Nghiên cứu sử dụng mô hình lớp học đảo ngược những khó khăn thách thức và khả năng ứng dụng

Tài liệu Nghiên cứu sử dụng mô hình lớp học đảo ngược những khó khăn thách thức và khả năng ứng dụng: JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0258 Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 8D, pp. 85-92 This paper is available online at NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG MÔ HÌNH LỚP HỌC ĐẢO NGƯỢC NHỮNG KHÓ KHĂN THÁCH THỨC VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG Nguyễn Thế Dũng Viện Sư phạm Kỹ thuật, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Tóm tắt. Dạy học với B-learning đang là vấn đề đang rất được quan tâm. Với B-learning thì mô hình tổ chức lớp học trong giờ học giáp mặt sẽ như thế nào? Trong bài báo này, chúng tôi giới thiệu một trường hợp nghiên cứu về khả năng ứng dụng lớp học đảo ngược như là một mô hình tổ chức lớp học trong B-learning. Các khó khăn và thách thức đối với mô hình, các kết quả thực nghiệm ban đầu của mô hình tổ chức lớp học này trong một số môn học cho sinh viên ngành Sư phạm Kỹ thuật, Sư phạm Tin học tại trường Đại học Sư phạm Huế cũng được đưa ra. Từ khóa: B-learning; lớp học đảo ngược; giờ học giáp mặt; mô trường học trực tuyến; mô hình tổ chức lớp học. 1. Mở đầu Dạy học B-l...

pdf8 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 962 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu sử dụng mô hình lớp học đảo ngược những khó khăn thách thức và khả năng ứng dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0258 Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 8D, pp. 85-92 This paper is available online at NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG MÔ HÌNH LỚP HỌC ĐẢO NGƯỢC NHỮNG KHÓ KHĂN THÁCH THỨC VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG Nguyễn Thế Dũng Viện Sư phạm Kỹ thuật, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Tóm tắt. Dạy học với B-learning đang là vấn đề đang rất được quan tâm. Với B-learning thì mô hình tổ chức lớp học trong giờ học giáp mặt sẽ như thế nào? Trong bài báo này, chúng tôi giới thiệu một trường hợp nghiên cứu về khả năng ứng dụng lớp học đảo ngược như là một mô hình tổ chức lớp học trong B-learning. Các khó khăn và thách thức đối với mô hình, các kết quả thực nghiệm ban đầu của mô hình tổ chức lớp học này trong một số môn học cho sinh viên ngành Sư phạm Kỹ thuật, Sư phạm Tin học tại trường Đại học Sư phạm Huế cũng được đưa ra. Từ khóa: B-learning; lớp học đảo ngược; giờ học giáp mặt; mô trường học trực tuyến; mô hình tổ chức lớp học. 1. Mở đầu Dạy học B-learning, một hình thức kết hợp giữa dạy học giáp mặt (face-to-face) và dạy học trực tuyến đang là một mô hình dạy học đang được quan tâm ở các nước đang phát triển [4, 6, 7, 11, 13] . . . Tuy vậy có nhiều vấn đề như: mô hình dạy học, phương pháp dạy học,. . . trong các điều kiện dạy và học khác nhau sẽ như thế nào khi áp dụng hình thức B-learning? Hơn nữa, mô hình tổ chức lớp học face-to-face của mô hình B-learning là gì? Có thể áp dụng mô hình lớp học đảo ngược vào mô hình tổ chức lớp học trong B-learning hay không? Đây là các câu hỏi được giải quyết trong bài báo này. Mô hình lớp học đảo ngược là một mô hình dạy học đã và đang được rất quan tâm. Các ưu nhược điểm của nó cũng đã được một số tác giả đề cập [2, 3, 10, 12]. . . Ngoài ra còn có một số trang web về các khóa học trực tuyến để nâng cao năng lực về mô hình lớp học đảo ngược [8]. Các ưu điểm của lớp học đảo ngược [2]: + Do thời gian trên lớp phần lớn dành cho luyện tập và ôn tập, hỏi đáp kiến thức, do đó giảm được thời gian dành cho những khái niệm mà học sinh dễ dàng nắm bắt để tập trung vào các vấn đề khó hơn, đào sâu hơn. Vì rằng đôi khi giáo viên khó xác định chính xác khái niệm nào người học dễ nắm bắt và khái niệm nào thì khó khăn. Nhiều khi, giảng kĩ một khái niệm cho nhóm người học này sẽ lấy đi thời gian của các nhóm khác đã hiểu. Cách giải quyết là học sinh chỉ cần quay lại đoạn bài giảng đã được thu video, để xem lại phần chưa hiểu. Ngày nhận bài: 15/7/2015 Ngày nhận đăng: 01/10/2015 Liên hệ: Nguyễn Thế Dũng, e-mail: zungnguyen2003@yahoo.com 85 Nguyễn Thế Dũng + Giáo viên có nhiều thời gian trên lớp hơn để tiếp cận các học sinh yếu kém. + Học sinh có thể thu lại hoặc xem đi xem lại đoạn video bài giảng chưa hiểu. + Học sinh vắng mặt sẽ không bỏ lỡ bài giảng. + Có được nhiều thời gian hơn cho các hoạt động học trên lớp. + Phụ huynh có thể phối hợp cùng giáo viên trong việc hướng dẫn học tập cho học sinh. Một số nhược điểm của lớp học đảo ngược [2, 10]: + Một số trường học và người học không đủ điều kiện về khoa học công nghệ để có thể tự học tốt ở nhà. + Một số người học không xem bài giảng ở nhà và đến lớp mà không chuẩn bị gì, khi đó lớp học đảo ngược sẽ khó thành công được. + Một số phụ huynh học sinh sẽ không thích mô hình này, hơn nữa giáo viên có thể thiếu sự hỗ trợ của các đồng nghiệp, của trường và ngay cả người học. + Giáo viên phải tốn nhiều công sức. + Bài giảng thu lại video đòi hỏi công nghệ cao và khó có chất lượng tốt. + Các bài tập giao cho người học thực hiện ở nhà, cần phải được chuẩn bị cẩn thận. Vấn đề đặt ra là cần tìm cách khắc phục các nhược điểm của mô hình trong một số điều kiện dạy và học khác nhau. 2. Nội dung nghiên cứu Trong bài báo này, chúng tôi sẽ trình bày cách thức tổ chức lớp học đảo ngược với B-learning để dạy môn Hệ quản trị dữ liệu Access. 2.1. Tiến trình thực hiện dạy học theo mô hình lớp học đảo ngược Để có thể vận dụng quá trình dạy học lấy người học làm trung tâm và dạy học dựa trên hành động. Bên cạnh đó nhằm giúp cho sinh viên tăng cường năng lực giải quyết vấn đề, học tập các kiến thức về một hệ quản trị cơ sở dữ liệu thông qua thực hiện một hệ chương trình tuy nhỏ nhưng mang tính chất thực tiễn. Hơn nữa với đối tượng là sinh viên năm thứ 3, nên theo chúng tôi các bạn đã có ý thức cao trong học tập, có kĩ năng sử dụng máy tính và công nghệ truyền thông vững, có hiểu biết về lí luận dạy học khá. . . nên chúng tôi đã mạnh dạn thực hiện mô hình lớp học đảo ngược. Bước 1. Sắp xếp lại kế hoạch học tập của môn học và tài nguyên học tập theo mức độ nhận thức của người học. Xem xét những phần nào của môn học là phù hợp cho môi trường học nào, ở trên lớp hay người học có thể tự học với các tài nguyên hỗ trợ trên môi trường học online. Với những phần kiến thức chỉ yêu cầu sinh viên nắm ở mức độ biết - phát biểu lại thông tin, mức độ hiểu – giải thích khái niệm hay mức độ vận dụng – áp dụng thông tin. Các kiến thức dạng này, sinh viên có thể tự học trên môi trường online với sự hỗ trợ của các công cụ công nghệ thông tin. Các kiến thức yêu cầu ở mức độ nhận thức cao hơn như phân tích, tổng hợp, đánh giá cần có sự hỗ trợ trực tiếp của giáo viên ở trên lớp học giáp mặt. 86 Nghiên cứu sử dụng mô hình lớp học đảo ngược những khó khăn thách thức và khả năng ứng dụng Bước 2. Thiết kế dạy học cho các hoạt động tự học ở nhà của sinh viên nhằm chuẩn bị cho buổi học ở trên lớp. + Tìm kiếm và xây dựng các bài giảng được thu video. Ngoài các bài giảng được thu video, còn cung cấp cho sinh viên: textbook, slide trình chiếu để tóm lược các kiến thức và đưa ra các tiêu điểm để sinh viên có thể khái quát mục tiêu và kiến thức cần đạt, hệ thống hướng dẫn thực hành. . . những tư liệu này giúp cho sinh viên có thể tự tìm hiểu các kiến thức ban đầu. Hơn nữa sinh viên có thể tránh được việc phải ngồi làm việc trước máy tính quá lâu. + Xây dựng dự án cho các nhóm. Tổ chức lớp thành các nhóm từ 3 – 5 người, mỗi nhóm đề xuất một chương trình quản lí cơ sở dữ liệu đơn giản làm case study để thực hiện các kết quả học tập của từng tuần học qua chương trình này. Kết quả thực hiện chương trình sẽ được báo cáo trên lớp và được dùng để đánh giá kết quả học tập cuối học phần. + Hướng dẫn hoạt động học tập ở nhà. Mỗi tuần, sau mỗi giờ học ở trên lớp. Chúng tôi thông báo cho sinh viên mục đích của buổi học trong tuần kế tiếp, các tài nguyên học tập cần nghiên cứu,. . . và quan trọng là mục tiêu và yêu cầu của buổi học tiếp mà họ cần đạt được cần phải được nêu rõ cho sinh viên. Thường thì sinh viên phải tự đọc bài giảng trên textbook, nghiên cứu video,. . . và tiến hành làm bài tập theo từng nhóm. Để thảo luận sinh viên có thể trao đổi qua diễn đàn được tổ chức ở địa chỉ: Ngoài ra, các nhóm sinh viên sẽ thực hiện các kĩ năng cần đạt được qua case study như đã nói trên. Đôi khi chúng tôi còn yêu cầu sinh viên xây dựng các sơ đồ tư duy để tóm lược các khái niệm như chức năng của hệ quản lí cơ sở dữ liệu, các khái niệm cơ bản của mô hình cơ sở dữ liệu quan hệ. . . Chi tiết về những gì cần đạt được từng tuần học phải được nêu một cách rõ ràng và hạn cuối phải hoàn thành là trước buổi học offline trên lớp. Để tạo môi trường tương tác, chúng tôi sử dụng trang web dhsphue.edu.vn/course/view.php?id=17 để tạo khóa học. Các hướng dẫn hoạt động nói trên đều được đưa lên trang web. Các hướng dẫn học tập được giáo viên thông báo ngay trên lớp hay qua email, hay mạng xã hội để thông báo đến tận từng sinh viên trong lớp. Cấu trúc chung của khóa học là: Hệ quản trị dữ liệu Access. Diễn đàn tin tức - nơi học viên thảo luận cùng giảng viên Phòng Chat - nơi các nhóm thảo luận Mục tiêu học phần Giới thiệu cách học tập môn học Tiến trình dạy - học chung cho các chủ đề Tài liệu tham khảo Giáo trình Access 2010 Cases Study của môn học Nộp bài tập tại đây Bài tập trắc nghiệm Cấu trúc chung 1 module trong khóa học sẽ là: 87 Nguyễn Thế Dũng Mục đích và yêu cầu: Giới thiệu chung Tài liệu và thiết bị để học tập - Thông tin cho các hoạt động Slide bài giảng Các hoạt động học. Đánh giá Diễn đàn nơi các nhóm thảo luận và Giáo viên tổng quan lại các kiến thức trong chương. Phòng Chat - nơi các nhóm thảo luận Sinh viên có thể download các video bài giảng ở link: https://www.youtube.com/watch?v=VtGVn1OKERQ&list=PLE654D2E025DEC395 Các tư liệu nói trên có thể tìm thấy ở: - https://sites.google.com/site/nguyenthedunghue/Home/trang_danh_cho_sinhvien hay: Những tư liệu có dung lượng lớn, sinh viên có thể copy trực tiếp từ giáo viên. Bước 3. Thiết kế dạy học cho giờ học ở trên lớp. + Giáo viên thông báo những công việc cần làm và những gì cần phải đạt được đối với sinh viên trong buổi học. + Tổ chức dạy học kiến tạo – tương tác thông qua việc các nhóm sẽ báo cáo kết quả thực hiện case study mà nhóm đã đề xuất. Việc báo cáo này không đơn thuần là để kiểm tra đánh giá kết quả của sinh viên, mà qua đây người học thể hiện các kiến thức đã nắm được về các chủ đề của môn học mà giáo viên đã đưa ra trong giờ học tuần trước. + Giáo viên định hướng tương tác giữa các nhóm và kiến thức thông qua việc tổ chức cho các nhóm khác chất vấn nhóm đang báo cáo về các kiến thức cần đạt được trong tuần này, cụ thể được thể hiện qua sản phẩm là chương trình quản lí mà họ đang báo cáo. + Giáo viên nhận xét, đánh giá, khắc phục những sai sót của sinh viên và thể chế hóa kiến thức. + Đánh giá mức độ hoàn thành và những gì đạt hay chưa đạt của các nhóm. Bên cạnh đó là giao các nhiệm vụ học tập tiếp theo và các yêu cầu mở rộng vấn đề, nghiên cứu sâu một số nội dung. Vòng lặp của các bước trên lại được tiếp tục trong suốt học phần. 2.2. Kết quả nghiên cứu 2.2.1. Đánh giá kết quả triển khai lớp học đảo ngược Do khuôn khổ của bài báo, chúng tôi không trình bày các đánh giá định lượng qua kết quả học tập cuối khóa và so sánh đối chứng so với các lớp khác mà chỉ đánh giá định tính. Với các sinh viên có động cơ học tập tốt, họ tỏ ra thích thú với mô hình học tập này. Cho dù có đôi chỗ của chuẩn kiến thức và kĩ năng, sinh viên vẫn chưa thể nắm được trọn vẹn. Do với cách học này, giáo viên có thể sẽ bỏ qua nhiều phần mà họ cho là dễ đối với sinh viên. Tuy vậy với các sinh viên có động cơ học tập chỉ vì điểm số hay các bạn có năng lực tự học chưa tốt, thì tỏ ra 88 Nghiên cứu sử dụng mô hình lớp học đảo ngược những khó khăn thách thức và khả năng ứng dụng lo lắng và hoài nghi với cách học trên. Đối với họ, mô hình trên buộc họ phải làm việc nhiều, hơn nữa sẽ rất vất vả vì các sinh viên này không biết khi thi cử sẽ tái hiện những gì như trong cách học ghi và chép của dạy học truyền thống. Sinh viên có mã số 12S1021039 cho rằng: “Cách học này giúp chúng em phải làm việc nhiều và qua đó biết ra được nhiều điều”. Sinh viên có mã số 12S1021105: “ Việc chia nhóm để làm bài, sẽ dẫn đến hiện tượng nhiều sinh viên chủ quan, ỷ lại vào người khác”. Sinh viên có mã số 12S1021102, đặt câu hỏi: “Chúng em sẽ thi như thế nào?”, mặc dù chúng tôi đã công bố rõ ràng, hình thức thi là thi vấn đáp thông qua việc trình bày sản phẩm là chương trình quản lí mà các nhóm đã thực hiện. Với môn học mà mục tiêu chủ yếu là dạy học kĩ năng như Access, khi tổ chức lớp học chúng tôi đã quan tâm đến mô hình học tập của Kolb [9] và mô hình chiếm lĩnh kĩ năng của Dreyfus [5]. Với mỗi mục tiêu, người học cần đi hết một chu trình học trong mô hình của Kolb. Với các kinh nghiệm cụ thể đã có qua môn học Hệ quản trị cơ sở dữ liệu. Người học tìm hiểu lí thuyết về các chủ đề mà giáo viên đưa ra - đây chính là quá trình quan sát suy tưởng. Tiếp đó cũng qua các tài nguyên học tập, cũng như trong giờ học ở lớp. Giáo viên sẽ giúp người học trừu tượng hóa, khái quát hóa vấn đề. Tiếp đó người học cần trải nghiệm thực tế qua việc thực hiện các sản phẩm được giao nhằm báo cáo vào buổi học tiếp theo. Khi đó kinh nghiệm thực tế của người học được nâng lên và chu trình học tập của Kolb được tiếp tục. Mô hình chiếm lĩnh kĩ năng của Dreyfus cũng được chúng tôi áp dụng để nhận xét đánh giá sinh viên. Thông qua quá trình báo cáo sản phẩm, giáo viên cần xem xét sinh viên đã đạt được những kiến thức gì và những còn khiếm khuyết để bổ sung hay dặn dò họ tiếp tục hoàn thiện. Qua các buổi báo cáo này, sinh viên còn học được các kĩ năng quan trọng khác như kĩ năng diễn thuyết, kĩ năng bảo vệ thành quả lao động của mình. . . và hơn nữa là một quá trình tự nhận thức (meta cognitive) được diễn ra. Như vậy với lớp học đảo ngược, người học có thể tự lĩnh hội các kiến thức ở mức độ nhận thức ở mức thấp như biết, hiểu trong thang đo mức độ nhận thức của Bloom [1]. Với các kiến thức cần đạt được ở mức độ nhận thức cao hơn như vận dụng, tổng hợp đánh giá. . . người học sẽ được tiếp thu ở giờ học giáp mặt ở lớp và qua các bài tập đánh giá sau đó. Trong khi đó ở lớp học truyền thống diễn tiến trên lại được thực hiện ngược lại. 2.2.2. Những thách thức ở lớp học đảo ngược Qua kinh nghiệm dạy học, theo chúng tôi lớp học đảo ngược còn có các khó khăn sau: Rất khó để đảm bảo rằng, sinh viên đã xem bài giảng ở nhà và tham gia các bài học trực tuyến. Do đó nếu có quá nhiều sinh viên không chuẩn bị bài tốt, giáo viên buộc phải tóm lược lại toàn bộ bài giảng và như thế sẽ mất đi mục đích cốt yếu của lớp học đảo ngược là sinh viên phải chuẩn bị những kiến thức ở mức nhận thức cơ bản trước để có nhiều thời gian giải quyết các vấn đề khó hơn khi gặp giáo viên, trong khi họ chưa sẵn sàng để tiếp thu ngay cả những điều đơn giản nhất. Sinh viên có nền tảng kiến thức khác nhau, phong cách học tập khác nhau. . . nên nếu trong lớp có nhiều sinh viên đến từ nhiều vùng miền (trong lớp của chúng tôi dạy có một số bạn sinh viên người Lào, nên vốn tiếng Việt. . . của họ có phần hạn chế, cũng như sức học. . . cũng có khác đi), khi áp dụng một phương pháp dạy học nào đi nữa cần phải quan tâm đến đặc thù của giáo dục mỗi vùng miền, cũng như tính cách và kĩ năng của học sinh. 89 Nguyễn Thế Dũng Để học tốt với mô hình này, sinh viên phải có động cơ tự học. Nhưng mỗi sinh viên có động cơ học tập và mức độ tự học khác nhau. Với khối lượng kiến thức khổng lồ và số môn học trong một năm quá nhiều thì việc học tập theo phương pháp này là khó khả thi. Việc kiểm tra đánh giá cần có tiêu chí rõ ràng và là đánh giá toàn diện chứ không chỉ chú trọng đánh giá về mặt nội dung. Việc xây dựng các test để đánh giá sinh viên trước và sau các buổi học trên lớp hay đánh giá cuối khóa sẽ rất nặng nhọc vì các sinh viên khác nhau sẽ có các mức độ tiên quyết khác nhau, tiếp cận bài test trong các thời điểm khác nhau. Điều này sẽ gây khó khăn không chỉ trong việc quản lí sự công bằng chính xác của các test mà còn phải quản lí sinh viên làm sao để họ không làm thay cho nhau. Giáo viên, tổ bộ môn phải có một kế hoạch đồng bộ và xuyên suốt năm học vì không phải mọi bài học đều phù hợp với bất kì một phương pháp dạy học nào. Làm thế nào để sinh viên biết cách tự học? Sinh viên biết xác định mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ học tập, hoạt động học tập. . . như thế nào? vào khi nào? Dạng bài tập ở lớp như thế nào, đủ để bao trùm yêu cầu của từng module mà chương trình đưa ra? Nhằm đánh giá sinh viên đã hiểu đến đâu, nếu không nhiều khi giáo viên lại phải dạy lại toàn bộ module rất mất công sức. Do đó cần đề ra chuẩn kiến thức, kĩ năng của môn học thật rõ ràng. Với phương pháp dạy học nào đi nữa, thì giáo viên cũng phải “thể chế hóa” kiến thức. Vậy quy trình thực hiện thế nào? Thời gian dành ra để thực hiện công việc này đối với từng loại hình kiến thức, từng môn học. . . là bao nhiêu? Một môn học có nhất thiết phân chia thành từng bài học nhỏ như trong dạy học truyền thống không hay phân theo từng chủ đề hay theo tuần? Cơ chế pháp lí nào cho việc phân chia một môn học thành ra các giờ dạy học giáp mặt trên lớp và số giờ mà sinh viên cùng với sự hỗ trợ của giáo viên làm việc online ở ngoài lớp? Hơn nữa để thực hiện được mô hình dạy học đảo ngược giáo viên phải tốn nhiều công sức, người giáo viên không chỉ phải giỏi về kiến thức chuyên môn mà còn phải giỏi về công nghệ và vững về phương pháp dạy học. Trong khi đó cơ chế của phần lớn các trường Đại học ở nước ta hiện nay vẫn chưa hỗ trợ về tính pháp lí cũng như tính toán công sức hợp lí cho giáo viên với những công việc như tổ chức các tư liệu học tập trực tuyến, thời gian tham gia diễn đàn, hỗ trợ học tập trực tuyến . . . Với sinh viên không có động cơ học tập đúng đắn – chỉ học để đạt được điểm số cao, với cách kiểm tra đánh giá: thi theo kiểu tái hiện, ghi chép lại những gì có trong tài liệu. . . như thế sinh viên chỉ chờ đợi những tiết học giáp mặt để ghi chép lại, phán đoán ra những gì là mấu chốt và để đi thi, thì việc tổ chức lớp học đảo ngược này không khả thi. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để tạo động cơ cho người học và kĩ thuật kiểm tra đánh giá như thế nào cho hợp lí. Vừa qua chúng tôi đã tiến hành khảo sát về các thuận lợi và khó khăn khi triển khai mô hình dạy học đảo ngược trên 2 nhóm sinh viên mà chúng tôi đã tiến hành giảng dạy tại Khoa Tin học – ĐHSP Huế. Do khuôn khổ của bài báo, nên chúng tôi không thể trình bày về bộ câu hỏi, phân tích các kết quả khảo sát. . . Các dữ liệu của cuộc khảo sát có thể tham khảo tại địa chỉ sau: https://sites.google.com/site/nguyenthedunghue/Home/trang_danh_cho_sinhvien (xem file DHDNuoc.rar) 90 Nghiên cứu sử dụng mô hình lớp học đảo ngược những khó khăn thách thức và khả năng ứng dụng 3. Kết luận Lớp học đảo ngược với cụm từ “đảo ngược” ngoài ý nghĩa là đảo ngược tiến trình học tập, còn có cả nghĩa là đổi “chỗ ngồi” của Thầy với trò trong giờ học giáp mặt (đảo ngược theo nghĩa đen). Ưu điểm lớn nhất của cách dạy học này giúp giáo dục tinh thần dân chủ đối với người học. Nếu đánh giá một cách toàn diện và đánh giá theo năng lực thực hiện qua sản phẩm cụ thể thì qua thực nghiệm sơ bộ của chúng tôi, phần lớn sinh viên đã có sự tiến bộ vượt bậc. Qua những kết quả ban đầu, theo chúng tôi lớp học đảo ngược kết hợp với các phương pháp dạy học, quan điểm dạy học và kiểm tra đánh giá như dạy học hành động, dạy học giải quyết vấn đề, dạy học dự án, dạy học nhóm. . . sẽ là mô hình dạy học cho B-learning. Những thách thức đặt ra cho mô hình lớp học đảo ngược nói riêng, B-learning nói chung và đánh giá định lượng qua thực nghiệm sư phạm cho mô hình lớp học đảo ngược của môn học Hệ quản trị cơ sở dữ liệu Access sẽ được chúng tôi trình bày ở bài báo tiếp theo. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bloom, B. S. Rehage, Kenneth J.; Anderson, Lorin W.; Sosniak, Lauren A., eds., 1994. "Bloom’s taxonomy: A forty-year retrospective". Yearbook of the National Society for the Study of Education (Chicago: National Society for the Study of Education) 93 (2). ISSN 1744-7984, pp.1-8. [2] Christopher Pappas, 2013. The Flipped Classroom Guide for Teachers. [3] Clyde Freeman Herreid, Nancy A. Schiller, 2013. Case Studies and the Flipped Classroom. Journal of College Science Teaching, Vol. 42, No. 5, pp.62-66. [4] Dias, S. B., & Diniz, J. A., 2014. Towards an Enhanced Learning Management System for Blended Learning in Higher Education Incorporating Distinct Learners’ Profiles. Educational Technology & Society, 17 (x), pp.307–319. [5] Dreyfus, Stuart E.; Dreyfus, Hubert L., 2010. "A Five-Stage Model of the Mental Activities Involved in Directed Skill Acquisition". Washington, DC: Storming Media. Retrieved June 13. [6] Drysdale, J. S., Graham, C. R., Spring, K. J., & Halverson, L. R., 2013. An analysis of research trends in dissertations and theses studying blended learning. The Internet and Higher Education, 17, pp.90-100. [7] G. R. Lotrecchiano, P. L. McDonald, Lyons, T. Long, M. Zajicek-Farber, 2013. Blended Learning: Strengths, Challenges, and Lessons Learned in an Interprofessional Training Program. Matern Child Health J 17:1725–1734, DOI 10.1007/s10995-012-1175-8. [8] [9] Kolb, D. A., 1984. Experiential Learning. London: Prentice Hall. [10] Mahmoud Ibrahim Syam, 2014. Possibility of applying flipping classroom method in mathematics classes in foundation program at Qatar. Proceedings of SOCIOINT14- International Conference on Social Sciences and Humanities, 8-10 September - Istanbul, Turkey. [11] Oyeleke Oluniyi, Olagunju Oluwayemisi Elizabeth, Ayamolowo Sunday Joseph, Aribaba Foluso Oluwagbemiga, 2014. Pedagogical and Technical Implication of Conversion from Face-to-Face to Blended Learning. Journal of Education and Practice, Vol.5, No.30, pp.118-127. 91 Nguyễn Thế Dũng [12] Robert Talbert, 2012. Learning MATLAB in the Inverted Classroom. American Society for Engineering Education. [13] Tuncay Yigit, Arif Koyun, Asim Sinan Yuksel, Ibrahim Arda Cankaya, 2014. Evaluation of Blended Learning Approach in Computer Engineering Education. Procedia - Social and Behavioral Sciences, 141, pp.807-812. ABSTRACT Research to use flipped classroom model, the difficulties and challenges and the applicability Teaching with b-learning is a very interesting problem. In b-learning, the organizational model of the classroom in face-to-face class will be like? In this paper, we present a case study on the applicability of flipped classroom as a class organization model in b-learning. The flipped classroom can be considered as a class organization model in b-learning. The difficulties and challenges to the model as well as the applicability of the model and some initial experimental results for courses at Technical Pedagogy Department and Informatics Pedagogy Department of the Hue Pedagogical University also given. Keywords:B-learning; Flipped classroom (Inverted classroom, Reverse classroom; face-to-face classroom (offline classroom); Learning in an online environment; class organization model. 92

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf3824_ntdung_147_2178500.pdf
Tài liệu liên quan