựa theo tiểu sử học.
Trong văn học Việt Nam, quan niệm: "văn là
người" là một quan niệm truyền thống. Ở thế
kỷ XVII, Nguyễn Đức Đạt đã từng cho rằng:
"Văn thâm hậu thì con người của nó trầm mà
tĩnh, văn ôn nhu thì con người của nó ôn mà
hòa, văn cao khiết thì con người của nó đạm
mà giản, văn hùng hồn thì con người của nó
đạm mà nhanh, văn uyên sâu thì con người
của nó thuần túy mà đúng đắn" [2,tr.19]. Tiêu
biểu cho lối phê bình, nghiên cứu này là các
công trình: Trên dòng sông Vị, Hàn Mạc Tử
(Trần Thanh Mại), Khảo luận về Truyện Kiều
(Đào Duy Anh), nhà nghiên cứu phê bình Lê
Thanh với các tác phẩm Thi sĩ Tản Đà, Tú
Mỡ, Trương Vĩnh Ký, Cuộc phỏng vấn các
nhà văn. Tuy nhiên các nhà phê bình lúc này
vẫn chưa hợp nhất về quan điểm, thống nhất
về cách thức và phương pháp. "Đối với Trần
Thanh Mại, thơ là tiểu sử của nhà thơ, cụ thể
là các tình huống cuộc đời của nhà thơ. Phê
bình là chỉ ra sự phóng chiếu cuộc đời nhà thơ
vào sáng tác thơ ca của nhà thơ ấy" [2,tr.112].
Đối với nhà phê bình Lê Thanh: cần chú trọng
cả việc tìm hiểu cả những mơ tưởng thầm kín,
năng khiếu văn học của nhà văn, mong được
phỏng vấn, đối thoại. Còn với nhà nghiên cứu
Đào Duy Anh: phê bình là khảo xét mọi yếu
tố cá nhân, xã hội liên quan trực tiếp tới nhà
văn và tác phẩm của nhà văn [2,tr.113].
Giai đoạn tiếp theo, phê bình ngoại quan đã
mở rộng hơn. Bên cạnh việc chỉ lấy cơ sở từ
tiểu sử của người sáng tác, các yếu tố về hoàn
cảnh xã hội, hoàn cảnh cá nhân, cá tính nhà
văn đã được xem trọng. Nhà phê bình tiêu
Phùng Phương Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 153 - 158
155
biểu là Trương Tửu với công trình Nguyễn Du
và Truyện Kiều (1942). Trương Tửu gọi đó là
lối phê bình khoa học, bởi theo ông tất cả
những sự phân tích hay kết luận đều phải có
cơ sở chứ không thể chủ quan, cảm tính được.
Để tìm hiểu về tác phẩm, quan trọng nhất phải
hiểu được cá tính của nhà văn. Cá tính nhà
văn cũng không thể "tự nhiên sinh ra, tự nhiên
mất đi", nó là "kiến trúc" của nhiều yếu tố hòa
hợp với nhau rồi kết tinh lại, "trong đó nổi
trội ba yếu tố: sinh lý di truyền (huyết thống),
địa lý tự nhiên (quê quán, khí hậu, thổ ngơi,
vị trí địa dư, lịch sử), và quan trọng nhất là
điều kiện xã hội (bối cảnh xã hội, vị trí đẳng
cấp nhà văn) [2,tr.132]. Dù còn một vài ý kiến
chưa được các nhà nghiên cứu khác đồng
thuận hoàn toàn (như quan điểm vận dụng các
kiến thức về bệnh học thần kinh để biện luận
rằng Nguyễn Du thực chất là bị có chứng
bệnh "bộ giao cảm thần kinh không khỏe
khoắn", "căn tạng cảm xúc quá độ" nên tính
khí luôn trầm muộn, lo sợ hoảng hốt và mang
chứng ảo giác", dẫn đến trong văn chương có
sự "rung động mãnh liệt và thành thực, sự
tưởng tượng dồi dào, sự cảm xúc ủy mị và bi
thương, sự cảm thông với đồng loại đau khổ
và thần linh" [2,tr.136]. Tuy nhiên, Trương
Tửu đã đưa đến một luồng gió mới đối với
nghiên cứu văn học nghệ thuật nói chung và
về Nguyễn Du - Truyện Kiều nói riêng. Lần
đầu tiên trong lịch sử nghiên cứu Nguyễn Du
và Truyện Kiều, người đọc có một cơ sở để
kết luận về yếu tố gia đình, dòng tộc có ý
nghĩa lớn đối với tài năng của đại thi hào
Nguyễn Du: "cá tính Nguyễn Du là sự chung
đúc của huyết thống dòng họ Nguyễn và địa
phương tính Nghệ Tĩnh với huyết thống dòng
họ Trần và địa phương tính Bắc Ninh
[2,tr.134].
2. Thứ hai, nghiên cứu văn học trên cơ sở chỉ
ra các chủ đề văn hóa, tư tưởng văn hóa, các
giá trị văn hóa trong văn học; dùng giá trị văn
hóa để cắt nghĩa văn học. Theo nhà nghiên
cứu Đỗ Lai Thúy, đây cũng là vấn đề nòng
cốt của phương pháp phê bình văn học từ hệ
thống văn hóa, [8,tr.241], nhà nghiên cứu
Nguyễn Văn Dân gọi đó là phương pháp văn
hóa học, [1,tr.268] và nhà nghiên cứu Nguyễn
Văn Hạnh gọi đó là cách tiếp cận văn hóa học
[3,tr.99]. Trong thực tế nghiên cứu, Đỗ Lai
Thúy cũng đã thể hiện quan điểm này khi
nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương. Theo ông,
nguyên do của biểu tượng lấp ửng hai mặt
trong thơ bà chúa thơ Nôm (thanh/tục) là tín
ngưỡng phồn thực [8,tr.242]. Sự xuất hiện của
các hình ảnh khơi gợi đến hoạt động sinh hoạt
tình dục nhưng không có ý nghĩa dâm tục, mà
đằng sau đó nữ sĩ còn mang cả lễ hội vào thơ;
bằng bài thơ và lễ hội, bà gắn kết cái thiêng
với cái tục với nhau như văn hóa cổ xưa. Đỗ
Lai Thuý cũng từ nhãn quan của lễ hội phồn
thực để cắt nghĩa, lý giải nội dung triết lý,
thẩm mỹ, sự độc đáo của tiếng cười trong thơ
Hồ Xuân Hương. Cách tiếp cận này, theo tác
giả, một mặt khắc phục được những hạn chế
của những cách tiếp cận trước, đồng thời
không phủ nhận, loại bỏ các phương pháp đã
có mà chỉ biến chúng thành trường hợp cụ
thể, đúng trong việc giải quyết từng bình diện
cụ thể của thơ Hồ Xuân Hương.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân cũng giải
thích căn nguyên sâu xa của mảng thơ dâm
tục Hồ Xuân Hương, hình ảnh cái đẹp nhục
thể của người con gái lõa thể trong thơ Bích
Khê, Hàn Mặc Tử, thơ sắc dục trong thơ
Xuân Diệu bằng góc nhìn văn hóa thẩm mỹ.
Ông cho rằng cái đẹp nhục dục cũng như mọi
cái đẹp khác của tạo hóa, đều đáng được tôn
thờ, đó là: "là loại hình văn hóa đã tồn tại từ
rất sớm và cho đến nay không hề có ý muốn
chấm dứt sự tồn tại vững bền của nó"
[1,tr.278].
Như vậy, thực chất cả hai nhà nghiên cứu Đỗ
Lai Thúy và Nguyễn Văn Dân đều sử dụng
các giá trị văn hóa để cắt nghĩa văn học. Đây
là những góc nhìn mới, thể hiện quan điểm
nghiên cứu hiện đại, gắn kết giữa tác phẩm và
cái nôi văn hóa ra đời của tác phẩm. "Nếu văn
học có chức năng phản ánh hiện thực thì cũng
không thể phản ánh trực tiếp được, mà chỉ có
thể phản ánh thông qua lăng kính văn hóa,
thông qua bộ lọc của các giá trị văn hóa. Nhờ
thế mà văn học tránh được sự phản ánh soi
gương, phản ánh một cách trần trụi. Và có lẽ,
cũng nhờ thế mà văn học có một lối phản ánh
đặc trưng, một phản ánh, như người ta thường
nói, có nghệ thuật, có nghiền ngẫm"
[8,tr.246].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hạnh đặc biệt
đề cao vấn đề chủ đề văn hóa, đề tài văn hóa,
tầm nhìn văn hóa, cách nhìn văn hóa trong
sáng tác văn học. Theo ông, "cách tiếp cận
Phùng Phương Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 153 - 158
156
văn hóa học đối với văn chương lúc này cũng
có thể góp phần khắc phục khuynh hướng biệt
lập hóa, cô lập hóa văn chương đã kéo dài quá
lâu, làm cho văn chương xa rời những vấn đề
trọng đại, sống còn, bức xúc của đời sống,
của xã hội, của lịch sử, của con người, do đó
cũng mất đi sức mạnh cảm hóa, thanh lọc lớn
lao của nó; khắc phục khuynh hướng đề cao
một chiều, tuyệt đối hóa mặt hình thức, kỹ
thuật của văn chương, đôi lúc biến văn
chương thành một trò chơi chữ cầu kỳ, trống
rỗng. Quan tâm đến những vấn đề của cuộc
sống, của xã hội và con người, của lịch sử,
của dân tộc và đất nước, dưới góc độ văn hóa,
người viết có thể làm nổi rõ lên những chủ đề,
những nhân vật, sắc màu, giọng điệu, cách
diễn đạt tiêu biểu, đặc sắc của một cộng đồng,
một vùng đất, một thời kỳ, nhờ đây mà tạo ra
một tiếng nói mới, có đóng góp mới thật sự
cho sự phát triển của văn chương dân tộc và
nhân loại" [3,tr.105]. Theo ông, không phải
đến văn học hiện đại, các tác giả như Nguyễn
Tuân, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng,
Nguyễn Đình Thi, Nguyên Ngọc, Nguyễn
Khải mới viết về vấn đề tâm hồn tính cách
Việt Nam; Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy
Thiệp, Phạm Thị Hoài mới đặt ra vấn đề tầm
nhìn văn hóa đối với sự kiện lịch sử, xã hội,
cách nhìn dân tộc. Không phải đến văn học
hậu hiện đại, các tác giả như Tạ Duy Anh mới
soi sáng các sự việc, tính cách từ góc nhìn văn
hóa; các tác giả như Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ
Hoàng Diệu nhìn thấy trong quan hệ tình dục
ý nghĩa nhân bản và văn hóa; mà từ văn học
trung đại khi Nguyễn Trãi viết: "Việc nhân
nghĩa cốt ở yên dân. Quân điếu phạt trước lo
trừ bạo; Nguyễn Du viết Truyện Kiều "trình
bày đan xen, kết hợp tư tưởng văn hóa bản địa
với các đạo Nho, Phật, Lão, qua thiên tài sử
dụng ngôn ngữ thi ca và thể thơ lục bát dân
tộc, qua cách các nhân vật xử lý mối quan hệ
việc nhà và việc nước, tình yêu và bổn phận"
[3,tr.106].
Lịch sử nghiên cứu Truyện Kiều (tác phẩm
được coi như cuốn trước bạ để hình dung vai
trò của tác phẩm đối với việc xác định tư
cách văn hóa của người Việt - dẫn theo cách
dùng của Trần Nho Thìn), chúng ta cũng đã
thấy các nhà nghiên cứu như Trần Trọng
Kim, Nhất Hạnh đã đặc biệt đề cao tư tưởng
Phật học trong tác phẩm. Thậm chí Phật học
trở thành kim chỉ nam để các nhà nghiên cứu
luận giải vai trò, giá trị, sức hấp dẫn của
Truyện Kiều và tài năng của Nguyễn Du.
Như vậy, từ lâu trong nghiên cứu văn học đã
đặt ra các vấn đề văn hóa, giải quyết các vấn
đề văn hóa, dùng giọng điệu, cách diễn đạt
đặc trưng của văn hóa Việt.
3. Thứ ba, nghiên cứu văn học từ hoàn cảnh
xã hội, tiền đề văn hóa. Tiêu biểu là Trần
Đình Hượu, Trần Ngọc Vương, Trần Nho
Thìn. Nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu giải
thích thành tựu của văn học trung đại từ bức
tranh văn hóa lịch sử; nhà nghiên cứu Trần
Ngọc Vương đã nghiên cứu về mẫu nhà nho
tài tử trong văn học trung đại; nhà nghiên cứu
Trần Nho Thìn cho rằng sự kiện văn hóa quá
khứ có ý nghĩa lớn trong việc giải mã văn học
trung đại vì khi đó "khả năng suy diễn, khả
năng hiện đại hóa có thể được giảm thiểu và
chúng ta càng có nhiều cơ may đến gần sự
thật lịch sử văn học" [7,tr.5].
Sau này, nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy không
gọi hoàn cảnh kinh tế, xã hội chung chung
nữa, ông đề nghị: thay vì gọi là ba trình độ
văn minh thì gọi là ba thời đại văn hóa, hoặc
ba hệ thống văn hóa cho phù hợp với khung
nghiên cứu văn hóa của phê bình văn học.
"Đó là văn hóa nông nghiệp (còn có thể gọi
đó là văn hóa nông thôn, văn hóa tiền công
nghiệp hoặc tiền hiện đại), văn hóa công
nghiệp (hoặc văn hóa đô thị, văn hóa hiện đại)
và văn hóa hậu công nghiệp (hoặc văn hóa tin
học, văn hóa hậu hiện đại) [161,tr.249]. Ông
chủ trương đây là cơ sở cho phương pháp phê
bình văn hóa, "phê bình văn học dù một tác
phẩm, một tác giả, hay một trào lưu đều phải
tìm hiểu trước tiên hệ thống văn hóa mà tác
phẩm, tác giả hay trào lưu đó thuộc vào
[8,tr.250].
4. Thứ tư, nghiên cứu theo ngữ học văn hóa,
thi pháp học văn hóa, ký hiệu văn hóa. Pierre
Bourdieu đã từng nói: “Nơi nào đột phá giới
hạn của bộ môn thì nơi đó sẽ có sự tiến triển
của khoa học” [6]. Với nghiên cứu văn học
thì điều đó càng hoàn toàn đúng. Sự phát triển
của văn học không đơn thuần là sự mở rộng
ra hay đào sâu thêm về chủ đề, mà nó còn
phải gắn với sự mới lạ trong phương thức
chuyển tải. Bước sang thế kỷ XXI, văn học
ngày càng đa dạng hóa. Văn học bước qua,
thậm chí vượt thoát những tiêu chí thẩm mỹ
Phùng Phương Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 153 - 158
157
truyền thống, cấu trúc truyền thống, biểu đạt
truyền thống. Vì vậy, vận dụng những
phương thức, phương pháp và cách nhìn cũ sẽ
không thể xâm nhập và đẩy hết được các
chiều kích của sự sáng tạo mới. Văn học đã
không chỉ phản ánh văn hóa, mà còn sáng tạo
văn hóa (Trần Đình Sử). Nghiên cứu văn học
từ góc nhìn văn hóa, ngoài việc đặt văn học
trong mối quan hệ mật thiết với văn hóa tác
giả, văn hóa thời đại, giá trị văn hóa thì các
nhà nghiên cứu cũng đã nỗ lực định danh các
hình thức nghệ thuật biểu đạt mới của văn học
bằng các thuật ngữ mới. Tiêu biểu là nhà
nghiên cứu Trần Đình Sử với vấn đề thi pháp
văn hóa, nhà nghiên cứu Phan Ngọc với vấn
đề ngữ học văn hóa, nhà nghiên cứu La Khắc
Hòa, Đỗ Hải Phong, Trần Đình Sử, Trịnh Bá
Đĩnh - với vấn đề ký hiệu học văn hóa, nhà
nghiên cứu Lê Nguyên Cẩn với vấn đề ngôn
ngữ theo hướng văn hóa học (ngữ dụng học).
Nhà nghiên cứu Phan Ngọc trong khi quyết
tâm tìm ra con đường lập thuyết, xây dựng hệ
thống các khái niệm, công cụ để hình thành
một môn học trong nghiên cứu văn hóa Việt
Nam đã đặc biệt thành công khi khẳng định
tính chất ngữ nghĩa của hình thức, tiếp cận
văn hóa Việt Nam bằng những khái niệm
công cụ thao tác luận. Qua trường hợp nghiên
cứu về Nguyễn Trãi, nhà nghiên cứu khẳng
định: Nguyễn Trãi thành công: "không phải ở
chỗ ông tạo ra được những khái niệm mới, mà
chính là ở chỗ ông sử dụng những khái niệm
có sẵn để tạo nên những quan hệ mới, độc
đáo, chỉ có ở Việt Nam, xuất phát từ hệ thống
ứng xử vật chất của người Việt Nam"
[4,tr.176]. Đặc biệt, những khái niệm này
mang hồn cốt Việt, văn hóa Việt. Chữ
"nước", chữ "hiếu", chữ "trung" và "ở ẩn"
trong sáng tác của Nguyễn Trãi chỉ có cái vỏ
"đồng âm" với những từ của Trung Quốc,
nhưng không mang cái lõi của quan niệm Lão
giáo, Nho giáo [4,tr.118,189,190]. Hoặc với
trường hợp Nguyễn Tuân, bằng sự tinh anh và
cách nhìn của tư duy phân tích, nhà nghiên
cứu Phan Ngọc cũng đưa cách nhìn biện
chứng trên cơ sở của phép cấu trúc luận về
văn hóa. Theo đó, sức hấp dẫn của văn
chương Nguyễn Tuân không phải ở chủ đề
hay cốt truyện, mà chính là ở sự "mỹ thuật
hóa kỹ thuật. (...). Văn học với Nguyễn Tuân
là để giáo dục những kiến thức về văn hóa và
cách nhìn kỹ thuật để tự mình tạo ra cái đẹp.
(...) Đọc Nguyễn Tuân lẽ ra phải có từ điển,
loại từ điển văn hóa cổ, hiện nay chưa xuất
bản. Anh biểu hiện cùng một lúc hai biệt tài
trái ngược nhau không ai làm được: biến ngôn
ngữ kỹ thuật thành ngôn ngữ nghệ thuật và vẽ
lên một bức tranh kỳ ảo, mông lung, trong đó
từng chi tiết đều chính xác lại có kết thức
tung bay được" [4,tr.204].
Cách tiếp cận văn học trên bình diện văn hóa,
cụ thể nhấn mạnh tính chất ngữ học của văn
hóa, cấu trúc luận văn hóa đã mở ra một trang
mới cho nghiên cứu văn học. Đáng quý hơn
nữa là những quan điểm này đã được nhà
nghiên cứu nhận chân và làm sáng tỏ từ
những năm 1980 (khi mà nghiên cứu văn học
chủ yếu theo quan điểm xã hội học).
Tiếp sau Phan Ngọc, chúng tôi muốn nhấn
mạnh quan điểm về thi pháp văn hóa của nhà
nghiên cứu Trần Đình Sử. Ông là người mở
đường cho sự xuất hiện, lưu hành, khẳng định
ý nghĩa của thi pháp học ở Việt Nam. Có thể
nói không có Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử,
Việt Nam không có thi pháp học. Đặc biệt sau
này ông còn nhấn mạnh: nghiên cứu văn học
từ văn hóa chính là thi pháp học văn hóa. Ông
cũng cho biết, ở Trung Quốc, một trong
những hướng nghiên cứu mới được mở ra
trong tầm nhìn văn hóa đó là: "định hướng
nghiên cứu thi pháp văn hoá, bao gồm thi
pháp đối thoại và thi pháp cacnavan kiểu
M.Bakhtin; nghiên cứu mẫu gốc huyền thoại
kiểu Northrop Frye, trần thuật lịch sử kiểu
H.White; so sánh văn loại học kiểu E.Miner;
phê bình văn hoá kiểu F.Jameson" [6].
Ở Việt Nam, xu hướng nghiên cứu về ký
hiệu, biểu tượng, cổ mẫu, huyền thoại trở
thành hướng nghiên cứu được rất nhiều nhà
nghiên cứu "gạo cội", nhà phê bình trẻ, các
luận văn, luận án dịch thuật, nghiên cứu.
Trong đó không thể không kể đến Trần Đình
Sử, La Khắc Hòa, Đỗ Hải Phong (Ký hiệu học
văn hóa); Lê Huy Bắc (Văn chương như kí
hiệu đa văn hóa), Nguyễn Tri Nguyên (Giáo
trình Đại học: Ký hiệu học văn hóa); Cao
Kim Lan, (Biểu tượng: từ kí hiệu học đến tu
từ học tiểu thuyết), Nguyễn Thị Thanh Xuân
(Phê bình cổ mẫu và cổ mẫu nước trong văn
chương Việt Nam), Đinh Hồng Hải (Nghiên
cứu biểu tượng - một số hướng tiếp cận lý
thuyết). Các tác giả có những biện giải riêng,
Phùng Phương Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 153 - 158
158
nhưng đều thống nhất: "biểu tượng cũng là
hình tượng, nhưng là hình tượng có khả năng
biểu đạt một ý nghĩa có tính bền vững và phổ
quát. Những ý nghĩa ấy bắt nguồn từ văn hóa,
tôn giáo, lịch sử của các cộng đồng. Cổ mẫu
là những biểu tượng lớn có cội nguồn từ xa
xưa, thoát thai từ vô thức (chứ không phải ý
thức) và vô thức tập thể (chứ không phải là vô
thức cá nhân)" [5,tr.173]. Quan điểm này là
những gợi dẫn rất thú vị cho chúng tôi trong
việc tìm ra các thang công cụ giải mã văn học
từ văn hóa (bởi tính văn bản của văn học đã
ngự trị quá lâu, các thước đo như ngôn ngữ,
hình tượng, thể loại đã được thừa nhận và
đồng hành qua thời gian). Đây cũng là một
trong những luận điểm mấu chốt để chứng
minh tính ưu việt của quá trình dịch chuyển
nghiên cứu văn học từ văn hóa.
Ngoài bốn quan điểm nghiên cứu văn học từ
văn hóa mà chúng tôi đã khái quát ở trên, trong
những năm gần đây, xu hướng vận dụng quan
điểm, lý thuyết, phương pháp của các ngành
khoa học khác để nghiên cứu văn học cũng phổ
biến ở Việt Nam. Đó là nghiên cứu theo nữ
quyền học, sinh thái học, hậu thực dân.
Nhìn chung, trên cơ sở khảo sát các bài viết
và công trình, chúng tôi nhận thấy: các nhà
nghiên cứu đã đưa ra nhiều quan niệm,
phương pháp tiếp cận về nghiên cứu văn học
từ văn hóa. Các phương pháp này có khi phân
biệt rạch ròi, có khi "chồng lấn lên nhau".
Trong điều kiện còn nhiều hạn chế cả về tư
duy, phương thức, hoàn cảnh xã hội, việc kỳ
vọng vào sự nguyên sáng, độc sáng, "chuyên
canh" của một phương pháp nghiên cứu văn
học nói chung và phương pháp nghiên cứu
văn học từ góc nhìn văn hóa nói riêng vẫn chỉ
là một khát vọng lớn. Tuy nhiên, những bài
viết, công trình phê bình nghiên cứu và dịch
thuật ở trên đã cho thấy về sự tồn tại, tính hữu
ích, và sự nỗ lực cố gắng xác lập về nội dung,
mô hình của phương pháp nghiên cứu văn học
từ góc nhìn văn hóa ở Việt Nam.
Lời cảm ơn
Công trình này được thực hiện với sự hỗ trợ
về kinh phí của đề tài nghiên cứu cấp Đại học
Thái Nguyên, mã số ĐH2015-TN06-11 do
trường Đại học Khoa học chủ trì.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Dân, (2012) Phương pháp luận
nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học Xã hội.
2. Trịnh Bá Đĩnh (2013), Lịch sử lý luận phê bình
văn học Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội.
3. Nguyễn Văn Hạnh, (2012), Phương pháp luận
nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục.
4. Phan Ngọc, (2000), Thử xét văn hóa - văn học
bằng ngôn ngữ học, Nxb Thanh niên.
5. Nhiều tác giả, (2009), Văn học Việt Nam -
những khả năng và thách thức, Nxb Thế giới.
6. Trần Đình Sử, Chuyển hướng văn hóa trong
nghiên cứu văn học Trung Quốc,
7. Trần Nho Thìn, (2009), Văn học trung đại
Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo dục
Việt Nam.
8. Đỗ Lai Thúy (2010), Phê bình văn học con vật
lưỡng thê ấy, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
SUMMARY
LITERARY STUDY FROM CULTURAL PERSPECTIVE –
THE TRENDS INCLUDE IN VIET NAM
Phung Phuong Nga
*
University of Sciences - TNU
In Vietnam, there are two major trends of research: the trend of self-reliant study and the trend to
introduce Western theories. These two trends include four types of study: study literary works
from cultural elements, namely the writer’s background, literary study on the basis of pointing out
cultural themes, cultural concepts, cultural values in literature; using cultural values to interpret
literature, study literature from social context, cultural premises, study literature with
ethnolinguistic, cultural poetics, cultural symbols.
Key words: literature studies from cultural perspective, method studies , Vietnam.
Ngày nhận bài: 22/8/2018; Ngày phản biện: 06/9/2018; Ngày duyệt đăng: 12/10/2018
*
Tel: 0915 141514; Email: phungphuongnga@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 460_511_1_pb_3597_2127132.pdf