Tài liệu Nghiên cứu tổng hợp lantan xitrat làm phân bón vi lượng cho cây cà chua: TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 10 - Thaùng 6/2012
NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP LANTAN XITRAT
LÀM PHÂN BÓN VI LƯỢNG CHO CÂY CÀ CHUA
VÕ QUANG MAI (*)
VÕ VĂN TÂN (**)
TÓM TẮT
Các công trình nghiên cứu ứng dụng phân bón vi lượng của các nguyên tố đất
hiếm với hàm lượng rất thấp cho nhiều loại cây trồng như: táo, nho, ngô, chuối, đậu
nành, đậu, cam, mía, chè, lúa... đã được thực hiện tại Úc, Trung Quốc, Việt Nam...
Các dữ liệu thực nghiệm đã cho thấy khi sử dụng phân bón vi lượng nguyên tố đất
hiếm sẽ cho năng suất và làm cho năng suất và chất lượng cây trồng cao hơn nhiều.
Trong bài báo này, chúng tôi đã nghiên cứu tổng hợp các phức chất rắn của axit xitric
với lantan ở các điều kiện tối ưu của thời gian phản ứng, nhiệt độ, pH, tỉ lệ của các chất
tham gia tạo phức và ứng dụng phân bón vi lượng với hàm lượng rất thấp của lantan
xitrat từ phức chất này cho cây cà chua. Kết quả cho thấy rằng khi sử dụng phức lantan
xitrat ở nồng độ 200ppm thì năng suất cà chua tăng 15,20%.
Từ khoá: N...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 433 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tổng hợp lantan xitrat làm phân bón vi lượng cho cây cà chua, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 10 - Thaùng 6/2012
NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP LANTAN XITRAT
LÀM PHÂN BÓN VI LƯỢNG CHO CÂY CÀ CHUA
VÕ QUANG MAI (*)
VÕ VĂN TÂN (**)
TÓM TẮT
Các công trình nghiên cứu ứng dụng phân bón vi lượng của các nguyên tố đất
hiếm với hàm lượng rất thấp cho nhiều loại cây trồng như: táo, nho, ngô, chuối, đậu
nành, đậu, cam, mía, chè, lúa... đã được thực hiện tại Úc, Trung Quốc, Việt Nam...
Các dữ liệu thực nghiệm đã cho thấy khi sử dụng phân bón vi lượng nguyên tố đất
hiếm sẽ cho năng suất và làm cho năng suất và chất lượng cây trồng cao hơn nhiều.
Trong bài báo này, chúng tôi đã nghiên cứu tổng hợp các phức chất rắn của axit xitric
với lantan ở các điều kiện tối ưu của thời gian phản ứng, nhiệt độ, pH, tỉ lệ của các chất
tham gia tạo phức và ứng dụng phân bón vi lượng với hàm lượng rất thấp của lantan
xitrat từ phức chất này cho cây cà chua. Kết quả cho thấy rằng khi sử dụng phức lantan
xitrat ở nồng độ 200ppm thì năng suất cà chua tăng 15,20%.
Từ khoá: Nguyên tố đất hiếm, lantan, phân bón vi lượng đất hiếm, phức rắn và cà chua.
ABSTRACT
The works on the application of micronutrients (with very low concentration of Rare
Earth Elements for many kinds of cultivated crops such as apples, grapes, corn, bananas,
soy beans, oranges, sugar canes, tea, rice, etc.) have been conducted in Australia, China,
Vietnam, etc.. The experimental data indicated that the use of rare earth micronutrients
could obtain better crops of higher quality. In this paper, we have synthesized the solid
complex of citric acid with lanthanum in the optimal conditions on the reaction time,
temperature, pH and reagent rate. We applied this micronutrients with very low
concentration of lanthanum citrate from this solid complex for the tomatoes. The results
indicated that the tomato yield increased by 15.20% when the concentration of
lanthanum citrate complex was 200ppm.
Keywords: Rare Earth Elements, lanthanum, rare earth micronutrients, solid complex
and tomato.
1. MỞ ĐẦU (*) (**)
Trong lĩnh vực nông nghiệp, các
nguyên tố đất hiếm (NTĐH) là một trong
những nguyên tố vi lượng rất cần thiết cho
một số loại cây trồng như: lúa, mía, táo,
nho, ngô, chuối, đậu nành, cam, chè... [1],
(*)PGS.TS, Trường Đại học Sài Gòn
(**)PGS.TS, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế
[2], [4], [6], [7], [8]. Các NTĐH tồn tại rất
ít ỏi trong đất mới được khai phá lần đầu
tiên để trồng trọt, do đó khi mới trồng trên
loại đất này thì cây phát triển tốt, chất
lượng đặc biệt. Nhưng khi đã trải qua vài
vụ gieo trồng, hàm lượng các NTĐH bị
hao hụt dần qua quá trình sử dụng của thực
vật. Do đó, nếu được bổ sung các loại phân
NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP LANTAN XITRAT LÀM PHÂN BÓN VI LƯỢNG CHO CÂY CÀ CHUA
bón có chứa NTĐH sẽ làm cho cây trồng
phát triển tốt.
Các NTĐH có những ảnh hưởng nhất
định đến dinh dưỡng và năng suất cây
trồng vì chúng tham gia vào thành phần
của nhiều loại enzim và chúng có khả năng
thúc đẩy sự hoạt động của các loại enzim
đó. Ví dụ: Khả năng làm tăng hàm lượng
diệp lục, tăng quá trình quang hoá, tăng
hấp thu các chất dinh dưỡng đa lượng, tăng
khả năng chống chịu điều kiện bất lợi của
thời tiết, môi trường... [2], [3], [5], [7], [8].
Vì vậy các NTĐH đều rất cần thiết cho
cây trồng mặc dù chỉ cần một hàm lượng
rất ít. Ngoài ra, nếu nồng độ các NTĐH
trong dung dịch đất thấp quá hoặc cao quá,
so với nhu cầu dinh dưỡng của các loại cây
trồng, đều có ảnh hưởng rất mạnh đến sự
sinh trưởng và phát triển của cây. Do đó,
việc cung cấp và bổ sung đúng mức các
NTĐH từ phức chất của NTĐH cho cây
trồng là một yêu cầu bức thiết đang được
đặt ra. Các công trình trước đây [2], [3], [5]
các tác giả đã nghiên cứu tổng hợp một số
phức chất của các NTĐH với phối tử hữu
cơ là axit glutamic và đã ứng dụng làm
phân bón vi lượng cho cây thanh trà,
cam với kết quả làm tăng năng suất thu
hoạch đáng kể. Trong bài báo này, chúng
tôi thông báo kết quả nghiên cứu tổng hợp
phức lantan xitrat và thử nghiệm làm phân
bón vi lượng cho cây cà chua.
2. THỰC NGHIỆM
2.1. Dụng cụ, thiết bị và hoá chất
Các thiết bị và dụng cụ cần thiết để
tiến hành nghiên cứu tổng hợp lantan xitrat
bao gồm: máy ly tâm, pH mét, cân phân
tích, máy khuấy từ gia nhiệt, máy lọc hút,
kính hiển vi nối với máy chụp ảnh, bình
hút ẩm, các loại bình cầ u, bình tam giác,
cốc thuỷ tinh, các pipet, micropipet...
Phổ hồng ngoại được xác định trên
máy quang phổ kế hồng ngoại FTIR
IMPACT 4010 (CHLB Đức), phổ phân
tích nhiệt được đo trên máy Shimadzu
DTA-50 tại khoa Hoá học, Trường Đại học
Khoa học Tự nhiên, ĐHQG Hà Nội.
Các hoá chất sử dụng dạng PA. như:
axit xitric; LaCl3 ; HCl; dung dịch
amoniac; Asenazo (III), dung dịch đệm
axetat 2M; dung dịch chuẩn DTPA 10 -2 M.
2.2. Bố trí thí nghiệm
Quá trình tổng hợp phức lantan xitrat
được thực hiện bằng cách lấy chính xác
LaCl3 có nồng độ đã biết để kết tủa
hidroxit La(OH)3 bằng dung dịch amoniac.
Sau đó cho phản ứng với axit xitric trên
máy khuấy từ gia nhiệt ở nhiệt độ nhất
định cho đến khi kết tủa tan hoàn toàn. Cô
dung dịch trên máy điều nhiệt cho đến khi
xuất hiện váng trên bề mặt. Để nguội, tạo
mầm và chờ kết tinh khoảng 48 giờ thì thu
được phức chất kết tinh. Lọc hút lấy lantan
xitrat và dung dịch, chuẩn độ định lượng
La3+ dư bằng dung dịch DTPA 1.10–2M với
chỉ thị asenazo(III) trong dung dịch đệm
axetat ở pH = 4.2, từ đó tính được lượng
La3+ đã tham gia tạo phức.
Hiệu suất của phản ứng tạo phức được
tính theo công thức sau:
Trong đó: n +3
bdLa
: số mol La3+ trong
dung dịch ban đầu
n +3
duLa
: số mol La3+ còn lại
Thử nghiệm dung dịch phức lantan
xitrat làm phân bón vi lượng cho cây cà
chua ở phường Thuỷ Dương, thị xã Hương
Thuỷ, Thừa Thiên Huế được tiến hành qua
hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là tiến
hành nghiên cứu thử nghiệm phun dung
H% = %100.
3
33
+
++ −
bd
dubd
La
LaLa
n
nn
VÕ QUANG MAI - VÕ VĂN TÂN
dịch phức lantan xitrat làm phân bón vi
lượng cho cây cà chua non. Giai đoạn thứ
hai là nghiên cứu thử nghiệm phun dung
dịch phức lantan xitrat làm phân bón vi
lượng cho cây cà chua trưởng thành .
Giai đoạn 1: Đất ruộng được cày bừa
cẩn thận, phơi ải, đánh vụn, chia làm 8 lô
(mỗi lô có diện tích 10m2 và phân riêng ra
7 lô để phun dung dịch phức lantan xitrat
các nồng độ 50; 100; 150; 200; 250; 300;
350 ppm và 1 lô đối chứng) để khảo sát
khả năng phát triển của cây cà chua non
khi phun dung dịch phức lantan xitrat các
nồng độ nói trên với liều lượng 7 ngày một
lần lên lá cây cà chua. Sau khi cây cà chua
phát triển 20 ngày tuổi thì nghiên cứu chọn
khoảng nồng độ thích hợp cho sự phát triển
của cây cà chua non để nghiên cứu cho cây
cà chua trưởng thành.
Giai đoạn 2: Đất ruộng trồng cà chua
lấy quả, được phân thành 4 lô (diện tích
mỗi lô là 100 m2), các lô đất được lên
luống và trồng cà chua với mật độ là 60 cm
x 45 cm x 1 cây. Sử dụng 3 lô để thử
nghiệm phun dung dịch phức lantan xitrat
làm phân bón vi lượng cho cây cà chua
trưởng thành (còn 1 lô dành để đối chứng).
Các chế độ chăm bón khác cho cây cà chua
vẫn thực hiện như cũ và không thay đổi gì.
Tiến hành phun lên lá khi trời nắng dung
dịch phức lantan xitrat ở các nồng độ thích
hợp (chọn được trong quá trình khảo sát ở
cây cà chua non) để làm phân bón vi lượng
cho cây cà chua trưởng thành lên các lô thí
nghiệm một lần trong một tuần, đều đặn
như vậy đến khi cà chua xuất hiện có trái
non thì dừng phun. Khi trái chín thì thu
hoạch và cân để tính năng suất cà chua.
Để kiểm nghiệm tính hiệu quả của các
dung dịch phức lantan xitrat đã có ảnh
hưởng như thế nào đến năng suất cà chua,
chúng tôi đã xử lý số liệu thực nghiệm
bằng bài toán ANOVA (analysis of
variance).
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Nghiên cứu tổng hợp lantan xitrat
Các thí nghiệm nghiên cứu tổng hợp
lantan xitrat được tiến hành trong các bình
cầu dung tích 100ml với thành phần axit
xitric, LaCl3 nhất định, ở các khoảng thời
gian, nhiệt độ, pH khác nhau để khảo sát
ảnh hưởng của các yếu tố này đến hiệu suất
tạo thành phức chất.
3.1.1. Ảnh hưởng của thời gian phản
ứng đến hiệu suất tạo phức
Các thí nghiệm nghiên cứu ảnh hưởng
của thời gian phản ứng đến hiệu suất tạo
phức lantan xitrat được tiến hành với tỉ lệ
mol La3+: H3Cit = 1:1, nhiệt độ phản ứng
được cố định ở 60oC, giá trị pH = 7 nhưng
thời gian thay đổi từ 1 giờ đến 7 giờ. Kết
quả thực nghiệm được trình bày ở hình 1.
1 2 3 4 5 6 7 8
3 0
4 0
5 0
6 0
7 0
8 0
9 0
1 0 0
Hie
u s
ua
t, (
%)
T h o i g i a n , ( g i o )
Hình 1. Ảnh hưởng của thời gian đến hiệu suất tạo phức lantan xitrat
NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP LANTAN XITRAT LÀM PHÂN BÓN VI LƯỢNG CHO CÂY CÀ CHUA
Từ kết quả thu được ở hình 1, có thể
nhận thấy trong cùng điều kiện v ề tỉ lệ mol
La3+: H3Cit = 1:1, nhiệt độ phản ứng 60oC
và pH = 7; khi thời gian phản ứng tăng từ 1
giờ trở lên thì hiệu suất phản ứng tăng do
quá trình hình thành tinh thể phức phát
triển mạnh. Nhưng khi thời gian tăng quá 5
giờ thì hiệu suất tạo phức không tăng được
nữa. Vì vậy thời gian thích hợp nhất để
phản ứng tạo phức lantan xitrat có hiệu
suất cao là 5 giờ.
3.1.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ phản
ứng đến hiệu suất tạo phức
Các thí nghiệm nghiên cứu ảnh hưởng
của nhiệt độ phản ứng đến hiệu suất tạo
phức lantan xitrat được tiến hành với tỉ lệ
La3+: H3Cit = 1:1, giá trị pH = 7, thời gian
phản ứng là 5 giờ nhưng nhiệt độ phản ứng
được thay đổi từ 40oC đến 90oC. Kết quả
thực nghiệm được trình bày ở hình 2.
3 0 4 0 5 0 6 0 7 0 8 0 9 0 1 0 0
3 0
4 0
5 0
6 0
7 0
8 0
9 0
Hi
eu
su
at,
(%
)
N h ie t d o , (oC )
Hình 2. Ảnh hưởng của nhiệ t độ phản ứng đến hiệu suất tạo phức lantan xitrat
Từ kết quả thực nghiệm ở hình 2, có
thể thấy khi tăng nhiệt độ từ 400C đến 600C
thì hiệu suất phản ứng tạo phức lantan
xitrat tăng lên. Nhưng khi nhiệt độ tăng lên
quá 60oC, thì hiệu suất tạo phức giảm do có
sự phân huỷ phức tạo thành. Vì vậy nhiệt
độ thích hợp nhất cho phản ứng tạo phức
lantan xitrat là 600C.
3.1.3. Ảnh hưởng của tỉ lệ La3+: H3Cit
đến hiệu suất tạo phức
Các thí nghiệm nghiên cứu ảnh hưởng
của tỉ lệ mol La3+: H3Cit đến hiệu suất tạo
phức lantan xitrat được tiến hành tại giá trị
pH = 7, nhiệt độ 60oC, thời gian phản ứng
5 giờ nhưng tỉ lệ mol La 3+: H3Cit đến hiệu
suất tạo phức lantan xitrat được thay đổi:
1,5:1; 1,25:1; 1,0:1; 1,0:1,25; 1,0:1,5
(mol/mol).
Kết quả thực nghiệm của ảnh hưởng tỉ
lệ các chất tham gia phản ứng đến hiệu suất
tạo phức được trình bày ở hình 3.
VÕ QUANG MAI - VÕ VĂN TÂN
1.02178746109382 1.25/1 1/1 4.007114273010227 5.084926634059582 --
30
40
50
60
70
80
90
1,0:1,51,0:1,251,0:11,25:11,5:1
Hi
eu
su
at,
(%
)
T i le m ol (La 3+:H 3Cit)
Hình 3. Ảnh hưởng của tỉ lệ mol La3+: H3Cit đến hiệu suất tạo phức
Từ hình 3, có thể thấy ở điều kiện nhiệt
độ phản ứng được cố định là 60 oC, thời
gian là 5 giờ, pH = 7 với tỉ lệ La3+:H3Cit
=1:1 thì phản ứng đã cho hiệu suất tạo
phức lantan xitrat cao nhất.Vậy có thể chọn
điều kiện tỉ lệ mol La3+: H3Cit là 1:1 là tối
ưu để nghiên cứu tiếp các ảnh hưởng khác.
3.1.4. Ảnh hưởng của pH đến hiệu s uất
tạo phức
Các thí nghiệm nghiên cứu ảnh hưởng
của thời gian phản ứng đến hiệu suất tạo phức
lantan xitrat được tiến hành với tỉ lệ mol La3+:
H3Cit = 1:1 (mol/mol), nhiệt độ phản ứng
60oC, thời gian phản ứng 5 giờ nhưng giá trị
pH được thay đổi từ 6 đến 9. Kết quả thực
nghiệm được trình bày ở hình 4.
6.0 6 .5 7 .0 7 .5 8 .0 8 .5 9 .0
30
40
50
60
70
80
90
Hi
eu
su
at,
(%
)
pH
Hình 4. Ảnh hưởng của pH đến hiệu suất tạo phức lantan xitrat
Từ hình 4, có thể thấy pH từ 6 trở lên
thì hiệu suất phản ứng tạo phức tăng nhưng
khi pH lớn hơn 7 thì hiệu suấ t tạo phức bị
giảm xuống. Do đó, pH thích hợp nhất cho
NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP LANTAN XITRAT LÀM PHÂN BÓN VI LƯỢNG CHO CÂY CÀ CHUA
hiệu suất tạo phức lantan xitrat tối ưu là
pH= 7.
3.2. Xác định sự hình thành phức
lantan xitrat
Từ các điều kiện thích hợp đã nghiên
cứu được ở trên, chúng tôi đã tổng hợp
được phức lantan xitrat với tỉ lệ La3+:H3Cit
=1:1. Để biết được lantan đã tham gia liên
kết với axit xitric, chúng tôi tiến hành đo
phổ hồng ngoại và phân tích nhiệt phức
chất lantan xitrat đã tổng hợp được.
3.2.1. Phổ hồng ngoại của phức lantan
xitrat
Phổ hồng ngoại của phối tử axit xitric
và phức lantan xitrat đã tổng hợp được
trình bày ở hình 5 và hình 6.
Mon Jan 10 14:45:10 2011
Hình 5. Phổ hồng ngoại của axit xitric
Mon Jan 10 14:55:10 2011
Hình 6. Phổ hồng ngoại của phức lantan xitrat
Từ hình 5 và 6, cho thấy phổ hồng
ngoại của phối tử là axit xitric có nhóm -
COOH xuất hiện với số sóng 1640,85 cm -1
nhưng trong phổ của phức lantan xitrat số
sóng này giảm, chỉ còn 1633,64 cm -1 và chỉ
xuất hiện với cường độ rất yếu, chứng tỏ
nhóm -COOH đã tham gia liên kết với La 3+
là hoàn toàn phù hợp. Mặt khác, trong phổ
VÕ QUANG MAI - VÕ VĂN TÂN
hồng ngoại của phức lantan xitrat này còn
xuất hiện thêm số sóng nằm trong vùng từ
1553,91 cm-1 đến 1633,64 cm -1, chứng tỏ
có phân tử H2O kết tinh trong mẫu. Ngoài
ra, nhóm chức –OH ứng với số sóng từ
3200 – 3325,75 cm-1 vẫn còn trong phổ,
chứng tỏ nhóm hydroxyl đã không tham
gia tạo liên kết.
Như vậy, qua phổ hồng ngoại đã chứng
minh được có sự tạo phức giữa La3+ và axit
xitric.
3.2.2. Phân tích nhiệt
Phức lantan xitrat được phân tích trọng
lượng nhiệt vi phân DTG hoặc DTGA
(Differential thermogravimetry analysis) và
phân tích trọng lượng nhiệt TG hoặc TGA
(Thermogravimetry or Thermogravimetry
analysis) với kết quả được trình bày bằng
giản đồ ở hình 7.
Hình 7. Giản đồ phân tích nhiệt DTGA và TGA của lantan xitrat
Từ hình 7, cho thấy trên giản đồ
DTGA chỉ ra kết quả khi nung từ khoảng
50oC 1000oC, phức lantan xitrat trải qua
hai quá trình: Quá trình thu nhiệt ở
132,44oC ứng với sự mất nước trong phân
tử của phức và quá trình toả nhiệt ở
215,97oC với 281,19oC, tương ứng với quá
trình phân huỷ và đốt cháy phức. Trên giản
đồ TGA cho thấy: Từ 50oC đến 132,44oC,
khối lượng mẫu giảm 4,840 mg, chiếm
Furnace temperature /°C0 100 200 300 400 500 600 700 800
TG/%
-60
-30
0
30
60
d TG/%/min
-150
-100
-50
HeatFlow/µV
-400
-300
-200
-100
0
100
200
300
Mass variation: -12.24 %
Mass variation: -68.61 %
Peak :132.44 °C
Peak :215.97 °C
Peak :281.19 °C
Figure:
Mass (mg): 39.54
Crucible: PT 100 µl Atmosphere: AirExperiment: Citrat Lantan
Procedure: RT ----> 1000C (10C.min-1) (Zone 2)Labsys TG
Exo
12/01/2011
NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP LANTAN XITRAT LÀM PHÂN BÓN VI LƯỢNG CHO CÂY CÀ CHUA
12,24 % tương ứng với 2 phân tử H2O,
tương ứng với sự mất nước của phức. Từ
200OC đến 900OC, khối lượng mẫu giảm
27,13 mg, chiếm 68,61 %, tương ứng với
sự phân huỷ và đốt cháy phức trong không
khí. Phần cặn còn lại sau khi nung là 7,57
mg chiếm 19,15% là La2O3.
Như vậy, qua giản đồ phân tích nhiệt
DTGA và TGA của phức lantan xitrat cũng
đã chứng minh được có sự tạo phức giữa
La3+ và axit xitric.
3.3. Ứng dụng phức chất lantan xitrat
làm phân bón vi lượng cho cây cà chua
Để ứng dụng phức lantan xitrat đã
điều chế được cho cây cà chua trồng tại
phường Thuỷ Phương, thị xã Hương Thuỷ,
tỉnh Thừa Thiên Huế. Các thí nghiệm được
tiến hành bằng cách p hun dung dịch phức
lantan xitrat ở các khoảng nồng độ thích
hợp lên cây cà chua trồng trên đồng ruộng
ở những thời điểm nhất định.
Gieo hạt cà chua trên mặt đất khô đã
bón tro bếp (có nhiều K) rồi phủ rơm cho
ấm lúc trời nắng khô ráo độ 5-7 ngày cây
sẽ mọc gọi là cây non. Khi cây non được
khoảng 20 ngày (tức được khoảng 25 –27
ngày tuổi) thì mới phun phức đất hiếm để
thử nghiệm ở giai đoạn 1. Giai đoạn 1 này
được thử nghiệm trong khoảng 20 ngày
(nghĩa là cho đến khi cây được khoảng 45 –
47 ngày tuổi và được g ọi là cây cà chua
trưởng thành). Tiếp tục thử nghiệm giai
đoạn 2 trong khoảng 50 ngày (nghĩa là cho
đến khi cây được khoảng 95–97 ngày tuổi).
3.3.1. Ảnh hưởng của nồng độ phức
lantan xitrat đến sự sinh trưởng của cà
chua ở giai đoạn 1
Các nghiên cứu thử nghiệm phun dung
dịch phức lantan xitrat làm phân bón vi
lượng cho cây cà chua non được tiến hành
bằng cách phun dung dịch phức lantan
xitrat các nồng độ 0; 50; 100; 150; 200;
250; 300; 350 ppm. Phun 3 lần, mỗi lần
cách nhau 7 ngày, phun lên lá cây cà chua
với mục đích khảo sát khả năng phát triển
trọng lượng (tươi) của cây cà chua non.
Kết quả khảo sát ảnh hưởng của nồng
độ phức lantan xitrat đến sự sinh trưởng
của cà chua sau khi phun dung dịch phức
lantan xitrat ở giai đoạn 1 được trình bày ở
bảng 1 và tiến hành phân tích phương sai
được kết quả như bảng 2.
Bảng 1. Bố trí thí nghiệm theo ANOVA một chiều
Số lần thí
nghiệm
Nồng độ vi lượng lantan xitrat (ppm)
0 50 100 150 200 250 300 350
1 22,13 24,34 24.92 26,01 27,27 27,14 26,77 26,55
2 21,59 24,26 25,10 26,09 27,23 27,00 26,32 26,44
3 22,48 23,90 25,15 25,89 27,19 26,83 26,88 26,35
x (g/cây) 22,07 24,17 25,06 26,00 27,23 26,99 26,66 26,45
VÕ QUANG MAI - VÕ VĂN TÂN
Bảng 2. Bảng phân tích phương sai
Nguồn phương sai Tổng bìnhphương ( ∑ (...)2) Bậc tự do (f)
Phương sai (S2)
2(...)
f
∑
Giữa các nguồn của yếu tố
khảo sát ( )2AS 64,23 7 9,18
Trong nội bộ giữa các mức
của yếu tố khảo sát (ss của
bản thân pp đo ( 2TNS )
0,81 16 0,05
Tổng cộng 65,04 23 2,83
Tính Ftính =
2
A
2
TN
S
S
=181,47 > Flý thuyết
(0,05; 7; 16) = 2,657
Vậy 2 2TN AS S≠ do đó yếu tố nồng độ
dung dịch phức có ảnh hưởng đến sự phát
triển của cây cà chua.
Sự phụ thuộc khối lượng trung bình
cây cà chua vào nồng độ phức được trình
bày ở hình 8.
0 50 100 150 200 250 300 350 400
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
Tr
on
g
lu
on
g
ca
y c
uo
i g
ia
i d
oa
n
1,
g
Nong do citrat lantan, ppm
Hình 8. Ảnh hưởng của nồng độ phức lantan xitrat đến trọng lượng tươi của cây cà chua
sau khi phun dung dịch phức lantan xitrat cuối giai đoạn 1
Từ kết quả nghiên cứu ở hình 8, có thể
thấy rằng: Khi phun dung dịch phức lantan
xitrat làm phân bón vi lượng cho cây cà
chua ở giai đoạn 1, nếu tăng nồng độ dung
dịch phức lantan xitrat từ 50 ppm cho đến
200 ppm khả năng sinh trưởng của cây cà
chua tăng lên đáng kể, nhưng khi tăng
nồng độ dung dịch phức lantan xitrat lên
NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP LANTAN XITRAT LÀM PHÂN BÓN VI LƯỢNG CHO CÂY CÀ CHUA
thêm nữa thì khả năng phát triển của cây cà
chua chẳng những không tăng mà bị ức chế
làm giảm trọng lượng xuống.
Như vậy, độ tăng trưởng của cây cà
chua mạnh nhất là khi phun dung dịch
phức lantan xitrat ở nồng độ bằng 200
ppm.
Vì vậy, chúng tôi chọn khoảng nồng
độ dung dịch phức lantan xitrat từ 150 ppm
đến 250 ppm để nghiên cứu phun vi lượng
cho cây cà chua trưởng thành (thí nghiệm
tiếp ở giai đoạn 2).
3.3.2. Ảnh hưởng của phức lantan
xitrat đến năng suất của cà chua ở giai
đoạn 2
Các nghiên cứu thử nghiệm phun dung
dịch phức lantan xitrat làm phân bón vi
lượng cho cây cà chua trưởng thành ở giai
đoạn 2 được tiến hành trên 4 lô với các chế
độ chăm bón cho cây cà chua là như nhau.
Ba lô thử nghiệm được phun dung dịch
phức lantan xitrat làm phân bón vi lượng
cho cây cà chua trưởng thành lên lá khi trời
nắng ở các nồng độ 150 ppm; 200 ppm;
250 ppm, còn 1 lô đối chứng thì phun
nước. Số lần phun được thực hiện là một
lần trong một tuần đến khi cà chua bắt đầu
có trái thì dừng phun. Khi trái chín thì thu
hoạch và cân để tính sản lượng và năng
suất cà chua. Kết quả thử nghiệm phun
dung dịch phức lantan xitrat trên cây cà
chua cho thấy phức chất này đã có ảnh
hưởng tốt đến sự phát triển của cây cà
chua. Năng suất thu hoạch cà chua tính cho
100 m2 ruộng đã được thử nghiệm dung dịch
phức lantan xitrat trình bày ở bảng 3.
Bảng 3. Năng suất cà chua thu hoạch khi đã thử nghiệm dung dịch phức lantan xitrat
(kg/100m2)
Chỉ tiêu Đối chứng
Phun dung dịch phức lantan xitrat ở các nồng
độ, (ppm)
150 200 250
Năng suất ± ε
(kg/100m2) 222,50±4,57 245,01±4,26 256,32±4,62 252,54±4,52
Tăng năng suất,
(%) - 10,12 15,20 13,50
Hình 9. Cà chua đã được thử nghiệm dung dịch phức lantan xitrat ở giai đoạn 2
Kết quả thử nghiệm ở giai đoạn 2 cho
thấy cà chua phát triển tốt và năng suất
tăng lên 15,20% khi phun dung dịch phức
lantan xitrat ở nồng độ vi lượng 200 ppm
VÕ QUANG MAI - VÕ VĂN TÂN
(ý nghĩa thống kê p<0,05).
4. KẾT LUẬN
1. Bằng thực nghiệm đã tìm được các
điều kiện thích hợp về thời gian, nhiệt độ,
pH, tỉ lệ các chất tham gia phản ứng để
tổng hợp phức chất của axit xitric và lantan
clorua.
2. Bằng phổ hồng ngoại và phân tích
nhiệt, đã chứng minh được phức chất
lantan xitrat đã tạo thành.
Đã thử nghiệm dung dịch phức lantan
xitrat làm phân bón vi lượng cho cây cà
chua, kết quả cho thấy dung dịch phức
lantan xitrat đã có ảnh hưởng rõ rệt đến quá
trình phát triển của cà chua và làm tăng
năng suất lên đến 15,20% ở nồng độ 200
ppm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Võ Văn Tân, Nguyễn Thị Phương Trang (2011), Nghiên cứu tổng hợp glutamat
neodym làm phân bón vi lượng , Tạp chí Hoá học và Ứng dụng, Số 1 (5), trang 39 -44.
2. Võ Văn Tân, Trần Thị Khánh Vân (2008), Nghiên cứu tổng hợp glutamat lantan và
ứng dụng làm phân bón vi lượng cho cây Thanh Trà ở thành phố Huế , Tạp chí Hoá
học và Ứng dụng, Số 5 (77), trang 35-38.
3. Võ Văn Tân (2008), Nghiên cứu tổng hợp glutamat kẽm và ứng dụng làm phân bón vi
lượng cho cây ăn quả ở Thừa Thiên Huế, Tạp chí Hoá học, T46 (2A), trang 271-276.
4. Lưu Minh Đại, Đặng Vũ Minh (1999), Một số kết quả ứng dụng vi lượng đất hiếm
trong nông nghiệp, Báo cáo tổng kết đề tài Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công
nghệ Quốc gia.
5. Võ Văn Tân, Võ Quang Mai (2008), Nghiên cứu tổng hợp và khảo nghiệm phân bón
vi lượng và đất hiếm làm tăng năng suất, chất lượng một số cây ăn quả có giá trị kinh
tế cao ở Thừa Thiên Huế , Báo cáo tổng kết đề tài khoa học công nghệ cấp Bộ, mã số B
2006-DHH 03-06, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế.
6. Nguyễn Bá Tiến, Nguyễn Yên Ninh, Nguyễn Minh Phượng, Mai Chí Thuần, Nguyễn
Quang Anh, Đinh Thị Liên (2003), Sản xuất phân bón vi lượng đất hiếm và kết quả
ứng dụng trên cây chè, Tuyển tập báo cáo Hội nghị Hoá học toàn quốc lần thứ 4,
symposium hoá học phục vụ nông lâm thuỷ sản, trang 9-13.
7. Tang Xike (1989), Rare Earth Elements and Plant, China Agri, Sci, Tech, Press,
Beijing.
8. Horst Marschner (1986), Mineral nutrition of higher plants, Academic, Press London,
Orlando, pp 300-312.
* Nhận bài ngày 1/4/2012. Sữa chữa xong 8/6/2012. Duyệt đăng 12/6/2012.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 52_8835_2224132.pdf