Tài liệu Nghiên cứu sử dụng phân compost cho rau muống cạn vụ hè thu ở miền Trung: NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG PHÂN COMPOST CHO RAU
MUỐNG CẠN VỤ HÈ THU Ở MIỀN TRUNG
TS. Nguyễn Đình Thi1
ThS. Lê Thị Hương Xuân2
ThS. Trần Thị Ngân3
ThS. Trần Thị Mai4
Tóm tắt: Các phế thải hữu cơ gồm bã thải cá, rơm rạ, bã đậu, hèm bia, được nhóm
nghiên cứu chúng tôi xử lý và ủ cùng với chế phẩm sinh học EM tạo nguồn phân
compost có chất lượng, sau đó bón thử nghiệm cho rau muống cạn vụ hè thu các năm
2012-2013 tại Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy,
công thức bón 30 tấn phân compost/ ha + 50% phân vô cơ cho các chỉ tiêu về thân
lá, khả năng tích lũy chất khô và năng suất không sai khác thống kê so với công thức
bón 100% phân vô cơ. Bón 30 tấn phân compost+50% phân vô cơ cho rau muống an
toàn đem lại hiệu quả kinh tế cao, giảm một lượng đáng kể phân hóa học bón, phù
hợp với nhu cầu tiêu thụ rau an toàn đang gia tăng của người tiêu dùng và giải quyết
vấn đề rác thải hữu cơ trong nông nghiệp.
Từ khóa: rau muống, phân compost, sinh trưở...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 271 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu sử dụng phân compost cho rau muống cạn vụ hè thu ở miền Trung, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG PHÂN COMPOST CHO RAU
MUỐNG CẠN VỤ HÈ THU Ở MIỀN TRUNG
TS. Nguyễn Đình Thi1
ThS. Lê Thị Hương Xuân2
ThS. Trần Thị Ngân3
ThS. Trần Thị Mai4
Tóm tắt: Các phế thải hữu cơ gồm bã thải cá, rơm rạ, bã đậu, hèm bia, được nhóm
nghiên cứu chúng tôi xử lý và ủ cùng với chế phẩm sinh học EM tạo nguồn phân
compost có chất lượng, sau đó bón thử nghiệm cho rau muống cạn vụ hè thu các năm
2012-2013 tại Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy,
công thức bón 30 tấn phân compost/ ha + 50% phân vô cơ cho các chỉ tiêu về thân
lá, khả năng tích lũy chất khô và năng suất không sai khác thống kê so với công thức
bón 100% phân vô cơ. Bón 30 tấn phân compost+50% phân vô cơ cho rau muống an
toàn đem lại hiệu quả kinh tế cao, giảm một lượng đáng kể phân hóa học bón, phù
hợp với nhu cầu tiêu thụ rau an toàn đang gia tăng của người tiêu dùng và giải quyết
vấn đề rác thải hữu cơ trong nông nghiệp.
Từ khóa: rau muống, phân compost, sinh trưởng phát triển, năng suất
1. Đặt vấn đề
Sự lạm dụng phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật nhằm tăng năng suất và sản
lượng cây trồng đã làm cho môi trường ngày càng ô nhiễm và ảnh hưởng nghiêm
trọng đến khỏe của người sản xuất lẫn người tiêu dùng (Kumar et al., 2001) [6].
Chính vì thế ngày càng có nhiều nghiên cứu và tìm kiếm nguồn phân bón sinh học
thay thế phân hóa học (Okon và Kapulnik, 1986) [8], (Molla et al., 2001) [7]. Tận
dụng các phế thải hữu cơ để tạo ra nguồn phân compost bón cho cây trồng là một
trong những giải pháp hiệu quả hiện nay. Phân compost bên cạnh việc giải quyết nạn
rác thải gây ô nhiễm môi trường còn góp phần tăng năng suất, chất lượng sản phẩm
và giảm bớt chi phí sản xuất cho nông dân. Nó vừa có tác dụng cải tạo đất bởi trong
thành phần phân compost không chứa hóa chất gây hại vừa chứa nhiều chất hữu cơ tự
nhiên bổ sung cho đất (Carter et al, 2004) [1]. Thực tiễn cho thấy phân compost mang
lại nhiều hiệu quả thiết thực cho sản xuất nông nghiệp. Điển hình như trung tâm Ứng
1 TS, trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế
2 ThS, trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế
3 ThS, trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế
4 ThS, trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế
NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG PHÂN COMPOST CHO RAU MUỐNG CẠN
107
dụng tiến bộ khoa học công nghệ Long An đã thực hiện dự án sử dụng phân compost
tạo ra từ quá trình ủ rác thải hữu cơ vào sản xuất hoa màu. Kết quả đã cho những
thành công bước đầu và được nhiều nông dân đồng tình hưởng ứng. Đây là một chủ
trương đúng đắn, phù hợp với việc hướng đến một nền nông nghiệp sạch và an toàn
đối với sức khỏe người tiêu dùng.
Rau muống (Ipomoea aquatica) là loại rau ăn lá được ưa chuộng trong bữa ăn
hằng ngày của người dân Việt Nam nói chung và người dân miền Trung nói riêng.
Tuy nhiên, đa số rau muống được trồng ở các ao hồ bị ô nhiễm. Theo Lê Đức (2000),
rau muống có thể hấp thu nhiều độc tố nếu được trồng ở nơi ô nhiễm [3]. Vì vậy, sản
xuất rau muống an toàn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân là nhu cầu bức thiết
hiện nay.
Xuất phát từ thực tiễn, chúng tôi thử nghiệm tạo phân compost từ các nguồn rác
thải hữu cơ phổ biến như: bã đậu, hèm bia, bã cá (loại sau khi đã chiết rút làm phân
bón lá), rơm rạ và các chất phụ gia (NPK, rỉ đường, cám gạo). Đặc biệt là sự bổ sung
chế phẩm EM nhằm tăng hoạt tính phân giải chất hữu cơ của hệ vi sinh vật và rút
ngắn thời gian ủ phân. Sau khi tạo được phân compost, chúng tôi đã thử nghiệm trên
cây rau muống và bước đầu thu được một số kết quả mới trình bày trong bài báo này.
2. Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Phân compost tạo ra từ các phế thải hữu cơ (thải bã cá, bã đậu, hèm bia, rơm
rạ).
Giống rau muống hạt đang được trồng phổ biến ở các tỉnh miền Trung.
Phân chuồng là phân trâu bò đã được ủ hoai mục; Các loại phân hóa học gồm
đạm ure, supe lân, kali clorua của công ty CP phân bón Bình Điền.
2.2. Nội dung nghiên cứu
Ảnh hưởng của phân compost tới các chỉ tiêu sinh trưởng thân lá, khả năng tích
lũy chất khô, năng suất của rau muống vụ hè thu tại một số vùng trồng rau ăn lá ở
Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng và Quảng Nam.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp ủ phân hữu cơ (compost)
Phế thải hữu cơ bước đầu xử lý bằng chế phẩm EM thứ cấp sau đó được ủ theo
phương pháp hiếu khí trong 6 tuần để thành bán thành phẩm phân compost theo
hướng dẫn quy trình làm phân ủ của Nguyễn Thanh Hiền (2003) [4].
Quy trình ủ tạo phân compost được chúng tôi thực hiện như sau:
Nguyên liệu: Gồm các phế thải hữu cơ như bã cá, hèm bia, bã đậu, rơm rạ cắt
nhỏ.
Các chất phụ gia bổ sung gồm rỉ đường, cám gạo, NPK.
TS. NGUYỄN ĐÌNH THI - THS. LÊ THỊ HƯƠNG XUÂN
108
Chế phẩm vi sinh EM (effective microorganism) thứ cấp được bổ sung vào khối
ủ với liều lượng 0,5 lít/100 kg nguyên liệu.
Cách ủ đống len men tạo phân compost: Trộn đều phế thải hữu cơ gồm hèm
bia, bã đậu, bã cá (tỷ lệ 3:2:1) với rơm rạ. Rải và trộn đều vôi bột (20 kg/tấn nguyên
liệu) vào khối ủ, sau đó bổ sung thêm chất phụ gia (rỉ đường, phân NPK). Hòa dung
dịch EM thứ cấp với nước và phun lên khối ủ, đồng thời tiến hành đảo đều. Dùng bạt
đậy kín khối ủ để tránh mất nhiệt. Khối ủ được đảo đều theo định kỳ 10 ngày/lần để
cung cấp oxy cho hệ vi sinh vật phát triển. Ẩm độ của khối ủ được duy trì ở mức 65-
70%.
Sau 30 ngày thì các phế thải đã phân hủy thành phân hữu cơ, phân có màu nâu
đen và tơi mịn, trên bề mặt đống ủ xuất hiện một lớp phấn trắng chứng tỏ sự hoạt
động của vi sinh vật trong đống ủ rất mạnh và có thể đem bón cho cây trồng.
2.3.2. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được tiến hành trong vụ hè thu 2013 tại một số vùng trồng rau ăn lá
ở Thừa Thiên Huế (phường Tây Lộc, thành phố Huế), Đà Nẵng (xã Hòa Tiến, Hòa
Vang) và Quảng Nam (xã Cẩm Hà, Hội An). Thí nghiệm tại mỗi vùng được bố trí
theo phương pháp khối hoàn toàn ngẫu nhiên (RCBD) với 5 công thức và 3 lần nhắc
lại.
Công thức 1 (đối chứng): 15 tấn/ ha phân chuồng+100 % nền phân hóa học
Công thức 2: 30 tấn phân compost/ ha.
Công thức 3: 30 tấn phân compost/ha+50% phân hóa học.
Công thưc 4: 15 tấn phân compost/ha.
Công thức 5: 15 tấn phân compost/ha+50% phân hóa học.
Trong đó nền phân hóa học cho 1 ha là 50kg N+20kg P2O5+15kg K2O. Mật độ
gieo trồng, liều lượng và phương pháp bón phân, quy trình chăm sóc và thu hoạch được
áp dụng theo tài liệu “Kỹ thuật trồng rau sạch, an toàn và chế biến xuất khẩu” [9].
2.3.3. Các chỉ tiêu và phương pháp nghiên cứu
Các chỉ tiêu nghiên cứu gồm: Chiều cao cây, đường kính thân, số cành cấp 1,
dài cành cấp 1, số lá xanh trên cây, chiều dài lá, diện tích lá (LA), chỉ số diện tích lá
(LAI), khối lượng diện tích lá (SLW), khối lượng tươi, tỷ lệ chất khô, năng suất kinh
tế thực thu (NSKT), năng suất sinh vật thực thu (NSSV), năng suất lý thuyết (NSLT),
hiệu quả kinh tế. Mỗi chỉ tiêu được theo dõi bằng phương pháp tương ứng đang được
sử dụng trong nghiên cứu rau ăn lá và được trình bày trong Giáo trình cây rau (Lê Thị
Khánh, 2009) [5].
Số liệu thô được xử lý thống kê sinh học bằng phần mềm excel và MSTATC.
NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG PHÂN COMPOST CHO RAU MUỐNG CẠN
109
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Ảnh hưởng của phân compost đến một số chỉ tiêu thân, cành rau muống
khi thu hoạch
Rau muống là loại rau ăn lá do đó các bộ phận thân, nhánh, lá có vai trò quan
trọng trong việc tăng năng suất. Nghiên cứu ảnh hưởng của phân compost đến sự sinh
trưởng thân cành rau muống, kết quả thể hiện qua bảng 3.1.
Nhìn chung rau muống được bón 100% phân vô cơ (đ/c) cho các chỉ tiêu về
thân cành lớn nhất. Tuy nhiên các thông số này ở rau muống bón 30 tấn phân
compost+50% phân vô cơ không sai khác có ý nghĩa thống kê so với đối chứng. Điều
này chứng tỏ rằng phân compost có tiềm năng nhất định trong việc thay thế 1 phần
hàm lượng phân bón hóa học mà vẫn đảm bảo được sự sinh trưởng tốt của thân và bộ
khung tán cho cây.
Bảng 3.1. Ảnh hưởng của phân compost đến một số chỉ tiêu sinh trưởng thân,
cành rau muống khi thu hoạch
Công thức Chiều cao cây
(cm)
Đường kính
thân (cm)
Số cành cấp 1
(cành)
Dài cành cấp 1
(cm)
I (đ/c) 58,18a 0,91a 2,03a 41,79a
II 47,12c 0,85c 1,93ab 37,85b
III 56,08ab 0,90ab 2,00ab 40,30ab
IV 44,97c 0,78d 1,90b 33,80c
V 54,37b 0,87bc 2,03a 38,54b
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trong cùng một cột thể hiện sự sai khác có ý
nghĩa thống kê tại α=0,05.
3.2. Ảnh hưởng của phân compost đến một số chỉ tiêu về lá rau muống khi
thu hoạch
Sự phát triển bộ lá rau muống có liên quan chặt chẽ đến năng suất cuối cùng bởi
nếu rau có bộ lá khỏe sẽ tăng khả năng tổng hợp chất dinh dưỡng và tích lũy vật chất
khô. Bên cạnh đó rau muống là loại rau ăn lá nên chỉ tiêu này liên quan đến năng suất
và phẩm chất rau. Số liệu ở bảng 3.2 cho thấy so với công thức đối chứng (bón 100%
phân vô cơ), các công thức bón phân compost cho các chỉ tiêu về số lá xanh, dài lá,
rộng lá, diện tích lá, chỉ số diện tích lá và khối lượng diện tích lá thấp hơn. Tuy nhiên,
bón phân compost kết hợp bón 50% lượng đạm vô cơ sẽ kích thích sự phát triển của
bộ lá rau muống so với chỉ bón thuần phân compost. Cụ thể là bón 30 tấn phân
compost + 50% phân hóa học làm tăng đáng kể các chỉ số về bộ lá, đặc biệt là số lá
và khối lượng diện tích lá không có sự sai khác có ý nghĩa thống kê so với đối chứng.
TS. NGUYỄN ĐÌNH THI - THS. LÊ THỊ HƯƠNG XUÂN
110
Bảng 3.2. Ảnh hưởng của phân compost đến một số chỉ tiêu về lá rau muống
khi thu hoạch
Công
thức
Số lá
Xanh
Dài lá
(cm)
Rộng lá
(cm)
LA
(dm2/cây)
LAI
(m2
lá/m2đất)
SLW
(g/dm2
lá)
I (đ/c) 14,03a 24,66a 2,41a 2,456a 1,769a 0,316a
II 11,53c 21,26c 1,96d 2,134d 1,536d 0,257c
III 13,73a 22,68b 2,19b 2,329b 1,677b 0,301ab
IV 11.43c 19,90d 1,92d 2,267c 1,632c 0,280b
V 12.80b 21,89bc 2,09c 2,292bc 1,651bc 0,309a
3.3. Ảnh hưởng của phân compost đến sự tích lũy và phân bố vật chất của
cây rau muống
Khối lượng tươi trên cây lúc thu hoạch là kết quả hoạt động tích lũy vật chất
trong suốt đời sống của cây, đồng thời biểu hiện khả năng hút nước và chất dinh
dưỡng của tế bào. Khối lượng tươi của rau muống ở các công thức thí nghiệm dao
động trong khoảng 33,68 - 44,58 g/cây. Trong đó tổng khối lượng tươi của cây và của
các bộ phân thân, lá, rễ ở công thức bón 100% phân vô cơ cao hơn so với các công
thức bón phân compost. Trong các công thức sử dụng phân compost, việc bón kết
hợp phân compost với phân vô cơ (15 - 30 tấn phân compost/ha + 50% phân vô cơ)
đã cho các chỉ tiêu về khối lượng tươi hơn cao hơn so với các công thức chỉ bón
thuần phân compost.
Tương tự, tỷ lệ chất khô của các công thức bón phân compost cũng đều thấp
hơn so với công thức đối chứng (9,33%), dao động trong khoảng 8,86 - 9,04%. Các
công thức II, III, V có tỷ lệ chất khô không sai khác nhau về mặt thống kê.
Bảng 3.3. Ảnh hưởng của phân compost đến sự tích lũy và phân bố vật chất của
rau muống
Khối lượng tươi (g/cây)
Công
thức Thân Lá Rễ Tổng
Tỷ lệ chất
khô (%)
I (đ/c) 24,54a 15,91a 4,14a 44,58a 9,33a
II 19,67d 13,17c 3,59b 36,42d 9,09b
III 23,05b 14,38b 4,03a 41,46b 9,03bc
IV 18,05e 12,51c 3,12c 33,68e 8,86c
V 21,19c 14,03b 3,97a 39,16c 9,04bc
NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG PHÂN COMPOST CHO RAU MUỐNG CẠN
111
3.4. Ảnh hưởng của phân compost đến yếu tố cấu thành năng suất và năng
suất rau muống
Năng suất là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh các quá trình sinh trưởng, phát
triển, các hoạt động sống diễn ra trong cây, đồng thời nó cũng là mục tiêu cuối cùng
được người sản xuất hướng tới. Kết quả thử nghiệm phân compost trên rau muống
cho các chỉ tiêu năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất thể hiện qua bảng 3.4.
Bảng 3.4. Ảnh hưởng của phân compost đến năng suất và yếu tố cấu thành năng
suất rau muống
Công
thức
Mật độ
(cây/m2)
Khối lượng
TB (g/cây)
NSLT
(tấn/ha)
NSSV
(tấn/ha)
NSKT
(tấn/ha)
I (đ/c) 72 44,58a 32,10a 23,47a 21,20a
II 72 36,09d 26,23d 17,60c 15,87c
III 72 41,46b 29,85b 21,87ab 19,73ab
IV 72 33,68e 24,25e 16,80c 14,93c
V 72 39,16c 28,20c 20,53b 18,53b
Năng suất lý thuyết (NSLT) của rau muống ở các công thức thí nghiệm dao
động từ 24,25-32,10 tấn/ha. Trong đó, công thức bón 100% phân vô cơ (đ/c) có
NSLT cao nhất (32,10 tấn/ha). Bón 30 tấn compost/ha+50% phân vô cơ cho NSLT
(29,85 tấn/ha) cao hơn so với bón 15 tấn compost/ha+50% phân vô cơ (NSLT đạt
28,20 tấn/ha), hoặc chỉ bón thuần 15 tấn/ha (NSLT đạt 26,23 tấn/ha) và 30 tấn/ha
phân compost (NSLT đạt 24,25 tấn/ha).
Năng suất sinh vật học (NSSV) của các công thức dao động từ 16,80-23,47
tấn/ha. So với bón phân compost, bón 100% phân hóa học cho rau muống vẫn cho
NSSV trội hơn. Tuy nhiên nếu bón 30 tấn compost/ha+50% phân vô cơ chỉ tiêu này
không sai khác có ý nghĩa thống kê so với đối chứng.
Năng suất kinh tế (NSKT) của rau muống dao động trong khoảng 14,93 - 21,20
tấn/ha, tương tự nếu bón 30 tấn compost/ ha + 50% phân vô cơ thì NSKT của rau
muống cũng cho sự sai khác không đáng kể so với bón 100% phân hóa học.
Như vậy, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy việc bón phân compost
giúp cây rau muống sinh trưởng và cho năng suất tốt khi bón kết hợp với 50% lượng
phân hóa học.
3.5. Hiệu quả kinh tế của việc sử dụng phân composst cho rau muống
Sản xuất phân compost ít tốn kém bởi nông dân có thể tận dụng các phế phụ
phẩm hữu cơ trong nông nghiệp làm nguyên liệu ủ phân, tận dụng công lao động
nhàn rỗi để ủ phân làm lời. Việc bổ sung một số chất phụ gia và chế phẩm sinh học
(dung dịch EM thứ cấp) vào khối ủ đã kích thích khu hệ vi sinh vật hoạt động mạnh
TS. NGUYỄN ĐÌNH THI - THS. LÊ THỊ HƯƠNG XUÂN
112
và rút ngắn thời gian ủ phân [2], [4]. Để sản xuất 1 tấn phân compost từ rác thải hữu
cơ cần đầu tư là 125,000đ. Trong đó, chi phí mua dung dịch EM là 25,000đ/tấn, vôi
bột và các chất phụ (NPK, rỉ đường, cám gạo) là 100,000đ. Hoạch toán hiệu quả kinh
tế khi bón phân compost cho cây rau muống được thể hiện qua bảng 3.5. Trong đó, sự
khác nhau về tổng chi ở các công thức là do việc thay thế lượng phân compost, phân
chuồng và phân bón hóa học.
Bảng 3.5. Hiệu quả kinh tế của trồng rau muống ở các công thức thí nghiệm
CT Tổng chi (1.000đ)
Tổng thu
(1.000đ)
Lãi
(1.000đ)
So với đ/c
(1.000đ)
I (đ/c) 39,420 84,800 45,380 -
II 33,850 63,480 29,630 -15,750
III 34,760 78,920 44,160 -1,220
IV 31,975 59,720 27,745 -17,635
V 32,885 74,120 41,235 -4,145
Chi chú: Tổng chi phí trồng 1 ha rau muống theo thông thường là 39.420.000đ.
Trong đó, giống (50 kg/ha) 2.850.000đ; công lao động (200 công/ha) 26.000.000đ;
phân bón (phân chuống, phân compost và NPK) 10.570.000đ; giá rau muống tại
ruộng 4.000/kg.
Kết quả ở bảng 3.5 cho thấy, tuy rau muống an toàn sử dụng phân compost chỉ
mới tính theo giá bán rau thông thường nhưng nhìn chung rau muống bón 100% phân
vô cơ cho lãi cao hơn so với các công thức bón compost. Nếu bón 30 tấn hoặc 15 tấn
phân compost kết hợp 50% lượng phân vô cơ sẽ cho hiệu quả thấp hơn không đáng
kể đồng thời giảm được 50% lượng phân hóa học bón cho rau. Kết quả này chưa thực
sự phản ánh hết hiệu quả của phân compost đến năng suất rau xanh bởi lẽ đây chỉ mới
là kết quả thu hoạch của vụ trồng đầu tiên. Theo tập quán canh tác của người dân ở
miền Trung, rau muống có thể thu hoạch được 4-5 lứa tùy vào mức độ chăm sóc. Rau
muống thu lứa đầu tiên có chất lượng tốt nhất và được dùng làm rau, các lứa thu sau
chất lượng kém hơn và thường được dùng làm chất xanh trong chăn nuôi [5]. Nghiên
cứu của Carter (2004) và Cao Ngọc Điệp (2011) cho thấy phân compost có tác dụng
nuôi dưỡng đất hàng năm, cung cấp cho đất mùn và các khoáng chất cần thiết, qua đó
đất sẽ ngày càng tốt lên và làm cho năng suất cây trồng tăng theo hàng năm [1], [2].
Hiện nay, cùng với xu thế phát triển của xã hội thì vấn đề vệ sinh an toàn thực
phẩm ngày càng được chú trọng. Về lâu dài một khi nhà nước có những chính sách và
biện pháp quản lý chặt chẽ, phù hợp để khuyến khích nông dân sản xuất rau an toàn
và rau hữu cơ thì việc tận dụng rác thải hữu cơ và công lao động trong gia đình để sản
xuất phân compost là giải pháp giúp giảm giá thành và tạo ra sản phẩm an toàn và
mang lại hiệu quả tích cực về mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG PHÂN COMPOST CHO RAU MUỐNG CẠN
113
4. Kết luận và kiến nghị
4.1. Kết luận
Rau muống được trồng theo phương pháp thông thường có các chỉ tiêu về cao
cây, đường kính thân, số lá cao hơn so với rau chỉ được bón thuần phân compost (15
tấn và 30 tấn). Tuy nhiên, so với rau muống được bón 15 hoặc 30 tấn phân compost
kết hợp với 50% phân hóa học, các chỉ tiêu này ít sai khác về mặt thống kê.
Bón 30 tấn phân compost kết hợp 50% phân hóa học so với mức bón 50kg
N+20kg P2O5+15kg K2O cho NSSV và NSKT không sai khác có ý nghĩa thống kê so
với đối chứng.
Xét về hiệu quả kinh tế, trồng rau muống bón 100% phân vô cơ cho hiệu quả
kinh tế cao nhất với gần 45 triệu đồng/ha. Tuy nhiên, nếu bón 30 tấn phân compost
kết hợp 50% phân hóa học cho rau muống thì vẫn đem lại hiệu quả kinh tế cao (44
triệu đồng/ha theo giá bán rau thông thường) đồng thời giảm được một lượng phân
hóa học trong sản xuất.
4.2. Kiến nghị
Bước đầu khuyến cáo người dân trồng rau ăn lá ở khu vực miền trung sản xuất
và sử dụng phân composst liều lượng 30 tấn+50% phân hóa học so với mức bón
thông dụng (50kg N+20kg P2O5+15kg K2O) trong sản xuất rau quả an toàn.
Tiếp tục hoàn thiện sản xuất phân compost với các loại phế thải nông nghiệp
khác nhau nhằm đem lại lợi nhuận cao nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Carter M. R. , J. B. Sanderson, J. A. MacLeod (2004), “ Influence of compost on
the physical properties and organic matter fractions of a fine sandy loam
throughout the cycle of a potato rotation”; Journal of Soil Science, 84(2): 211-
218.
[2] Cao Ngọc Điệp, Nguyễn Thanh Tùng, Nguyễn Vân Anh và Trần Thị Giang (
2011), “Hiệu quả của phân hữu cơ - vi sinh trên năng suất và chất lượng rau
xanh trồng trên đất phù sa tại tỉnh Long An”; Tạp chí Khoa học; Trường Đại học
Cần Thơ.
[3] Lê Đức (2000), “Bước đầu nghiên cứu khả năng thu hút và tích luỹ chì trong bèo
tây và rau muống trong nền đất bị ô nhiễm”, Thông báo khoa học các trường đại
học - Hà Nội.
[4] Nguyễn Thanh Hiền (2005), Phân hữu cơ phân vi sinh và phân ủ; Nxb. Nghệ An.
TS. NGUYỄN ĐÌNH THI - THS. LÊ THỊ HƯƠNG XUÂN
114
[5] Lê Thị Khánh; Giáo trình cây rau; Nxb. Đại học Huế, 2009.
[6] Kumar, B.S.D.; I..Berggren and A.M. Martensson (2001), “Potential for
improving pea production by co-inoculation with fluorescent Pseudomonas and
Rhizobium”, Plant and Soil, 229: 25-34.
[7] Molla, A.H.; Z.H. Shamsuddin; M.S. Halimi, M. Morziah and A.B. Putch (2001);
“Potential for enhancement of root growth and nodulation of soybean co-
inoculated with Azospirillum and Bradyrhizobium in laboratory systems”, Soil
Biol. Biochem. 33: 457-463.
[8] Okon, Y. and Y. Kapulnik(1996), “Development and function of Azospirillum
inoculated roots”. Plant and Soil 90, 3-16.
[9] Trần Khắc Thi, Nguyễn Công Hoan (2007), Kỹ thuật trồng rau sạch, an toàn và
chế biến xuất khẩu; Nxb. Hà Nội.
Title: A STUDY ON USAGE OF COMPOST FERTILIZER FOR
WATER SPINACH IN SUMMER-AUTUMN SEASON IN CENTRAL
VIETNAM
NGUYEN DINH THI
LE THI HUONG XUAN
TRAN THI NGAN
TRAN THI MAI
Hue University of Agriculture and Forestry
Abstract: Organic waste, including fish waste, straw, soya bean waste, and brewer’s
grains, was handled and incubated with EM (effective micro-organisms) probiotic to
create a useful compost resource. This was then used to fertilize water spinach in the
summer crops 2012-2013 in Thua Thien Hue, Da Nang, Quang Nam. Our findings
showed that the application of 30 tons compost/ha+50% recommended mineral
fertilizer improves leaves index, dry matter and the yield of water spinach without
statistical difference compared to amendment of 100% mineral fertilizer. A compost
application rate of 30 tons/ha+50% mineral fertilizer for water spinach brings high
economic efficiency, reduces a significant amount of chemical fertilizers usage, meets
the growing demand for safe vegetables of consumers, and minimizes the organic
waste in agriculture.
Keywords: water spinach, compost, growth and development, yield.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12147_4446_2134874.pdf