Nghiên cứu ương ấu trùng tôm càng xanh bằng thức ăn công nghiệp

Tài liệu Nghiên cứu ương ấu trùng tôm càng xanh bằng thức ăn công nghiệp: 121 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 12(97)/2018 NGHIÊN CỨU ƯƠNG ẤU TRÙNG TÔM CÀNG XANH BẰNG THỨC ĂN CÔNG NGHIỆP Nguyễn Thành Khôn1, Lê Minh Thông1, Ung Thái Luật1, Đỗ Thị Tuyết Ngân1, Lâm Thị Cẩm Tú1, Châu Tài Tảo2 TÓM TẮT Nghiên cứu nhằm tìm ra số lần cho ăn thức ăn công nghiệp lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng và hậu ấu trùng tôm càng xanh. Nghiên cứu gồm 5 nghiệm thức với số lần cho ăn khác nhau là (i) 5 lần/ngày; (ii) 6 lần/ngày; (iii) 7 lần/ngày; (iv) 8 lần/ngày và thức ăn chế biến 5 lần/ngày (đối chứng), bể ương có thể tích 120 lít, độ mặn 12‰, mật độ 60 con/lít. Kết quả nghiên cứu cho thấy chiều dài Postlarvae 15 (11,07 ± 0,15 mm), tỷ lệ sống (54,4 ± 7,7%) và năng suất (32.653 ± 4.646 con/lít) ở nghiệm thức cho ăn 6 lần/ngày lớn nhất nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Có thể kết luận rằng ương ấu trùng tôm càng xanh cho ăn 6 lần/ ngày là tốt nhất. Từ khóa: Số lần c...

pdf5 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 262 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu ương ấu trùng tôm càng xanh bằng thức ăn công nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
121 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 12(97)/2018 NGHIÊN CỨU ƯƠNG ẤU TRÙNG TÔM CÀNG XANH BẰNG THỨC ĂN CÔNG NGHIỆP Nguyễn Thành Khôn1, Lê Minh Thông1, Ung Thái Luật1, Đỗ Thị Tuyết Ngân1, Lâm Thị Cẩm Tú1, Châu Tài Tảo2 TÓM TẮT Nghiên cứu nhằm tìm ra số lần cho ăn thức ăn công nghiệp lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng và hậu ấu trùng tôm càng xanh. Nghiên cứu gồm 5 nghiệm thức với số lần cho ăn khác nhau là (i) 5 lần/ngày; (ii) 6 lần/ngày; (iii) 7 lần/ngày; (iv) 8 lần/ngày và thức ăn chế biến 5 lần/ngày (đối chứng), bể ương có thể tích 120 lít, độ mặn 12‰, mật độ 60 con/lít. Kết quả nghiên cứu cho thấy chiều dài Postlarvae 15 (11,07 ± 0,15 mm), tỷ lệ sống (54,4 ± 7,7%) và năng suất (32.653 ± 4.646 con/lít) ở nghiệm thức cho ăn 6 lần/ngày lớn nhất nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Có thể kết luận rằng ương ấu trùng tôm càng xanh cho ăn 6 lần/ ngày là tốt nhất. Từ khóa: Số lần cho ăn, thức ăn công nghiệp, tôm càng xanh 1 Sinh viên Ngành Nuôi trồng thủy sản K41, Khoa Thủy sản - Đại học Cần Thơ 2 Khoa Thủy sản - Đại học Cần Thơ I. ĐẶT VẤN ĐỀ Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) là một trong những đối tượng quan trọng trong nghề nuôi thủy sản trên thế giới. Ở Việt Nam, nghề nuôi tôm càng xanh đang dần trở thành đối tượng nuôi chính tại Đồng bằng sông Cửu Long. Theo kế hoạch đến năm 2020 sẽ phát triển nuôi 32.060 ha, với lượng giống cần là 2 tỷ con. Tuy nhiên trở ngại lớn nhất đối với nghề nuôi tôm hiện nay là thiếu tôm giống và chất lượng giống không đảm bảo. Trong nước đã từng áp dụng nhiều hệ thống ương ấu trùng tôm càng xanh như: Qui trình nước trong hở, qui trình tuần hoàn, qui trình nước xanh, qui trình nước xanh cải tiến và qui trình có bổ sung chế phẩm sinh học (Nguyễn Thanh Phương và ctv., 2003). Tuy nhiên các nghiên cứu về thức ăn cho ấu trùng tôm càng xanh còn hạn chế, đặc biệt là các nghiên cứu trước đây hoàn toàn sử dụng thức ăn tự chế biến cho từng giai đoạn của ấu trùng tôm càng xanh, cách làm này tốn nhiều thời gian và công sức do phải cà thức ăn qua từng giai đoạn của ấu trùng, bên cạnh đó khi cho ăn phải từ từ để đảm bảo ấu trùng tôm càng xanh bắt được mồi nên mỗi lần cho ăn rất lâu dẫn đến qui mô sản xuất không lớn và mật độ ương không cao, nên hiện nay một số trại sản xuất tôm càng xanh qui mô lớn không đủ công lao động phải dựa hoàn toàn vào thức ăn Artemia dẫn đến chi phí sản xuất rất cao. Từ những lý do trên đề tài ảnh hưởng của số lần cho ăn thức ăn công nghiệp lên tăng trưởng và tỉ lệ sống của ấu trùng và hậu ấu trùng tôm càng xanh được thực hiện là rất cần thiết làm cơ sở cho việc xây dựng qui trình sản xuất giống tôm càng xanh bằng thức ăn công nghiệp. II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Vật liệu nghiên cứu - Nguồn nước thí nghiệm: Nguồn nước ngọt (nước máy thành phố) và nước ót độ mặn 80‰ được lấy từ ruộng muối ở huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Nước ót pha với nước ngọt tạo thành nước có độ mặn 12‰, sau đó được xử lý bằng chlorine với nồng độ 50 g/m3, sục khí mạnh cho hết lượng chlorine trong nước và bơm qua ống vi lọc 1µm trước khi sử dụng. - Nguồn tôm mẹ: Tôm mẹ mang trứng màu xám đen được mua ở Cần Thơ, chọn tôm mẹ đánh bắt từ tự nhiên mang trứng tốt, khỏe mạnh, không nhiễm bệnh, kích cỡ từ 50 - 80 g/con, màu sắc tươi sáng và không bị dị hình dị tật. Chọn ấu trùng tôm càng xanh hướng quang mạnh từ nguồn tôm mẹ cho nở ở trên để bố trí thí nghiệm. Hình 1. Tôm càng xanh mẹ mang trứng 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Bố trí thí nghiệm Thí nghiệm được bố trí trong bể nhựa có thể tích 120 lít, độ mặn 12‰, mật độ ấu trùng 60 con/L và 122 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 12(97)/2018 bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 5 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần, thức ăn công nghiệp được sử dụng là Lansy PL: Nghiệm thức 1: Cho ăn 5 lần/ngày (2 lần Artemia + 3 lần thức ăn công nghiệp); Nghiệm thức 2: Cho ăn 6 lần/ngày (2 lần Artemia + 4 lần thức ăn công nghiệp); Nghiệm thức 3: Cho ăn 7 lần/ngày (2 lần Artemia + 5 lần thức ăn công nghiệp), Nghiệm thức 4: Cho ăn 8 lần/ngày (2 lần Artemia + 6 lần thức 0ăn công nghiệp); Nghiệm thức đối chứng: Cho ăn 5 lần/ngày (2 lần Artemia + 3 lần thức ăn chế biến) (đối chứng). 2.2.2. Chăm sóc và cho ăn Ấu trùng sau khi được bố trí sẽ không cho ăn ngày đầu tiên. Từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 5 cho ăn Artemia bung dù mỗi ngày 2 lần 6 giờ sáng và 18 giờ chiều, lượng cho ăn 1 - 2 con/ml. Ngày thứ 6 cho ăn Artemia mới nở, lượng cho ăn từ 2 - 4 con/ml. Khi ấu trùng chuyển sang giai đoạn 4 thì bắt đầu cho ăn thức ăn công nghiệp (Lansy PL hòa vào nước rồi cho ăn) với lượng thức ăn là 1 g/m3/lần và Artemia mới nở với số lần cho ăn theo các nghiệm thức 5 lần/ ngày, 6 lần/ngày, 7 lần/ngày, 8 lần/ngày, chia đều thời gian trong ngày và đêm ra để cho ăn. Nghiệm thức đối chứng cho ấu trùng ăn ngày 3 lần bằng thức ăn chế biến vào lúc 9 giờ sáng, 12 giờ trưa, 15 giờ chiều và 2 lần Artemia 6 h sáng và 18 h chiều. Tùy vào giai đoạn của ấu trùng mà cho ăn thức ăn chế biến với kích cỡ viên thức ăn thích hợp (300µm ở GĐ 4 - 5, 500µm ở GĐ 6 - 8 và 700µm ở GĐ 9-postlarvae 15). Công thức thức ăn chế biến cho ấu trùng tôm càng xanh (Bảng 1). Bảng 1. Công thức thức ăn chế biến cho ấu trùng tôm càng xanh Thành phần Lượng Trứng gà Sữa giàu canxi Dầu mực Lecithin Vitamin C 1 trứng 10g 3% 1,5% 100 - 500mg/kg Nguồn: Nguyễn Thanh Phương và cộng tác viên (2003). 2.2.3. Các chỉ tiêu theo dõi - Các chỉ tiêu môi trường nước được theo dõi gồm nhiệt độ, pH đo 2 lần/ngày (sáng và chiều), TAN và NO2- đo 3 ngày/lần. - Các chỉ tiêu theo dõi tôm gồm: Chỉ số biến thái của ấu trùng (LSI) 3 ngày quan sát 1 lần, mỗi lần quan sát 30 ấu trùng/bể, Đo chiều dài ấu trùng và tôm postlarvae ở các giai đoạn 5, 11 và postlarvae 15, mỗi lần đo 30 con/bể. Đánh giá sự tăng trưởng của ấu trùng ở giai đoạn tôm postlarvae 15 bằng cách đo chiều dài từng con (30 con/bể). Tỷ lệ sống và năng suất ở giai đoạn tôm postlarvae 15. 2.2.4. Phương pháp xử lý số liệu Các số liệu thu thập được sẽ tính toán giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, tỉ lệ phần trăm, so sánh sự khác biệt giữa các nghiệm thức áp dụng phương pháp ANOVA và phép thử DUNCAN ở mức ý nghĩa 0,05 sử dụng phần mềm Excel của Office 2010 và SPSS phiên bản 13.0. 2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu Thí nghiệm được thực hiện từ tháng 6 đến tháng 7 năm 2018, tại trại thực nghiệm nước lợ, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ. III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Các yếu tố môi trường ương ấu trùng tôm càng xanh của thí nghiệm. Nhiệt độ: Bảng 2 cho thấy nhiệt độ trung bình giữa các nghiệm thức rất ổn định, buổi sáng dao động từ 27 - 27,1oC và buổi chiều dao động từ 29,3 - 29,4oC, giữa các nghiệm thức không có sự biến động lớn về nhiệt độ trong suốt thời gian ương. Nhiệt độ có liên quan rất lớn đến sự lột xác và phát triển của ấu trùng tôm càng xanh (Nguyễn Thanh Phương và ctv., 2003). Còn theo New và cộng tác viên (1985) cho rằng nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển của ấu trùng tôm càng xanh là 26 - 310C, trong khoảng nhiệt độ thích hợp nếu nhiệt độ càng cao thì ấu trùng phát triển càng nhanh. Nhiệt độ tối ưu cho sự phát triển của ấu trùng tôm càng xanh dao động từ 28 - 300C (Nguyễn Thanh Phương và ctv., 2003). Như vậy, yếu tố nhiệt độ trong suốt thời gian ương tương đối thuận lợi cho sự phát triển của ấu trùng tôm càng xanh. pH: Trong thời gian thí nghiệm thì giá trị pH giữa các nghiệm thức có sự dao động nhỏ, buổi sáng từ 8,06 - 8,09 và buổi chiều từ 8,09 - 8,14. Nguyễn Thanh Phương và cộng tác viên (2003) cho rằng pH có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống ấu trùng tôm càng xanh và khoảng pH thích hợp là 7,0 - 8,5. Từ kết quả cho thấy pH nằm trong khoảng thích hợp và biến động trong ngày không quá 0,5 đơn vị, là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ấu trùng tôm càng xanh. TAN: Hàm lượng TAN trung bình của các nghiệm thức dao động trong khoảng 0,48 - 0,86 mg/L và giữa các nghiệm thức không khác nhau nhiều. Theo Rao và cộng tác viên (1993) nước ương nuôi ấu trùng tôm càng xanh thì hàm lượng TAN 123 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 12(97)/2018 phải dưới 1,5 mg/l. Vậy hàm lượng TAN trong suốt quá trình thí nghiệm nằm trong khoảng thích hợp cho sinh trưởng và phát triển của ấu trùng và hậu ấu trùng tôm càng xanh. NO2-: Hàm lượng NO2- trung bình của các nghiệm thức dao động từ 2,58 - 3,48 mg/L. Theo Boy (2007) hàm lượng NO2- cho phép trong ương tôm là 1 mg/L. Theo ghi nhận của Margarete Mallasen và cộng tác viên (2006) thì tỷ lệ sống, tăng trưởng và chỉ số biến thái của ấu trùng tôm càng xanh không có sự khác biệt khi được ương ở mức NO2- từ 0 và 2 mg/l. Vậy hàm lượng NO2- của các bể thí nghiệm có cao nhưng chưa thấy ảnh hưởng đến sự phát triển của ấu trùng tôm càng xanh. Bảng 2. Biến động của các yếu tố môi trường trong quá trình ương tôm càng xanh Chỉ tiêu Nghiệm thức cho ăn 5 lần/ngày 6 lần/ngày 7 lần/ngày 8 lần/ngày Đối chứng Nhiệt độ (oC) Sáng 27,0±0,74 27,0±0,73 27,1±0,75 27,1±0,73 27,0±0,77 Chiều 29,4±0,8 29,4±0,9 29,4±0,8 29,4±0,7 29,3±0,7 pH Sáng 8,09±0,23 8,07±0,22 8,06±0,24 8,08±0,24 8,07±0,23 Chiều 8,13±0,20 8,14±0,21 8,13±0,23 8,10±0,24 8,09±0,19 TAN (mg/L) 0,77±0,61 0,67±0,71 0,69±0,48 0,86±0,81 0,48±0,35 NO2-(mg/L) 2,95±2,52 2,58±2,22 2,77±1,97 3,48±2,03 3,38±2,11 3.2. Chỉ số biến thái của ấu trùng tôm càng xanh Chỉ số LSI thể hiện sự biến thái và mức độ đồng đều của ấu trùng tôm càng xanh trong bể ương. Sự phát triển của ấu trùng tôm càng xanh được quan sát thông qua chu kì lột xác và biến thái. Ấu trùng tôm càng xanh trải qua 11 lần lột xác và biến thái để hình thành hậu ấu trùng (Nguyễn Thanh Phương và ctv., 2003). Tuy nhiên thời gian lột xác mỗi giai đoạn tùy thuộc vào điều kiện môi trường, dinh dưỡng, mật độ ương và điều kiện sinh lý của chúng. New và cộng tác viên (1985) cho rằng môi trường ương tôm sẽ ảnh hưởng đến quá trình lột xác của tôm càng xanh. Từ kết quả bảng 3 cho thấy ở lần thu mẫu sau 3 và 6 ngày thì chỉ số biến thái của ấu trùng tôm càng xanh khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) ở các nghiệm thức và có sự phân đàn sau 9 ngày ương. Qua kết quả bảng 3 ta thấy chỉ số biến thái trung bình ở những lần thu mẫu vào ngày thứ 3, 6, 18, 21 của các nghiệm thức khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Chỉ số biến thái ấu trùng vào ngày thứ 12, 15, 18 ở nghiệm thức cho ăn 5 lần/ngày cao hơn các nghiệm thức còn lại. Chỉ số biến thái ấu trùng vào ngày thứ 21, 24 ở nghiệm thức cho ăn 8 lần/ngày và 7 lần/ngày cao hơn các nghiệm thức còn lại. Chỉ số biến thái ấu trùng của nghiệm thức cho ăn 6 lần/ngày và 7 lần/ngày ở lần thu mẫu vào ngày thứ 6, 9, 18, 21 cao hơn các nghiệm thức còn lại. Từ đó cho thấy ở các nghiệm thức sử dụng thức ăn công nghiệp có chỉ số biên thái tốt hơn nghiệm thức đối chứng (cho ăn thức ăn chế biến), và giữa các nghiệm thức cho ăn thức ăn công nghiệp thì nghiệm thức cho ăn 6 lần/ngày và 7 lần/ngày ấu trùng tôm càng xanh có chỉ số biến thái tốt hơn các nghiệm thức còn lại. Bảng 3. Chỉ số biến thái của ấu trùng tôm càng xanh Chỉ tiêu Nghiệm thức cho ăn 5 lần/ngày 6 lần/ngày 7 lần/ngày 8 lần/ngày Đối chứng LSI - ngày 3 2,8±0,13a 2,8±0,05a 2,7±0,25a 2,9±0,18a 2,8±0,15a LSI - ngày 6 4,9±0,12a 5,2±0,36a 5,3±0,52a 4,9±0,24a 4,8±0,24a LSI - ngày 9 6,1±0,01a 6,4±0,17c 6,3±0,20bc 6,1±0,01ab 6,0±0,06a LSI - ngày 12 7,5±0,29b 7,3±0,15ab 7,2±0,31ab 7,3±0,45ab 6,8±0,25a LSI - ngày 15 8,5±0,23b 8,0±0,15a 7,9±0,06a 7,9±0,25a 7,6±0,45a LSI - ngày 18 8,8±0,06a 8,8±0,05a 8,8±0,08a 8,6±0,01a 8,5±0,40a LSI - ngày 21 9,0±0,17a 9,1±0,15a 9,1±0,15a 9,3±0,06a 8,9±0,40a LSI - ngày 24 9,4±0,23ab 9,3±0,12a 9,7±0,06bc 9,8±0,06c 9,4±0,38ab LSI - ngày 27 10,6±0,10ab 10,8±0,12b 10,7±0,46ab 10,6±0,10ab 10,3±0,12a Ghi chú: Các giá trị trên cùng 1 dòng có chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). 124 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 12(97)/2018 3.3. Tăng trưởng của ấu trùng và hậu ấu trùng Theo Uno và cộng tác viên (1969) chiều dài của ấu trùng giai đoạn 5 và 11 lần lượt là 2,80 và 7,73 mm. Theo Nguyễn Thanh Phương và cộng tác viên (2006) thì chiều dài của tôm postlarvae15 dao động trong khoảng 7,88 - 8,90 mm. Kết quả tăng trưởng về chiều dài của các giai đoạn ấu trùng tôm càng xanh của 5 nghiệm thức được thể hiện qua bảng 4. Giai đoạn 5 chiều dài ấu trùng tôm càng xanh ở nghiệm thức cho ăn 6 lần/ngày (2,98 mm) khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) so với các nghiệm thức còn lại, nghiệm thức cho ăn 8 lần/ngày (3,06 mm) và nghiệm thức đối chứng (3,07 mm) khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) với nghiệm thức cho ăn 5 lần/ngày (2,96 mm) và nghiệm thức cho ăn 7 lần/ngày (2,94 mm). Ở giai đoạn 11 chiều dài ấu trùng tôm càng xanh ở nghiệm thức cho ăn 7 lần/ngày (8,21 mm) khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) so với các nghiệm thức còn lại; nghiệm thức đối chứng (8,06 mm) thấp nhất khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với nghiệm thức cho ăn 6 lần/ngày (8,44 mm) và nghiệm thức cho ăn 8 lần/ngày (8,54 mm), khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) với nghiệm thức cho ăn 5 lần/ngày; nghiệm thức cho ăn 8 lần/ngày (8,54 mm) cao nhất khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với nghiệm thức cho ăn 5 lần/ngày (8,17 mm) và khác biệt không có ý nghĩa thống kê với nghiệm thức cho ăn 6 lần/ngày (8,44 mm). Vậy ở cả giai đoạn 5 và giai đoạn 11 nghiệm thức cho ăn 6 lần/ngày có chiều dài khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Giai đoạn PL-15 chiều dài ấu trùng ở nghiệm thức cho ăn 8 lần/ngày (10,67 mm) khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) so với các nghiệm thức còn lại, nghiệm thức đối chứng (10,1 mm) thấp nhất, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) với nghiệm thức cho ăn 7 lần/ngày (10,83 mm) và 6 lần/ngày (11,07 mm), khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) với nghiệm thức cho ăn 5 lần/ngày (10,27 mm); nghiệm thức cho ăn 6 lần/ngày (11,07 mm) cao nhất, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với nghiệm thức cho ăn 5 lần/ngày, khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) với nghiệm thức cho ăn 7 lần/ngày. Bảng 4. Chiều dài (mm) của ấu trùng tôm càng xanh ở các nghiệm thức Chỉ tiêu Nghiệm thức cho ăn 5 lần/ngày 6 lần/ngày 7 lần/ngày 8 lần/ngày Đối chứng Giai đoạn 5 2,96±0,02a 2,98±0,07ab 2,94±0,06a 3,06±0,05b 3,07±0,04b Giai đoạn 11 8,17±0,28ab 8,21±0,09abc 8,44±0,15bc 8,54±0,10c 8,06±0,25a Postlarvae 15 10,27±0,61ab 11,07±0,15c 10,83±0,21bc 10,67±0,29abc 10,10±0,20a Ghi chú: Các giá trị trên cùng 1 dòng có chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). 3.4. Tỷ lệ sống và năng suất của PL-15 Tỷ lệ sống và năng suất của tôm postlarvae 15 khi ương nuôi ấu trùng tôm càng xanh của các nghiệm thức được thể hiện qua bảng 5. Sau khi kết thúc thí nghiệm thì tỉ lệ sống postlarvae 15 cao nhất ở nghiệm thức cho ăn 6 lần/ngày (54,4%) và thấp nhất là nghiệm thức cho ăn 8 lần/ngày (36,8%) tuy nhiên giữa các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Năng suất tôm postlarvae 15 thu được thấp nhất ở nghiệm thức cho ăn 8 lần/ngày, khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Nghiệm thức cho ăn 6 lần/ ngày có năng suất cao nhất nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Theo Nguyễn Thanh Phương và cộng tác viên (2006) thì tỷ lệ sống trung bình và năng suất tôm postlarvae 15 trung bình của tôm nuôi vỗ có Khối lượng < 20 g lần lượt là 53,8 ± 5,5 và 32,3 ± 3,32 tôm bột/lít. Từ đó cho thấy tỷ lệ sống và năng suất tôm postlarvae 15 trong nghiên cứu này dao động tương đương với kết quả của nghiên cứu trên. Bảng 5. Tỷ lệ sống và năng suất tôm postlarvae 15 Chỉ tiêu Nghiệm thức cho ăn 5 lần/ngày 6 lần/ngày 7 lần/ngày 8 lần/ngày Đối chứng Tỷ lệ sống (%) 45,8±10,8a 54,4±7,7a 53,7±4,6a 36,8±14,6a 50,3±9,9a Năng suất tôm PL-15 (con/m3) 27.483±6.453 a 32.653±4.646a 32.253±2.753a 22.110±8.787a 30.220±5.897a Ghi chú: Các giá trị trên cùng 1 dòng có chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). 125 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 12(97)/2018 IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 4.1. Kết luận - Các yếu tố môi trường trong suốt quá trình ương thích hợp cho ấu trùng và hậu ấu trùng tôm càng xanh sinh trưởng và phát triển tốt. - Tăng trưởng chiều dài Postlarvae 15 (11,07 ± 0,15 mm), tỷ lệ sống (54,4 ± 7,7%) và năng suất (32.653 ± 4.646 con/lít) ở nghiệm thức cho ăn 6 lần/ ngày tốt nhất. 4.2. Đề nghị Chọn số lần cho ăn trong ngày là 6 lần để thực hiện các thí nghiệm tiếp theo và ứng dụng vào thực tế sản suất giống tôm càng xanh. TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Thanh Phương và Trần Văn Bùi, 2006. Ảnh hưởng của nguồn tôm mẹ lên sức sinh sản và chất lượng ấu trùng tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii). Tạp chí Khoa học số đặc biệt chuyên đề Thủy sản (Quyển 2) 124-133. Nguyễn Thanh Phương, Trần Ngọc Hải, Trần Thị Thanh Hiền và Marcy N. Wilder, 2003. Nguyên lý và kỹ thuật sản xuất giống tôm càng xanh. Nhà xuất bản Nông nghiệp. TP. Hồ Chí Minh, 127 trang. Boyd, C. E., 2007. Nitrification: Imprortant process in aquaculture. Golbal Aquaculture Advocate 10, 64-67. Margarete Mallasen, Wagner Cotroni Valenti, 2006. Effect of nitrite on larval development of giant river prawn Macrobrachium rosenbergii. Original Research Article Aquaculture, Volume 261, Issue 4, 11 December 2006, Pages 1292-1298. New, M. B., and S. Singholka, 1985. Freshwater Prawn Farming: A manual for culture of Macrobrachium rosenbergii. FAO Fisheries Technical Paper (212). Rao K.L. and Troipathi S.D., 1993. A manual on Giant Freshwater prawn hatchery. CIFA. Uno, Y. and K. C. Soo, 1969. Larval development of Macrobrachium rosenbergii reared in laboratory. J. Tokyo Univ. Fish., 55 (2): 79-90. Study on nursing of larval of giant fresh water prawn (Macrobrachium rosenbergii) by industrial feed Nguyen Thanh Khon, Le Minh Thong, Ung Thai Luat, Do Thi Tuyet Ngan, Lam Thi Cam Tu, Chau Tai Tao Abstract The study aimed to find the effect of feeding times of industrial feed on growth and survival rate of larvae and postlarvae of Giant fresh water prawn. The study included 5 treatments: (i) 5 times/day; (ii) 6 times/day; (iii) 7 times/day; (iv) 8 times/day and (v) control. Experimental tank volume was 120 liter and stocking density was 60 larvae/liter with water at salinity of 12‰. The results of the experiment showed that the length of postlarvae 15 (11.07 ± 0.15 mm), survival rate (54.4 ± 7.7%) and productivity (32,653 ± 4,646 con/m3) at treatments in larger 6 times/day but the difference was not statistically significant (p > 0.05) compared with the remaining treatments. It can be concluded that nursing freshwater prawn for feeding 6 times/day is most suitable. Keywords: Industrial feed, feeding times, giant fresh water prawn Ngày nhận bài: 24/10/2018 Ngày phản biện: 29/10/2018 Người phản biện: TS. Lý Văn Khánh Ngày duyệt đăng: 10/12/2018 1 Khoa Thủy sản - Đại học Cần Thơ; 2 Trung tâm Khuyến Nông tỉnh Cà Mau NGHIÊN CỨU CHU KỲ BỔ SUNG RỈ ĐƯỜNG TRONG ƯƠNG ẤU TRÙNG TÔM SÚ THEO CÔNG NGHỆ BIOFLOC Châu Tài Tảo1, Phùng Văn Toàn2, Trần Ngọc Hải1, Cao Mỹ Án1 và Lý Văn Khánh1 TÓM TẮT Nghiên cứu nhằm tìm ra chu kỳ bổ sung rỉ đường thích hợp cho tăng trưởng và tỉ lệ sống của ấu trùng và hậu ấu trùng tôm sú. Thí nghiệm gồm 4 nghiệm thức với chu kỳ bổ sung rỉ đường là: (i) 1 ngày/lần; (ii) 2 ngày/lần; (iii) 3 ngày/lần; (iv) 4 ngày/lần. Ấu trùng tôm được bố trí trong bể composit 0,5m3, độ mặn 30‰, mật độ ương 150 con/L, thời điểm bổ sung rỉ đường bắt đầu từ giai đoạn Mysis-3 với tỷ lệ C/N = 25. Kết quả thí nghiệm cho thấy

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf17_7519_2209491.pdf
Tài liệu liên quan