Tài liệu Nghiên cứu ứng dụng vạt sụn kết mạc trong tạo hình mí sau cắt bỏ ung thư mí: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG VẠT SỤN KẾT MẠC
TRONG TẠO HÌNH MÍ SAU CẮT BỎ UNG THƯ MÍ
Lê Minh Thông*
TÓM TẮT
35 trường hợp ung thư mí được phẫu thuật cắt trọn u kết hợp tạo hình dùng vạt sụn kết mạc của mí
đối diện cùng mắt. Xác chẩn mô bệnh học chỉ có 3 loại ung thư gồm có ung thư tế bào đáy (23 TH), ung
thư tế bào vẩy (7 TH) và ung thư tế bào nhờn (5 TH). Mí trên chiếm 11 TH trong đó có 5 UT-TBĐ, mí dưới
chiếm 24 TH trong đó có 18 UT-TBĐ.Để tạo hình mí, chuyển vạt sụn kết mạc đơn thuần có 22 TH,
chuyển vạt sụn kết mạc phức tạp (kết hợp ghép rời sụn tai và tạo hình góc mí) 13 TH. Với thời gian theo
dõi trung bình là 26 ± 12 tháng, kết quả ghi nhận như sau: tốt (đạt yêu cầu chức năng mí và thẩm mỹ)
23 TH, hài lòng (chỉ đạt yêu cầu bảo toàn chức năng mí) 11 TH, không đạt 1 TH. Biến...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 04/07/2023 | Lượt xem: 352 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu ứng dụng vạt sụn kết mạc trong tạo hình mí sau cắt bỏ ung thư mí, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG VẠT SỤN KẾT MẠC
TRONG TẠO HÌNH MÍ SAU CẮT BỎ UNG THƯ MÍ
Lê Minh Thông*
TÓM TẮT
35 trường hợp ung thư mí được phẫu thuật cắt trọn u kết hợp tạo hình dùng vạt sụn kết mạc của mí
đối diện cùng mắt. Xác chẩn mô bệnh học chỉ có 3 loại ung thư gồm có ung thư tế bào đáy (23 TH), ung
thư tế bào vẩy (7 TH) và ung thư tế bào nhờn (5 TH). Mí trên chiếm 11 TH trong đó có 5 UT-TBĐ, mí dưới
chiếm 24 TH trong đó có 18 UT-TBĐ.Để tạo hình mí, chuyển vạt sụn kết mạc đơn thuần có 22 TH,
chuyển vạt sụn kết mạc phức tạp (kết hợp ghép rời sụn tai và tạo hình góc mí) 13 TH. Với thời gian theo
dõi trung bình là 26 ± 12 tháng, kết quả ghi nhận như sau: tốt (đạt yêu cầu chức năng mí và thẩm mỹ)
23 TH, hài lòng (chỉ đạt yêu cầu bảo toàn chức năng mí) 11 TH, không đạt 1 TH. Biến chứng trầm trọng
gồm có: 1 TH quặm mí, 1 TH lật mí dưới, 2 TH tái phát tại chỗ. Hạn chế thẩm mỹ: Độ mở khe mí không
cân xứng với mắt bên kia (6 TH),không có nếp mí đôi (7), biên độ cử động mí bị hạn chế (4 TH). Kết luận
rút ra như sau: Vạt sụn kết mạc tạo hình mí sau cắt trọn ung thư mí là kỹ thuật thích hợp đối với các thầy
thuốc nhãn khoa quen phẫu thuật vùng mí. Phẫu thụât thực hiện dưới kính hiển vi giúp hạn chế cắt bỏ
mô lành trừ hao và giúp việc tạo hình được thực hiện chính xác theo từng lớp lang giải phẫu học nên ít
biến chứng. Phẫu thuật 2 thì nên thời gian mỗi lần mổ rút ngắn lại khiến BN đa số là ngưới già yếu chịu
đựng cuộc mổ dễ dàng. Phẫu thuật viên an tâm không sợ biến chứng hoại tử khiếm dưởng mô ghép.
SUMMARY
TARSOCONJUNCTIVAL FLAB IN EYELID RECONSTRUCTION AFTER TOTAL
RESECTION OF PALPEBRAL CANCER.
Le Minh Thong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 9 * Supplement of No 1 * 2005: 93 - 98
35 cases of palpebral cancer were operated by making a total resection combined with using
tarsoconjunctival flab for eyelid reconstruction
As histopathologic results confirmed, there were only 3 kinds of palpebral cancer including basal cell
carcinoma (20 cases), squamous cell carcinoma (6 cases), sebaceous cell carcinoma (9 cases).There were
4 cases of basal cell carcinoma among 11 cases situated in upper eyelid and 18 cases of basal cell
carcinoma among 24 cases situated in lower eyelid.
For eyelid reconstruction, two procedures under microscope were used: (1) simple tarsoconjunctival
flab in 22 cases (2) complex tarsoconjunctival flab (in combination with free ear cartilage graft and
periosteal flab for canthal reconstruction) in 13 cases.
With average follow-up time of 26 ± 12 months, the results were noted as follows: good (both
eyeglobe protecting role and esthetic aspect achieved) 23 cases, satisfied (merely eyeglobe protecting role
achieved) 11 cases, failed (no target achieved) 1 case.
The severe complications included upper lid entropion (1 case), lower lid ectropion (1 case), local
relapsing (2 cases). Esthetic limitations: the height of palpebral fissure was not the same in both side (6
cases), eyelid crease was absent (7cases),palpebral excursion was restricted (4 cases).
* Bộ môn Mắt - ĐH Y Dược TP HCM
93
Conclusions were drawn as follows: tarsoconjunctival flab for eyelid reconstruction after tolal
resection of palpebral cancer is a suitable technique for the eye surgeon who are accustomed in palpebral
structure. Microscopic surgery permited avoiding exaggerated resection of normal tissue and realizing
good restauration of normal structure. The two –stage procedure shortened the operation time so that old
patients can endure the operation of each stage easierly. The surgeon will be assure not to get
complication of graft tissue necrosis
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong điều trị ung thư mí, phẫu thuật viên
thường đối đầu với mâu thuẩn khó giải quyết là làm
sao (1) đảm bảo an toàn tính mệnh người bệnh và (2)
bảo vệ toàn vẹn chức năng nhãn cầu và phục hồi
thẩm mỹ mắt sau khi cắt trọn u(8). Cắt trọn u trừ hao
về phía mô lành sẽ đảm bảo yêu cầu 1 nhưng ngay
sau đó thầy thuốc gặp khó khăn trong khâu tạo hình
để đảm bảo yêu cầu 2. Ngược lại cắt u trọn tiết kiệm
mô lành tạo thuận lợi cho tạo hình mí đáp ứng yêu
cầu 2 nhưng không đảm bảo yêu cầu 1 về lâu dài.
Tìm một phương pháp mổ khả dĩ đáp ứng được 2 yêu
cầu trên là vấn đề thách thức cho các thầy thuốc
nhãn khoa tham gia điều trị trong lĩnh vực này.
Nhằm mục đích trên, báo cáo này lượng giá kết quả
điều trị của 35 trường hợp ung thư mí ăn lan rộng
bằng cách sử dụng vạt sụn kết mạc (S-KM) bắc cầu
để tạo hình sau cắt bỏ ung thư mí thực hiện dưới
kính hiển vi phẫu thuật trong 3 năm 2001-2003 tại
bệnh viện Mắt TpHCM.
BỆNH NHÂN VÀ PHƯƠNG PHÁP
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là các ung
thư lan rộng phải cắt bỏ nhiều hơn 1/3 mí đối với
mí trên hoặc nhiều hơn 1/2 mí đối với mí dưới, có
nghĩa khối lượng mô cắt bỏ không cho phép nối
tận tận phần mí còn lại (theo nguyên tắc của
Converse(6)). Mức độ ăn lan cũng chưa xâm nhập
vào cùng đồ hoặc mô hốc mắt đến mức phải chỉ
định nạo vét toàn bộ hốc mắt.
Sau đây là đặc điểm dịch tể của 35 trường hợp
được mổ: các BN được mổ trong hạn tuổi từ 30 đến
80 tuổi, nhóm tuổi 30-45 có 7 TH, từ 46-60 có 18
TH, và từ 61-80 tuổi có 10. Tỉ lệ nam/nử: 24/21. Vi
trí sang thương: mí trên 11 TH có 5 K tế bào đáy
(Ktbđ),mí dưới 24 TH có 18 Ktbđ. Về đặc điểm đi
kèm, có 1 trường hợp viêm bờ mí kinh niên, 3
trường hợp được mổ chắp lẹo nơi có sang thương
từ 1-2 lần, có 3 trường hợp tái phát sau khi cắt u
hạn chế rồi khâu tận tận ở tuyến dưới. Kích thước
u so với kích thước mí trên đó u phát triển như
sau:nhỏ hơn 1/3 mí có 5 TH, lớn hơn 1/3 mí nhưng
nhỏ hơn 2/3 mí có 27 TH, lớn hơn 2/3 mí có 3 TH.
Tất cả các trường hợp đều chưa có hạch sờ được.
Tất cả các trường hợp đều không làm sinh
thiết trước mổ, chẩn đoán chủ yếu dựa trên bệnh
cảnh lâm sàng và quyết định làm phẫu thuật cắt
trọn kết hợp với tạo hình dưới kính hiển vi phẫu
thuật. Toàn bọâ mẫu mô sau đó được gửi xác chẩn
giải phẫu bệnh tại Trung Tâm Chẩn Đoán Y Khoa
do PGS Nguyễn Sào Trung đọc.
Phẫu thuật gồm 2 thì đều thực hiện dưới
kính hiển vi phẫu thuật và gây tê tại chỗ:
Thì 1 bao gồm cắt u trọn và tạo vạt sụn kết
mạc từ mí lành đối diện để tạo hình mí bị khuyết
mô. Tạo hình mí bị khuyết mô có 2 cách: (1)
Chuyển vạt sụn kết mạc đơn thuần dành cho
khuyết mô mí không vượt quá 2/3 chiều dài mí có
22 TH, (2) Chuyển vạt sụn kết mạc phức tạp có kết
hợp ghép rời sụn tai và tạo hình góc mí cho 13 TH
khuyết gần toàn bộ mô mí.
Thì 2: Tiến hành 1 tháng sau nhằm tái tạo lại
bờ tự do của mí, khâu sắp xếp lại các cấu trúc của
mí theo lớp lang giải phẫu học.
94
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
H1. Kỹ thuật tạo hình vạt sụn kết mạc đơn thuần cho
mí dưới.(A) Khuyết mô mí dưới sau cắt bỏ ung thư. (B)
Bóc tách vạt S-KM từ mí trên cách bờ tực do 3-4mm.
(C) Vạt S-KM được bóc tách cho tới dây chằng ngang
Whitnall.(D) Khâu vạt S-KM vào chỗ khuyết mô mí
dưới. Trường hợp mô mí cắt bỏ gần toàn bộ thì ghép
thêm sụn rời ở một hoặc 2 bên của vạt S-KM bắc cầu.
(E) Da ghép rời lấy từ vùng sau tai hoặc mí đối diện
ghép lên chỗ vạt S-KM bắc cầu. (F) Một tháng sau, mổ
thì 2 tạo hình khe mí, cắt vạt S-KM với sự bảo vệ của
sonde crenelleé chịu bên dưới. (G). Khâu chỉnh sửa lại
bờ sụn mí trên(2)
Hình 2. Kỹ thuật tạo hình vạt sụn kết mạc đơn thuần
cho mí trên. A Khuyết mô mí dưới sau cắt bỏ ung thư
và đường rạch toàn bộ bề dầy mí dưới để bắc cầu lên
mí trên. B.Vạt sụn kết mạc sau khi bắc cầu vào chỗ
khuyết mí trên, còn vạt da cơ được bóc tách khỏi vạt S-
KM.C. DuØng sụn rời lấy từ vành tai, mũi... ghép bên
trên vạt S-KM.D. Vạt da cơ được khâu phủ trở lại bên
trên sụn ghép. Trường hợp mô mí cắt bỏ gần toàn bộ
thì ghép thêm sụn rời ở một hoặc 2 bên của vạt S-KM
bắc cầu. Một tháng sau sẽ tạo hình lại khe mí như hình
1F(11).
Đây là công trình tiền cứu mô tả cắt dọc thực
hiện trong 3 năm từ 2001 đến 2003. Để đánh giá kết
quả chúng tôi căn cứ trên 2 tiêu chuẩn chức năng và
thẩm mỹ trong đó tiêu chuẩn đầu là chính, tiêu
chuẩn sau là phụ. Có 3 mức độ đánh giá(7):
Tốt: Đạt yêu cầu bảo vệ nhãn cầu và yêu cầu
thẩm mỹ. Yêu cầu che chở có 2 tiêu chuẩn (1) giác
mạc không có nguy cơ bị loét do hở mí (2) sự vận
động của mí không bị hạn chế. Yêu cầu thẩm mỹ
cũng có 2 tiêu chuẩn phụ (1) bề cao và bề dài khe mí
đạt kích thước bình thường so với mắt bên lành (2)
góc trong và ngoài khe mí không bị biến dạng
Hài lòng: đảm bảo yêu cầu che chở giác kết
mạc,sự vận động mí có bị giới hạn phần nào. Yêu cầu
thẩm mỹ chỉ đạt 1 hoặc không đạt tiêu chuẩn nào.
Không đạt: Không đảm bảo yêu cầu bảo vệ giác
mạc phải mổ lại.
KẾT QUẢ
Độ nhạy chẩn đoán lâm sàng của các K mí được
tóm tắt ở bàng 1
Bảng1. Đối chiếu chẩn đoán trước mổ với kết quả
giải phẫu bệnh
Phù hợp Chẩn đoán
trước mổ N0 %
Sai đối chiếu với
kết quả giải phẫu
bệnh
K tế bào đáy 20 17 85 3 K tế bào vẩy
K tế bào vẩy 6 4 67 2 K tế bào đáy
K tế bào nhờn 9 9 100 0
K mí 35 35 100 0
Bảng 1 cho thấy có 3 TH chẩn đoán lâm sàng là
Ktbđ nhưng giải phẫu bệnh là Ktbv, 2 TH chẩn đoán
lâm sàng Ktbv giải phẫu bệnh là Ktbđ. Đối với Ktbn
thì chẩn đoán lâm sàng và giải phẫu bệnh đều phù
hợp. Tương tự không có trường hợp nào lâm sàng
chẩn đoán ung thư mà giải phẫu bệnh lại là u lành.
95
Với thời gian theo dõi trung bình 26±12 tháng
lâu nhất là 3 năm, gần nhất là 1 tháng các kết quả và
biến chứng ghi nhận được tóm tắt ở bảng 2 và 3:
Bảng 2.Kết quả ghi nhận được
Tốt Hài lòng Thất bại
N0 % N0 % N0 %
Vạt sụn kết mạc đơn thuần 16 72 6 28 0 0
Vạt sụn kết mạc phức tạp 7 54 5 38 1 8
Tổng 24 66 10 31 1 3
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về kết
quả điều trị của 2 kỹ thuật mổ (p> 0.05).
Bảng 3.Biến chứng sau mổ
Vạt S-KM đơn
thuần (22TH)
Vạt S-KM phức
tạp (13 TH)
Biến chứng
N0 N0
K tái phát tại chỗ 1 1
Quặm mí trên 0 1
Lật mí 0 1
Biến dạng độ cong bờ mí 1 1
Biến dạng bề cao khe mí 0 1
Biên đô cử động mí bị hạn
chế
1 3
Không có nếp mí đôi 3 4
Về các biến chứng gặp phải thì nhóm sử sụng vạt
S-KM đơn thuần có biến chứng ít hơn nhóm vạt S-
KM phức tạp (p< 0.05 với tét chính xác Fisher).
BÀN LUẬN
Về vấn đề chẩn đoán
Chẩn đoán làm sàng các ung thư mí lan rộng với
khối u lành không khó và khi đó thường hiện diện các
dấu hiệu đặc trưng như khối sùi dễ chảy máu khi
chạm đến,khối cứng nhiều thùy thâm nhiểm vào
da,có nhiều tân mạch. Bảng 1 cho thấy 35 trường
hợp chẩn đoán lâm sàng trước mổ là ung thư đều
chính xác đối chiếu với xác chẩn mô bệnh học, không
có trường hợp nào chẩn đoán sai u lành cho là u ác.
Điều này cho phép chúng tôi tin rằng không cần làm
sinh thiết để có xác chẩn trước khi quyết định phẫu
thuật tạo hình, làm vậy có 3 điều lợi (1) BN không
mất thời gian chờ đợi kết quả sinh thiết (đa số BN
đều ở xa) và loại trừ nguy cơ phát tán ung thư do sinh
thiết gây ra (2) hạn chế sự mất mô lành do cắt u sinh
thiết (vị trí cắt ở biên giới giữa mô lành và sang
thương) giúp công đoạn tạo hình dễ dàng hơn (3)
sinh thiết bằng mẫu mô nhỏ cho kết quả mô bệnh
học đôi khi không chính xác (trả lời là mô viêm kinh
niên chẳng hạn) làm cho chỉ định điều trị trở nên
lúng túng. Tuy nhiên chẩn đoán phân loại K mí trên
lâm sàng đối chiếu với xác chẩn mô bệnh học thì có
khác biệt. Trong 20 TH ung thư tế bào đáy chẩn đoán
lâm sàng có 3 TH mô bệnh học trả lời là ung thư tế
bào vẩy, như vậy độ nhạy đạt 85%. Trong 10 TH chẩn
đoán lâm sàng ung thư tế bào vẩy có 3 TH mô bệnh
học trả lời ung thư tế bào đáy, như vậy độ nhạy trong
chẩn đoán lâm sàng ung thư tế bào vẩy đạt 70%. Điều
này cho thấy chẩn đoán phân loại ung thư tế bào vẩy
trên lâm sàng kém chính xác hơn ung thư tế bào đáy.
Ung thư tế bào đáy có những đặc trưng dễ chẩn đoán
như thường phát sinh từ nốt ruồi có sẳn, tiến triển
chậm, thâm nhiểm da gây co kéo, có sắc tố quanh
sang thương dạng mối đùn(1). Tuy nhiên có thể chẩn
đoán lầm là Ktbv khi có sự hiện diện của tăng sản giả
biểu mô (pseudoepitheliomatous hyperplasia)(6). Đối
với Ktbn chẩn đoán lâm sàng có độ nhạy 100% đối
chiếu với kết quả mô bệnh học. Ktbn dễ chẩn đoán
sai đối vơi các bác sĩ chưa kinh nghiệm khi đối diện
với Ktbn núp dưới hội chứng giả dạng như viêm bờ
mí kinh niên hay chắp lẹo(4). Trong nhóm Ktbn, có 1
TH kèm viêm bờ mí kinh niên, 3 TH có tiền căn tái
phát sau mổ chắp lẹo.
Về kỹ thuật mổ
Tại sao phải mổ dưới kính hiển vi phẫu thuật?
Hai phương cách có sẳn giúp cắt u an toàn không
sợ sót mô ung thư là Kỹ thuật vi bản đồ của Mohs
(Mohs' micrographic surgery)(9) và sinh thiết trọn với
kiểm soát sinh thiết lạnh (excisional biopsy with
frozen section control)(5). Hiện tại bệnh viện chưa có
thể thực hiện 1 trong 2 kỹ thuật trên nên việc cắt u
dưới kính hiển vi là giải pháp thay thế hạn chế cắt bỏ
nhiều mô lành. Khi cắt u bằng mắt thường người ta
thường tôn trọng nguyên tắc kinh điển sau(3): Ktbđ
cách mép sang thương 0,5cm đối với Ktbđ,và cách
mép 1cm đối với Ktbn và Ktbv. Kính hiển vi cho
phép nhận diện rõ đâu là giới hạn của sang thương và
mô lành nên tiết kiệm được mô, tạo thuận lợi cho
việc tạo hình ở thì tiếp theo. Thực vậy tạo hình mí
96
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
mất 1 phần không phức tạp khó khăn như mất toàn
bộ mí.
Đối với thầy thuốc nhãn khoa vốn quen sử dụng
kính hiển vi phẫu thuật nên phát huy tối đa lợi thế
của công cụ này. Kính hiển vi phẫu thuật cho phép
việc bắc cầu vạt sụn kết mạc ở thì 1 và tái tạo khe mí
ở thì 2 được thực hiện đúng lớp lang giải phẫu học
nhờ nhận diện rõ các cấu trúc của mí. Điều này giúp
cho mí tạo hình đạt yêu cầu thẩm mỹ và chức năng
cao hơn đồng thời biến chứng phẫu thuật cũng ít hơn
nhìn bằng mắt thường.
Tại sao dùng vạt sụn kết mạc tạo hình mí?
Trong tạo hình mí có 3 nguyên tắc cơ bản cần
tôn trọng: (1) ba thành phần cơ bản của mí là
sụn,da,kết mạc trong đó sụn là yếu tố quan trọng coi
như khung chịu lực của mí (2) đảm bảo bản lề
chuyển động của mí (tái tạo dây chằng mí trong và
ngoài) để biên độ cử động của mí không bị hạn chế
(3) tăng cường dinh dưỡng mô ghép. Qua nhiều năm
phẫu thuật trong lỉnh vực này chúng tôi nhận thấy
dùng vạt sụn kết mạc tạo hình mí là giải pháp đảm
bảo tốt nhất 3 yêu cầu này. Ghép sụn mảnh rời (lấy từ
sụn mí bên lành cùng bên hay đối diện,sụn vành
tai,sụn vách ngăn mũi...) và vạt da theo phương pháp
Mustardé(2) có khuyết điểm (1) khiếm dưởng hoại tử ở
bờ mí tái tạo dù có tăng cường dinh dưỡng mô ghép
bằng cách di thực cơ vòng lên bề mặt sụn ghép (2)
hạn chế cử động mí,(3) thời gian phẫu thuật kéo dài.
Dùng vạt sụn kết mạc bắc cầu chia 2 thì phẫu
thuật cho phép rút ngắn thời gian cuộc mổ (trung
bình 45 phút± 10), mổ dưới gây tê tại chỗ, ít mất
máu nên rất phù hợp cho người lớn tuổi. Trước đây
chúng tôi cho rằng vạt sụn kết mạc chỉ thích hợp cho
ung thư phần giữa mí(7). Giờ đây hạn chế này đã được
khắc phục, nó có thể áp dụng cho mọi vị trí và mức
độ cắt bỏ mô mí từ từng phần đến toàn phần nhờ kết
hợp với ghép sụn rời ở 1 hoặc 2 bên của vạt sụn kết
mạc bắc cầu. Chúng tôi gọi kỹ thuật này là vạt sụn
kết mạc phức tạp và đây là sáng kiến chưa thấy mô tả
trên y văn thế giới.
Về kết quả điều trị
Trong nghiên cứu này chúng tôi đã tiến hành 22
TH áp dụng kỹ thuật vạt sụn kết mạc đơn thuần, 13
TH vạt sụn kết mạc phức tạp sự khác biệt về kết quả
của 2 kỹ thuật mổ không khác biệt có ý nghĩa thống
kê (p> 0.05). Điều này chứng tỏ vạt sụn kết mạc
phức tạp là một sáng kiến có ích giúp mở rộng chỉ
định cho mọi mức độ mất mô mí mà kết quả vẫn
ngang nhau. Trong nhóm BN sử dụng vạt sụn kết
mạc phức tạp có 1 trường hợp thất bại phải mổ lại vì
mí bị biến dạng nhiều, không đạt yêu cầu thẩn mỹ
cũng như chức năng bảo vệ nhãn cầu. Do thiếu kinh
nghiệm bước đầu, trong phẫu thuật thì 2 chúng tôi
chưa bóc tách kỹ mọi sẹo dính nên khâu chưa đúng
lớp lang giải phẫu. Các trường hợp sau đều khắc phục
sự thiếu kinh nghiệm này.
Về các biến chứng gặp phải thì nhóm sử sụng vạt
S-KM đơn thuần có biến chứng ít hơn nhóm vạt S-
KM phức tạp (p< 0.05). Một trường hợp tái phát tại
chỗ thuộc nhóm vạt S-KM đơn thuần là Ktbđ. Trường
hợp này là hậu quả của sự cố gắng bảo tồn lệ quản khi
cắt bỏ khối u. Một trường hợp tái phát thuộc nhóm
vạt S-KM phức tạp là ung thư tế bào gai biệt hóa kém,
tái phát tại chỗ sau 1 năm. Các biến chứng khác đều
không đáng kể có thể chỉnh sửa lại nhưng đa số
thuộc nhóm BN lớn tuổi, họ hài lòng với kết quả đạt
được và đều không có yêu cầu mổ lại.
KẾT LUẬN
Vạt sụn kết mạc tạo hình mí sau cắt trọn ung thư
mí là kỹ thuật thích hợp đối với các thầy thuốc nhãn
khoa quen phẫu thuật vùng mí. Phẫu thụât thực hiện
dưới kính hiển vi giúp hạn chế cắt bỏ mô lành trừ hao
và giúp việc tạo hình được thực hiện chính xác theo
từng lớp lang giải phẫu học nên ít biến chứng. Phẫu
thuật 2 thì nên thời gian mỗi lần mổ rút ngắn lại
khiến BN đa số là ngưới già yếu chịu đựng cuộc mổ
dễ dàng. Phẫu thuật viên an tâm không sợ biến
chứng hoại tử khiếm dưởng mô ghép. Kỹ thuật này
có thể áp dụng cho mọi mức độ mất mô mí nhờ sáng
kiến ghép sụn rời bổ xung 2 bên vạt S-KM bắc cầu
97
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Boniuk M, Zimmerman LE, Sebaceous carcinoma of
the eyelid, eyebrow, caruncle, and orbit. Trans Am
Acad Ophthalmol Otolaryngol.1968;72:619-41.
2. Cies WA, Bartlett RE: Modification of the Mustarde
and Hughes methods of reconstruction of the lower
lid. Ann Ophthalmol 7:1497, 1967
3. Doxanas MT, Green WR, Iliff CE. Factors in
successful surgical management of basal cell
carcinoma of the eyelids. Am J Ophthalmol.
1981;91:726-36.
4. Doxanas MT, Green WR. Sebaceous gland carcinoma.
Arch Ophthalmol. 1984;102:245-9.
5. Glatt HJ, Olson JJ, Putterman AM. Conventional
frozen sections in periocular basal cell carcinoma: A
review of 236 cases. Ophthalmic Surg. 1992;23:6-9.
6. Kwitko ML, Boniuk M, Zimmerman LE. Eyelid tumors
with reference to lesions confused with squamous cell
carcinoma. I. Incidence and errors in diagnosis. Arch
Ophthalmol. 1963;69:693-7.
7. Le Minh Thong: Điều trị ung thư mí lan rộng bằng
phẫu thuật kết hợp với tạo hình mí.Y học TP.Hồ Chí
Minh.Phụ bản chuyên đề ung bướu học; tập 2 số
3/1998 trang 112-118.
8. McCord CD, Tanenbaum M: Oculoplastic Surgery, 2nd
ed, Chaps 8, 9, 10. New York, Raven Press, 1987
9. Mohs FE. Micrographic surgery for microscopically
controlled excision of eyelid tumors. Arch Ophthalmol.
1986;104:901-9.
10. Smith B.,Converse J.M.:Plastic and reconstruction
surgery of the eye and adnexa.The C.V.Mosby
company 1967;11:65-104
11. Wesley RE, McCord CD: Transplantation of eye bank
sclera in the Cutler-Beard method of upper eyelid
reconstruction. Ophthalmology 87:1022, 1980.
98
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_ung_dung_vat_sun_ket_mac_trong_tao_hinh_mi_sau_ca.pdf