Tài liệu Nghiên cứu sử dụng gel Fibrin chứa kháng sinh trong phòng ngừa và điều trị Biofilm vi khuẩn: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 261
NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG GEL FIBRIN CHỨA KHÁNG SINH
TRONG PHÒNG NGỪA VÀ ĐIỀU TRỊ BIOFILM VI KHUẨN
Đoàn Nguyên Vũ*, Trương Thanh Tùng*, Phạm Anh Vũ Thụy**, Trần Lê Bảo Hà*
TÓM TẮT
Mở đầu: Nhiễm trùng vật ghép là một trong những biến chứng nghiêm trọng nhất sau phẫu thuật. Gel
fibrin với nhiều ưu điểm như tương hợp sinh học, phân hủy sinh học, tính bám dính và cầm máu; phù hợp để làm
hệ thống phân phối kháng sinh tại chỗ.
Đối tượng và phương pháp: Trong nghiên cứu này, huyết tương thu nhận từ máu ngoại vi được sử dụng
để tạo gel fibrin bằng cách bổ sung ion Ca2+. Sau đó, gel fibrin chứa kháng sinh được đánh giá một số tính chất
như cấu trúc bề mặt, phân hủy sinh học, phân phối kháng sinh và khả năng phòng ngừa/điều trị biofilm vi khuẩn
in vitro.
Kết quả: Kết quả cho thấy gel fibrin là vật liệu thích hợp để phân phối kháng sinh kéo dài. Quan trọng, gel
fibrin chứa kháng ...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 29/06/2023 | Lượt xem: 397 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu sử dụng gel Fibrin chứa kháng sinh trong phòng ngừa và điều trị Biofilm vi khuẩn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 261
NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG GEL FIBRIN CHỨA KHÁNG SINH
TRONG PHÒNG NGỪA VÀ ĐIỀU TRỊ BIOFILM VI KHUẨN
Đoàn Nguyên Vũ*, Trương Thanh Tùng*, Phạm Anh Vũ Thụy**, Trần Lê Bảo Hà*
TÓM TẮT
Mở đầu: Nhiễm trùng vật ghép là một trong những biến chứng nghiêm trọng nhất sau phẫu thuật. Gel
fibrin với nhiều ưu điểm như tương hợp sinh học, phân hủy sinh học, tính bám dính và cầm máu; phù hợp để làm
hệ thống phân phối kháng sinh tại chỗ.
Đối tượng và phương pháp: Trong nghiên cứu này, huyết tương thu nhận từ máu ngoại vi được sử dụng
để tạo gel fibrin bằng cách bổ sung ion Ca2+. Sau đó, gel fibrin chứa kháng sinh được đánh giá một số tính chất
như cấu trúc bề mặt, phân hủy sinh học, phân phối kháng sinh và khả năng phòng ngừa/điều trị biofilm vi khuẩn
in vitro.
Kết quả: Kết quả cho thấy gel fibrin là vật liệu thích hợp để phân phối kháng sinh kéo dài. Quan trọng, gel
fibrin chứa kháng sinh có khả năng ức chế sự phát triển của biofilm vi khuẩn in vitro.
Kết luận: Nghiên cứu này là bước đầu cho việc phát triển hệ thống phân phối kháng sinh nhằm điều trị hiệu
quả đối với nhiễm trùng vật ghép.
Từ khóa: kháng sinh, biofilm, hệ thống phân phối thuốc, gel fibrin, nhiễm trùng vật ghép
ABSTRACT
THE RESEARCH ON USING FIBRIN GEL CONTAINING ABTIBIOTICS
IN PREVENTION AND TREATMENT OF BACTERIAL BIOFILM
Doan Nguyen Vu, Truong Thanh Tung, Pham Anh Vu Thuy, Tran Le Bao Ha
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 4 - 2019: 261 - 267
Objectives: Prosthetic vascular graft infection is one of the most serious complications after vascular
surgery. Fibrin gel has many useful characteristics as biocompatibility, biodegradation, adhesion and haemostasis
for development of local antibiotic delivery system.
Materials and method: In this study, plasma was collected from peripheral blood that was used to create
fibrin gel by supplement ion Ca2+. Fibrin gel containing antibiotic was then evaluated in some characteristics such
as surface structure, biodegradation, antibiotic delivery, and prevention of bacterial biofilm in vitro.
Results: The results showed that fibrin gel was excellent material for extended delivery of antibiotic. Most
importantly, fibrin gel containing antibiotic were able to inhibit growth of bacterial biofilm in vitro.
Conclusion: This research is the first step for development of antibiotic delivery system for effective
treatments for graft infection.
Keywords: antibiotic, biofilm, drug delivery system, fibrin gel, graft infection
ĐẶT VẤN ĐỀ
Gánh nặng chi phí hàng năm liên quan đến
nhiễm trùng vật ghép là 640 triệu USD(8). Tỷ lệ
mắc bệnh của nhiễm trùng vật ghép dao động từ
1-5%, thay đổi tùy theo vị trí cấy ghép, vật liệu
sinh học được sử dụng và các bệnh đồng mắc
phải của bệnh nhân. Tỷ lệ tử vong là khoảng 10-
25% trong vòng 30 ngày sau khi phát hiện và
*Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
**Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS. Đoàn Nguyên Vũ ĐT: 0348064416 Email: dnvu@hcmus.edu.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 262
gần 50% sau 1 năm(13).
Trong quá trình phẫu thuật, bệnh nhân
thường được cung cấp kháng sinh; đặc biệt là
trong phẫu thuật chỉnh hình vì diện tích phẫu
thuật lớn và vật liệu được cấy ghép trong cơ
thể. Ngoài ra, khi nhiễm trùng xảy ra ở vị trí
cấy ghép nơi mật độ mạch máu thấp, bệnh
nhân phải điều trị bằng kháng sinh liều cao và
trong một thời gian dài. Do đó, làm tăng nguy
cơ gây độc cho cơ thể bệnh nhân và tạo ra vi
khuẩn kháng kháng sinh(1,12). Ngoài ra, biofilm
phát triển trên bề mặt vật liệu cấy ghép đóng
một vai trò quan trọng trong những khó khăn
khi điều trị nhiễm trùng vật ghép. Trong
trường hợp này, điều trị nhiễm trùng vật ghép
bằng kháng sinh mà không loại bỏ vật ghép bị
nhiễm là không thể(13).
Để khắc phục những nhược điểm của việc
chữa trị nhiễm trùng vật ghép và cũng để ngăn
ngừa sự hình thành biofilm trên bề mặt vật liệu
cấy ghép, một hệ thống phân phối kháng sinh có
kiểm soát và trúng đích là cần thiết. Gel fibrin có
nhiều đặc điểm để trở thành một ứng cử viên
tiềm năng cho mục đích trên, như tính tương
hợp sinh học, đặc tính bám dính và cấu trúc lỗ
xốp tạo điều kiện cho việc phân phối các dược
phẩm(3,7). Mục đích của nghiên cứu này là phát
triển hệ thống phân phối kháng sinh tại chỗ từ
gel fibrin nhằm điều trị nhiễm trùng vật ghép
hiệu quả và ngăn ngừa biofilm vi khuẩn.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu thí nghiệm.
Đối tượng nghiên cứu
Máu ngoại vi được cung cấp bởi Trung tâm
truyền máu Chợ Rẫy, Bệnh viện Chợ Rẫy, Thành
phố Hồ Chí Minh.
Pseudomonas aeruginosa (P. aeruginosa) và
nguyên bào sợi người được cung cấp bởi Phòng
thí nghiệm Kỹ thuật mô và Vật liệu y sinh
(TEBM), Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học
Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
Phương pháp tạo gel fibrin
Máu ngoại vi được ly tâm 3000 vòng/phút
trong 10 phút. Sau khi ly tâm, lớp huyết tương
trên cùng được thu nhận và lặp lại bước ly tâm
một lần nữa. Sau đó, huyết tương được bảo
quản ở 4°C cho đến khi sử dụng. Huyết tương
được bổ sung 3 nồng độ dung dịch CaCl2
(Merck): 0,011M CaCl2 (gel A); 0,013M CaCl2 (gel
B); CaCl2 0,015M (gel C) và được ủ ở 37oC để tạo
gel fibrin.
Phương pháp đánh giá cấu trúc gel fibrin
Cấu trúc gel fibrin được xác định bằng
nhuộm Hematoxylin-Eosin (H&E) và kính hiển
vi điện tử quét (SEM).
Phương pháp đánh giá độ phân hủy gel fibrin
Độ phân hủy của gel fibrin được đánh giá
bằng cách ủ trong huyết tương người ở 37oC
trong 7 ngày. Khối lượng còn lại của gel fibrin
được xác định mỗi ngày.
Phương pháp đánh giá khả năng nạp và thải
kháng sinh của gel fibrin
Tạo đường chuẩn (Phương pháp Kirby- Bauer)
Các dung dịch huyết tương chứa
vancomycin được chuẩn bị ở các nồng độ khác
nhau (0,0625 mg/ml; 0,125 mg/ml; 0,25 mg/ml;
0,5 mg/ml; 1 mg/ml). Sau đó, khoanh giấy lọc
Whatman vô trùng được thêm 30 μl mỗi dung
dịch kháng sinh đã chuẩn bị, sau đó đặt trên đĩa
vi khuẩn và ủ ở 37°C. Sau 18 giờ, đường kính
của vòng kháng khuẩn được đo. Dựng đường
chuẩn thể hiện mối tương quan giữa nồng độ
kháng sinh và đường kính vòng kháng khuẩn(16).
Đánh giá khả năng nạp kháng sinh của gel
fibrin in vitro
Huyết tương được cho vào đĩa 4 giếng, sau
đó vancomycin được thêm vào cùng lúc với
dung dịch CaCl2 và ủ ở 37oC. Sau khi tạo gel
fibrin, dung dịch còn lại được thu nhận để xác
định nồng độ kháng sinh dựa trên đường chuẩn.
Đánh giá khả năng thải kháng sinh của gel
fibrin in vitro
Gel fibrin chứa kháng sinh được ủ trong
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 263
huyết tương và lắc 100 vòng/phút ở 37°C trong 7
ngày. Huyết tương được thu nhận và bảo quản ở
-20°C. Nồng độ kháng sinh được xác định trong
mỗi ngày thí nghiệm dựa trên đường chuẩn.
Phương pháp tạo mô hình biofim in vitro
P. aeruginosa được nuôi trong môi trường
TSA (Oxoid) ở 37oC qua đêm trong tủ ủ lắc.
Sau đó, P. aeruginosa tiếp tục được nuôi trong
môi trường TSB (Oxoid) chứa 2% glucose ở
37oC qua đêm trong tủ ủ lắc. Dung dịch P.
aeruginosa được pha loãng để đạt mật độ 5x105
CFU/ml trong môi trường TSB chứa 2%
glucose. Sau đó, dịch huyền phù vi khuẩn
được nuôi cấy trong các đĩa 96 giếng phủ
huyết tương và ủ ở 37oC trong 7 ngày.
Phương pháp đánh giá sự hình thành mô hình
biofilm in vitro
Mô hình biofilm hình thành trên các đĩa
được rửa hai lần bằng dung dịch PBS (Sigma) để
loại bỏ vi khuẩn tự do và bám dính lỏng lẻo. Sau
đó, các tế bào được cố định bằng cồn tuyệt đối
trong 10 phút và nhuộm crystal violet 1% trong
20 phút; sau khi rửa hai lần bằng PBS, các giếng
được làm khô tự nhiên. Crystal violet được hòa
tan với acid acetic 33% và độ hấp thụ của thuốc
nhuộm được đọc ở bước sóng 570 nm(14).
Bảng 1. Phân loại sự hình thành biofilm in vitro
Sự hình thành biofilm Average OD results
Không có biofilm OD ≤ 0,163
Biofilm yếu 0,163 OD ≤0,326
Biofilm trung bình 0,326 OD ≤0,652
Biofilm mạnh OD 0,652
Phương pháp đánh giá khả năng phòng ngừa
sự hình thành của biofilm in vitro
Gel fibrin chứa kháng sinh được đặt vào
từng giếng trong các đĩa 96 giếng vô trùng cùng
lúc với bổ sung dịch vi khuẩn và ủ ở 37°C trong
7 ngày. Khả năng phòng ngừa sự hình thành
biofilm in vitro được đánh giá bằng phương
pháp MTT và nhuộm crystal violet.
Phương pháp đánh giá khả năng điều trị
biofilm in vitro
Gel fibrin chứa kháng sinh được đặt vào
từng giếng trong các đĩa 96 giếng vô trùng đã có
mô hình biofilm sau 24 giờ và ủ ở 37°C trong 7
ngày. Khả năng điều trị biofilm in vitro được
đánh giá bằng phương pháp MTT và nhuộm
crystal violet.
Phương pháp MTT
Các mẫu biofilm trên đĩa được rửa hai lần
bằng dung dịch PBS để loại bỏ vi khuẩn bám
dính lỏng lẻo. Môi trường nuôi cấy được pha với
dung dịch MTT 5 mg/ml và ủ trong 3 giờ ở 37°.
Dung dịch được loại bỏ nhẹ nhàng và tủa được
hòa tan trong dimethylsulfoxide (DMSO), sau đó
đo ở bước sóng 570nm.
Xử lý số liệu
Số liệu thu nhận được xử lý theo chương
trình Statgraphic 7.0 của Trường Đại học
Michigan (Mỹ).
KẾT QUẢ
Kết quả tạo gel fibrin
Máu ngoại vi được ly tâm ở 3000 vòng/ phút
trong 10 phút; sau đó chất lỏng bề mặt được thu
nhận. Tốc độ ly tâm này không gây lắng protein
trong máu; đồng thời, các tế bào máu không bị
phá vỡ. Sau 2 lần ly tâm, huyết tương thu nhận
có màu vàng, thể tích huyết tương khoảng 45%
so với tổng thể tích máu ngoại vi (Hình 1).
A B C
Hình 1. Huyết tương thu nhận từ máu ngoại vi.
A. Máu ngoại vi; B. Máu ngoại vi sau ly tâm;
C. Huyết tương
Bảng 2. Thời gian hình thành của gel fibrin
Gel A B C
Thời gian hình
thành (phút)
20,67 0,58 15,33 0,58 13,33 0,58
Sau khi thêm dung dịch CaCl2, huyết tương
chuyển sang màu vàng đục. Sau khoảng 20
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 264
phút, gel fibrin được hình thành với hình dạng
của các vật chứa (Hình 2). Nồng độ dung dịch
CaCl2 càng cao thì thời gian hình thành của gel
fibrin càng nhanh (Bảng 2).
Hình 2. Gel fibrin hình thành với các dung dịch
CaCl2 nồng độ khác nhau
Kết quả cấu trúc gel fibrin
Hình ảnh chụp SEM cho thấy gel fibrin có
cấu trúc xốp được hình thành bởi các sợi protein
đan xen. Những sợi protein này có đường kính
khoảng 0,5 μm (Hình 3).
Hình 3. Hình ảnh chụp SEM của gel fibrin (x10.000)
Kết quả nhuộm H&E cho thấy kích thước lỗ
trung bình của gel fibrin tăng dần khi nồng độ
dung dịch CaCl2 tăng. Mặt khác, mật độ của các
lỗ trong gel giảm (Hình 4).
A B C
Hình 4. Hình ảnh nhuộm H&E của gel fibrin (x400). A: Gel A, B: Gel B, C: Gel C
Kết quả đánh giá độ phân hủy của gel fibrin
Kết quả sự phân hủy của gel fibrin trong
huyết tương người cho thấy gel fibrin phân hủy
liên tục trong 7 ngày. Khối lượng gel fibrin giảm
nhanh trong ngày đầu tiên (30 - 50%) và giảm
chậm hơn trong những ngày sau đó. Sau 7 ngày,
gel A và C bị phân hủy hoàn toàn; gel B còn lại
25% khối lượng ban đầu (Hình 5). Kết quả này
cho thấy gel fibrin có khả năng phân hủy sinh
học trong huyết tương người và gel B có thể tồn
tại lâu hơn 7 ngày.
Hình 5. Phần trăm khối lượng gel fibrin còn lại trong
7 ngày
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 265
Kết quả tạo đường chuẩn
Vancomycin được pha loãng với các nồng độ
khác nhau trong huyết tương thu nhận, sau đó
tạo vòng kháng khuẩn bằng phương pháp
Kirby- Bauer. Đường chuẩn cho thấy mối quan
hệ giữa nồng độ vancomycin và đường kính
vòng kháng khuẩn được xác nhận với độ chính
xác là 98,9% (Hình 6).
Hình 6. Đường chuẩn thể hiện mối tương quan giữa
nồng độ vancomycin và đường kính vòng kháng khuẩn
Kết quả đánh giá khả năng nạp kháng sinh của
gel fibrin in vitro
Kết quả cho thấy lượng vancomycin được
giữ lại của gel A và B tương đương (67,1% và
65,5%), lớn hơn lượng vancomycin được giữ lại
trong gel C (44,8%).
Kết quả đánh giá khả năng thải kháng sinh của
gel fibrin in vitro
Kết quả cho thấy gel A và B có khả năng giải
phóng lượng vancomycin tương đương (khoảng
30% lượng vancomycin trong gel) trong ngày
đầu tiên, trong khi đó gel C rất thấp (khoảng
14% lượng vancomycin trong gel). Gel A và B có
khả năng giải phóng vancomycin trong 5 đến 7
ngày, trong khi gel C chỉ có thể giải phóng
vancomycin trong 3 ngày.
Kết quả sự hình thành biofilm in vitro
Nghiên cứu này tạo biofilm trên các đĩa 96
giếng polypropylene được bao phủ bởi huyết
tương người bằng P. aeruginosa sinh trưởng
trong môi trường TSB chứa 2% glucose. Phân
tích SEM cho thấy các biofilm trưởng thành
được hình thành và phát triển dày đặc trên các
đĩa polystyrene với cấu trúc ba chiều nhiều lớp
(Hình 7). Ngoài ra, kết quả đạt được khi nhuộm
crystal violet sinh khối biofilm trong 24 giờ là
2,798 (>0,652) chứng minh rằng có sự hình thành
biofilm mạnh.
A B
Hình 7. Sự hình thành biofilm trên bề mặt của đĩa 96 giếng sau 24 giờ. A. Quan sát bằng kính hiển vi đảo ngược
(x100), B. Quan sát bằng kính hiển vi điện tử quét (x5.000)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 266
Kết quả đánh giá ảnh hưởng của gel fibrin
chứa kháng sinh lên sự hình thành của biofilm
in vitro
Hình 8. Đường cong tăng trưởng của vi khuẩn trong
các nhóm thí nghiệm
Với mục đích phòng ngừa sự hình thành
biofilm in vitro, gel fibrin chứa kháng sinh có khả
năng giải phóng lượng vancomycin lớn trong
vài ngày đầu (khoảng 30%) nhằm ngăn chặn sự
bám dính của tế bào vi khuẩn trên bề mặt đĩa
polypropylene. Ngoài ra, vancomycin liên tục
được giải phóng trong những ngày tiếp theo để
tiêu diệt tất cả các tế bào vi khuẩn còn lại. Sự
tăng sinh của vi khuẩn và hình thành biofilm
(OD570nm <0,163) không xuất hiện trong các giếng
chứa gel fibrin (Hình 8, Bảng 3).
Với mục đích điều trị biofilm in vitro, sau khi
gel fibrin chứa kháng sinh được thêm vào giếng,
sự tăng sinh của vi khuẩn giảm dần. Đến ngày
thứ 7, không có sự hiện diện của biofilm trong
các giếng nuôi cấy (OD570nm <0,163) (Hình 8, Bảng 3).
Bảng 3. Kết quả nhuộm crystal violet của sinh khối
biofiilm
Thời gian
(giờ)
Đối chứng
Nhóm phòng
ngừa
Nhóm điều trị
24 2,798 ± 0,494 0,044 ± 0,002 2,798 ± 0,494
168 0,781 ± 0,079 0,039 ± 0,002 0,039 ± 0,002
BÀN LUẬN
Vai trò của Ca2+ trong sự hình thành gel
fibrin là sự kích hoạt thrombin trong huyết
tương để giúp chuyển fibrinogen thành các
đơn phân fibrin, chúng sẽ liên kết với nhau
nhờ liên kết disulfide tạo thành sợi polymer.
Nồng độ CaCl2 tăng ảnh hưởng đến việc kích
hoạt thrombin để đẩy nhanh quá trình chuyển
đổi fibrinogen thành fibrin, cũng như thúc đẩy
việc kích hoạt yếu tố đông máu XIII làm cho
mạng lưới polymer của fibrin ổn định.Ngoài
ra, mức độ kích hoạt của thrombin ảnh hưởng
đến cấu trúc của mạng sợi fibrin. Mức độ hoạt
động cao của thrombin làm cho các sợi lớn
hơn, ít phân nhánh hơn, với các lỗ lớn hơn(6).
Đồng thời, thời gian tạo gel fibrin càng lâu thì
mật độ lỗ càng lớn(2).
Gel fibrin là vật liệu cầm máu từ protein
đông máu của huyết tương, thường được sử
dụng trong các quá trình phẫu thuật. Chúng
tương hợp và phân hủy sinh trong nhiều ngày
hoặc vài tuần tùy thuộc vào vị trí. Nhiều nghiên
cứu cho rằng kháng sinh có độ hòa tan thấp đặc
biệt phù hợp với hệ thống này(16), có thể do
kháng sinh hòa tan và khuếch tán chậm từ gel
fibrin. Hơn nữa, các kháng sinh có độ hòa tan
cao như gentamicin và ciprofloxacin được giải
phóng từ gel fibrin in vitro khoảng 5-7 ngày đối
với gentamicin(9) và khoảng 60 ngày đối với
ciprofloxacin(15), mặc dù hơn 66% được giải
phóng trong 2 ngày đầu tiên.
Kiểm tra độ nhạy của các tế bào vi khuẩn tự
do không thể giúp dự đoán khả năng kháng
kháng sinh in vivo của thiết bị y tế bị nhiễm
trùng. Ngày nay, nhiều nghiên cứu cho rằng
biofilm vi khuẩn có độ nhạy cảm với kháng sinh
thấp, trong khi vi khuẩn tự do thì không(10).
P.aeruginosa gây ra nhiễm trùng liên quan đến
biofilm và thường được tìm thấy trong các vết
thương và thiết bị y tế bị nhiễm trùng mãn tính
như chân giả, stent, ống thông và ống nội khí
quản(5,11). Nhiều nghiên cứu in vitro và lâm sàng
đã chỉ ra rằng biofilm có khả năng hình thành
trên bề mặt polypropylen và một trong những
nguyên nhân chính là P. aeruginosa(4,17).
KẾT LUẬN
Tạo thành công gel fibrin có kích thước lỗ từ
5 đến 28 μm, có khả năng tự phân hủy sinh học,
có khả năng nạp và thải kháng sinh hiệu quả.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 267
Ngoài ra, gel fibrin chứa kháng sinh có khả năng
phòng ngừa và điều trị mô hình bioflm in vitro.
Lời cảm ơn: Nghiên cứu được tài trợ bởi Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM)
trong khuôn khổ Đề tài mã số C2017-18-22.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Archer NK, Mazaitis MJ, Costerton JW, Leid JG, Powers ME,
Shirtliff ME (2011). Staphylococcus aureus biofilms: properties,
regulation, and roles in human disease. Virulence, 2:445-459.
2. Blombäck B, Carlsson K, Fatah K, Hessel B, Procyk R (1994).
Fibrin in human plasma: gel architectures governed by rate and
nature of fibrinogen activation. Thrombosis Research, 75:521-538.
3. Canonico S (2003). The use of human fibrin glue in the surgical
operations. Acta bio-medica: Atenei Parmensis, 74:21-25.
4. Engelsman A, Van der Mei H, Busscher H, Ploeg R (2008).
Morphological aspects of surgical meshes as a risk factor for
bacterial colonization. British Journal of Surgery, 95:1051-1059.
5. Hubert D, Réglier-Poupet H, Sermet-Gaudelus I, Ferroni A, Le
Bourgeois M, Burgel P-R, et al (2013). Association between
Staphylococcus aureus alone or combined with Pseudomonas
aeruginosa and the clinical condition of patients with cystic
fibrosis. Journal of Cystic Fibrosis, 12:497-503.
6. Janmey PA, Winer JP, Weisel JW (2009). Fibrin gels and their
clinical and bioengineering applications. Journal of the Royal
Society Interface, 6:1-10.
7. Katrancioglu N, Karahan O, Kilic AT, Katrancioglu O, Celik C,
Bakici MZ, et al (2012). Is sustained release of vancomycin from
fibrin glue effective to prevent methicillin-resistant
Staphylococcus aureus graft infection? African Journal of
Microbiology Research, 6:798-801.
8. Kilic A, Arnaoutakis DJ, Reifsnyder T, Black III JH, Abularrage
CJ, Perler BA, et al (2016). Management of infected vascular
grafts. Vascular medicine, 21:53-60.
9. Kram HB, Bansal M, Timberlake O, Shoemaker WC (1991).
Antibacterial effects of fibrin glue-antibiotic mixtures. Journal of
Surgical Research, 50:175-178.
10. Melake NA, Mahmoud HA, Al-Semary MT (2012). Bactericidal
activity of various antibiotics versus tetracycline-loaded
chitosan microspheres against Pseudomonas aeruginosa
biofilms. African Journal of Microbiology Research, 6:5387-5398.
11. Percival SL, Suleman L, Vuotto C, Donelli G (2015). Healthcare-
associated infections, medical devices and biofilms: risk,
tolerance and control. Journal of Medical Microbiology, 64:323-334.
12. Pye A, Lockhart D, Dawson M, Murray C, Smith A (2009). A
review of dental implants and infection. Journal of Hospital
infection, 72:104-110.
13. Revest M, Jacqueline C, Boudjemaa R, Caillon J, Le Mabecque V,
Breteche A, et al (2016). New in vitro and in vivo models to
evaluate antibiotic efficacy in Staphylococcus aureus prosthetic
vascular graft infection. Journal of Antimicrobial Chemotherapy,
71:1291-1299.
14. Stepanović S, Vuković D, Hola V, Bonaventura GD, Djukić S,
Ćirković I, et al (2007). Quantification of biofilm in microtiter
plates: overview of testing conditions and practical
recommendations for assessment of biofilm production by
staphylococci. Apmis, 115:891-899.
15. Tsourvakas S, Hatzigrigoris P, Tsibinos A, Kanellakopoulou K,
Giamarellou H, Dounis E (1995). Pharmacokinetic study of
fibrin clot-ciprofloxacin complex: an in vitro and in vivo
experimental investigation. Archives of Orthopaedic and Trauma
Surgery, 114:295-297.
16. Woolverton CJ, Fulton JA, Salstrom S-J, Hayslip J, Haller NA,
Wildroudt ML, et al (2011). Tetracycline delivery from fibrin
controls peritoneal infection without measurable systemic
antibiotic. Journal of Antimicrobial Chemotherapy, 48:861-867.
17. Yadav MK, Chae S-W, Go YY, Im GJ, Song JJ (2017). In vitro
multi-species biofilms of methicillin-resistant Staphylococcus
aureus and Pseudomonas aeruginosa and their host interaction
during in vivo colonization of an otitis media rat model.
Frontiers in Cellular and Infection Microbiology, 7:125.
Ngày nhận bài báo: 28/07/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/08/2019
Ngày bài báo được đăng: 14/09/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_su_dung_gel_fibrin_chua_khang_sinh_trong_phong_ng.pdf