Tài liệu Nghiên cứu rút nội khí quản sớm trên bệnh nhân mổ tim với tuần hoàn ngoài cơ thể: NGHIÊN CỨU RÚT NỘI KHÍ QUẢN SỚM TRÊN BỆNH NHÂN MỔ TIM
VỚI TUẦN HOÀN NGOÀI CƠ THỂ
Phạm Thị Lệ Xuân*, Nguyễn Văn Chừng**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Sử dụng liều lượng cao thuốc gây mê trong phẫu thuật tim khiến người bệnh hô hấp
điều khiển lâu dài, tăng ngày nằm viện, tăng giá thành, tăng tai biến, biến chứng. Từ thập niên 1980’s,
dùng phương pháp gây mê phối hợp - cân bằng, sử dụng hợp lý thuốc gây mê để giảm thời gian thở máy
sau mổ, thời gian nằm viện.
Phương pháp và kết quả nghiên cứu: Thực hiện 75 trường hợp phẫu thuật tim với THNTC tại khoa
GMHS BV. Chợ Rẫy. Tiêu chuẩn chọn bệnh: NYHAI I- II, EF> 55%, ALĐMP < 70mmHg, TGTHNCT< 120
phút; TGKĐM chủ < 90 phút. Khởi mê Hypnovel 0,1 – 0,15 mg/kg; Fentanyl5mcg/kg; Propofol 1,5 –
2mg/kg; Vecuronium 0,1mg/kg. Duy trì: Fentanyl 5mcg/kg;Vecuronium 0,05mg/kg/giờ; Propofol 2-
6mg/kg/giờ Đánh giá độ mê dựa...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 04/07/2023 | Lượt xem: 260 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu rút nội khí quản sớm trên bệnh nhân mổ tim với tuần hoàn ngoài cơ thể, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU RÚT NỘI KHÍ QUẢN SỚM TRÊN BỆNH NHÂN MỔ TIM
VỚI TUẦN HOÀN NGOÀI CƠ THỂ
Phạm Thị Lệ Xuân*, Nguyễn Văn Chừng**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Sử dụng liều lượng cao thuốc gây mê trong phẫu thuật tim khiến người bệnh hô hấp
điều khiển lâu dài, tăng ngày nằm viện, tăng giá thành, tăng tai biến, biến chứng. Từ thập niên 1980’s,
dùng phương pháp gây mê phối hợp - cân bằng, sử dụng hợp lý thuốc gây mê để giảm thời gian thở máy
sau mổ, thời gian nằm viện.
Phương pháp và kết quả nghiên cứu: Thực hiện 75 trường hợp phẫu thuật tim với THNTC tại khoa
GMHS BV. Chợ Rẫy. Tiêu chuẩn chọn bệnh: NYHAI I- II, EF> 55%, ALĐMP < 70mmHg, TGTHNCT< 120
phút; TGKĐM chủ < 90 phút. Khởi mê Hypnovel 0,1 – 0,15 mg/kg; Fentanyl5mcg/kg; Propofol 1,5 –
2mg/kg; Vecuronium 0,1mg/kg. Duy trì: Fentanyl 5mcg/kg;Vecuronium 0,05mg/kg/giờ; Propofol 2-
6mg/kg/giờ Đánh giá độ mê dựa vào lâm sàng: M, HA; CVP trong suốt cuộc mổ. - Rút nội khí quản sớm
có thể thực hiện an toàn với việc dùng thuốc hợp lý nên ít ảnh hưởng đến chức năng tim mạch trong và
sau phẫu thuật.
Kết luận: Gây mê phối hợp, cân bằng: An thần, Giảm đau, Thuốc mê và Dãn cơ thích hợp làm giảm
thời gian nằm viện vì ít rối loạn đổi huyết động học, người bệnh tĩnh nhanh nên rút nội khí quản sớm và
ít gây rối loạn về chức năng tim mạch, hô hấp sau mổ.
SUMMARY
EARLY EXTUBATION IN CARDIAC SURGERY PATIENT
WITH CARDIOPULMONARY BYPASS
Pham Thi Le Xuan, Nguyen Van Chung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 9 * Supplement of No 1 * 2005: 16 – 21
Background: Using high-dose opioids in cardiac anesthesia requires longterm postoperative
mechanical ventilation; causes many complications, prolonged CCU and hospital stay, high cost. Since
1980s, FTCA (Fast Track Cardiac Anesthesia), a balanced anesthesia combining anesthetics with low-dose
opioids, has reduced the duration of mecanical ventilation, CCU and hospital stay.
Objectives and method: Research on 75 patients in selective operation for congestive and acquired
heart disease. Including criteria: NYHA I-II, EF > 55%, PAPs < 70 mmHg, ASA I-II, CPB time < 120 min,
clamp time < 90 min. All patients were anesthesized with Propofol (5.5mg/kg/h), Fentanyl (15 mcg/kg),
Midazolam (0.1mg/kg), Vecuronium (0.1mg/kg). Collected data: haemodynamic changes, ABG
peroperative postoperative and postextubation. Research aims at feasibility and effectiveness of FTCA in
Cho Ray hospital.
Results: Overall doses of Fentanyl: 14.5 mcg/kg, Propofol: 5.3 mg/kg. Averaged postoperative
ventilation time: 232 min, stability of haemodynamic and vital signs and ABG.
Conlusions: FTCA with continuous administration of Propofol, Fentanyl, Midazolam, Vecuronium
* BV Chợ Rẫy, TPHCM
** Bộ môn Gây Mê Hồi Sức - ĐH Y Dược, TPHCM
16
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
induces stabilized hemodynamic, early conscious recovery, spontaneous respiration. Early extubation
does not cause cardiovascular and respiratory disturbances postoperatively.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật tim mở để sửa chữa các bệnh lý tim
do dị tật bẩm sinh hoặc mắc phải thực hiện trên tim
đã được làm ngưng đập (bằng cách làm lạnh và bơm
dung dịch gây liệt tim). Trong quá trình mổ, toàn bộ
chức năng tim và phổi được thay thế bằng hệ thống
tuần hoàn ngoài cơ thể (THNCT). Bắt đầu từ năm
1953, cho đến nay, phẫu thuật tim mở dù đã có
những bước tiến quan trọng, vẫn là một phẫu thuật
nặng nề, đặc biệt là những giờ và những ngày đầu
hậu phẫu. Trước đây, kỹ thuật sử dụng thuốc phiện
liều cao trong gây mê được phổ biến rộng rãi, và việc
thở máy kéo dài sau mổ là chuyện không thể tránh
khỏi, gây ra nhiều biến chứng, thời gian nằm hồi sức
kéo dài. Tuy nhiên, từ thập niên 80 của thế kỷ 20,
một xu hướng mới được hình thành: kỹ thuật gây mê
mổ tim tỉnh nhanh, rút nội khí quản sớm (FTCA:
Fast Tracking Cardiac Anesthesia) mà nội dung chính
là nghiên cứu một khuynh hướng gây mê cân bằng,
giảm bớt thời gian thở máy sau mổ, thời gian nằm ở
phòng hồi sức tim và tổng thời gian nằm viện. Những
tiến bộ trong hiểu biết về sinh lý bệnh học và hồi sức,
trong kỹ thuật mổ tim, kỹ thuật bảo vệ cơ tim dưới
tuần hoàn ngoài cơ thể, đã làm thay đổi diễn tiến hậu
phẫu của bệnh nhân mổ tim. Sự ra đời của các thuốc
mê mới có thời gian tác dụng ngắn đã được sử dụng
trên các bệnh nhân mổ tim, cho phép duy trì tình
trạng ổn định huyết động học trong mổ và bệnh
nhân thức tỉnh sớm sau mổ. Lợi ích của việc rút nội
khí quản sớm sau mổ (trong vòng 6-8 giờ sau khi
ngừng các can thiệp ngoại khoa) là: giảm các biến
chứng về hô hấp, tim mạch, giảm nhiễm trùng phổi
do thở máy kéo dài, do đó giải phóng máy thở và
giường hồi sức nhanh, tiết kiệm được chi phí phẫu
thuật. Ở các nước tiên tiến, nơi thực hiện mổ tim với
tuần hoàn ngoài cơ thể là thường quy, số lượng mổ
hàng năm khá lớn, nên việc luân chuyển bệnh nhân
an toàn và nhanh chóng ra khỏi phòng hồi sức, việc
giảm thời gian nằm viện cũng như chi phí nằm viện
là rất cần thiết. Phác đồ gây mê và tiêu chuẩn chọn
bệnh nhân cho vấn đề này đã được đề cập và thực
hiện từ cuối thập niên 80 của thế kỷ trước.
Trong nước, nghiên cứu rút nội khí quản sớm đã
được thực hiện ở hai trung tâm lớn về mổ tim: bệnh
viện Việt Đức (Hà Nội) và Viện tim Thành Phố Hồ
Chí Minh. Tại bệnh viện Chợ Rẫy, số lượng bệnh
nhân có nhu cầu phẫu thuật tim mạch, ngày càng
tăng. Vấn đề giảm thời gian thở máy, thời gian nằm
hồi sức mà vẫn đảm bảo chất lượng điều trị là rất cần
thiết. Vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu “Rút nội
khí quản sớm trên bệnh nhân mổ tim dưới tuần hoàn
ngoài cơ thể” nhằm mục đích đánh giá tính an toàn,
tính khả thi và hiệu quả của việc rút nội khí quản
sớm trên các bệnh nhân được mổ tim dưới tuần hoàn
ngoài cơ thể.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu được thực hiện trên 75 bệnh nhân
được lên chương trình phẫu thuật tim với tuần hoàn
ngoài cơ thể cho các bệnh lý tim bẩm sinh hoặc mắc
phải tại khoa Phẫu thuật lồng ngực -mạch máu và
khoa Phẫu thuật - gây mê hồi sức bệnh viện Chợ Rẫy.
- Tiêu chuẩn chọn bệnh: NYHA I-II, E F > 55%,
chỉ số tim/ngực < 0,6, aÙp lực động mạch phổi tâm
thu < 70mmHg, không có bệnh lý hô hấp, chức
năng gan, thận bình thường, không có biến chứng
trong quá trình gây mê và phẫu thuật, thời gian tuần
hoàn ngoài cơ thể < 120 phút, thời gian kẹp động
mạch chủ < 90 phút.
- Các bệnh nhân được tiền mê đêm trước mổ
bằng Atarax 50mg uống.
Bệnh nhân đến phòng mổ được đặt đường truyền
với kim luồn 16 hoặc 18G,lắp monitor theo dõi các
chức năng sống (điện tâm đồ, huyết áp không xâm
lấn, SpO2), tiền mê bằng Hypnovel 1-2mg tiêm tĩnh
mạch, thở oxy qua mask 3l/phút, gây tê tại chỗ để đặt
catheter động mạch quay nhằm theo dõi huyết áp
động mạch liên tục. Khởi mê với Hypnovel 0,1-
0,15mg/kg;Fentanyl 5mcg/kg; Propofol 1,5-2mg/kg;
Vecuronium 0,1mg/kg.
- Sau khi đặt nội khí quản, bệnh nhân được thở
17
máy với tần số 12 lần/phút, Vt 10ml/kg. Các thông số
máy thở sẽ được điều chỉnh để đảm bảo khí máu
động mạch bình thường (pH =7,35-7,40; PaCO2 từ
35-40mmHg)
- Duy trì mê: Fentanyl 5mcg/kg tiêm tĩnh
mạch trước rạch da, sau đó duy trì bơm tiêm điện
2mcg/kg/giờ và ngừng khi kết thúc
THNCT,Vecuronium 0,05mg/kg/giờ, giảm ½ liều
trong thời gian THNCT và ngừng khi ngừng máy,
Propofol 2-6mg/kg/giờ bằng bơm tiêm điện, giảm
½ liều trong THNCTvà ngừng khi đóng da. Đánh
giá độ mê chủ yếu dựa vào lâm sàng, tình trạng
mạch, huyết áp, CVP trong quá trình mổ; qua đó
điều chỉnh liều lượng, vận tốc tiêm truyền thuốc
mê và các thuốc vận mạch khi cần.
Tuần hoàn ngoài cơ thể được thực hiện với
máy Sarn, bộ phận trao dổi oxy loại màng. Trong
quá trình mổ, nhiệt độ trực tràng từ 30-34oC,
bảo vệ cơ tim bằng dung dịch liệt tim lạnh có
máu(cold blood cardioplegia). Sau khi tổn thương
tim được sửa chữa xong, bệnh nhân được làm
ấm đến 36,5oC (nhiệt độ trực tràng), và ngừng
tuần hoàn ngoài cơ thể khi tình trạng huyết
động cho phép. Protamine sulphate được dùng
để trung hoà héparine, bắt đầu khi đã ngưng
tuần hoàn ngoài cơ thể.
Ở phòng hồi sức, mức độ hồi tỉnh được đánh
giá mỗi 30 phút, theo thang điểm sau: 1.Bệnh
nhân không đáp ứng với kích thích đau, 2.Bệnh
nhân có đáp ứng với kích thích đau, 3. Bệnh
nhân đáp ứng theo y lệnh lời nói, 4.Bệnh nhân
tỉnh hoàn toàn. Khi tri giác bệnh nhân ở mức 3-
4, cho làm thử nghiệm cai máy thở. Bệnh nhân
thở qua ống nội khí quản với oxy 4l/phút, theo
dõi liên tục các thông số: độ bão hoà oxy qua
mạch nảy, huyết áp động mạch xâm lấn, điện
tâm đồ. Khi nhịp thở 12-20 lần/phút, SpO2 trên
95%, không thay đổi về huyết động học, thân
nhiệt >36,5 độ C trong vòng 30 phút, bệnh
nhân được kiểm tra khí máu động mạch. Nếu
pH> 7,35; PaCO2 không quá 50mmHg, PaO2
>100mmHg, SaO2 >95%, bệnh nhân được rút
nội khí quản.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1: Các đặc điểm trước mổ
Tuổi 35,55± 10,36(16-58)
Cân nặng (kg) 48,54± 6,39(38-67)
Chiều cao (cm) 159,65±7,46(142-175)
Diện tích da (m2 da) 1,53± 0,22(1,25-1,73)
Hématocrite (%) 40,18%
PaPs(mmHg) 39,097±11,84(20-61)
EF(%) 64,24 ± 6,13(55-79)
Chỉ số tim/ngực 0,55
Thay đổi huyết áp động mạch giai đoạn
trong mổ
0
20
40
60
80
100
120
140
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7
Thời điểm
G
ia
ù tr
ị HATT
HATB
HATTr
Thay đổi tần số tim giai đoạn trong mổ
0
20
40
60
80
100
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7
Thời điểm
Ta
àn
so
á ti
m
Tần số tim
Hình 1, 2: Thay đổi huyết áp, mạch trong quá trình
phẫu thuật
Bảng 2: Các dữ liệu về gây mê và phẫu thuật:
Midazolam (mg) 7,11 ± 2,68
Propofol (mg) 760,22 ± 124,04 (5,35 ±1,16 mg/kg/giờ)
Fentanyl (mcg) 751,00 ± 25,06 (14,52 ± 3,28 mcg/kg)
Vecuronium(mg) 12,45 ± 5,44
Thời gian gây mê (phút) 245,44 ± 23,77
Thời gian mổ (phút) 213,21 ± 46,33
Thời gian THNCT (phút) 83,24 ± 34,19
Thời gian kẹp ĐMC (phút) 56,68 ± 26,77
Thân nhiệt trong khi mổ (oC) 32,14 ± 6,37
Thời gian hồi tỉnh (phút) 35,43 ± 24,54 (10-90)
Thời gian hồi phục hô hấp 144, 07 ± 53, 96 (0-200)
Thời gian rút nội khí quản 232,45 ±42,52 (30-500)
18
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
BÀN LUẬN
Các đặc điểm trước mổ của bệnh nhân: Trọng
lượng trung bình là 48kg, so với nghiên cứu của các
tác giả nước ngoài thì thấp hơn (J. Bell: 74,8 kg,
Myles: 78kg). Điều này có thể được giải thích là do
đặc điểm dân tộc: bệnh nhân Việt Nam nhẹ cân hơn
các bệnh nhân gốc châu Aâu. Sự khác nhau về cân
nặng là một trong các yếu tố ảnh hưởng đến tổng
lượng thuốc gây mê sẽ dùng trong mổ. Trong số các
bệnh nhân nghiên cứu, số lượng bệnh nhân bị bệnh
tim bẩm sinh tương đương với số lượng bệnh nhân bị
bệnh tim mắc phải, trong số các dị tật tim bẩm sinh,
bệnh lý thông liên nhĩ chiếm đa số ở nghiên cứu này.
Điều này được giải thích là do trong các dị tật tim
bẩm sinh, bệnh thông liên nhĩ ít làm ảnh hưởng đến
chức năng tim. Nhận xét này cũng phù hợp với nhận
xét của hai tác giả Nguyễn Văn Chừng và Nguyễn Thị
Quý trong nghiên cứu “rút nội khí quản sớm ngay tại
phòng mổ sau mổ thông liên nhĩ”. Aùp lực động mạch
phổi tâm thu (PaPs) (tính theo mmHg, với giá trị
bình thường từ 16-20mmHg) trong nhóm bệnh nhân
được nghiên cứu là 39,01, cao nhất là 61mmHg.
Phân suất tống máu của tim (EF) (tính theo %, với
giá trị bình thường từ 65-75%) của các bệnh nhân
trong nhóm nghiên cứu là 64, 24. Không có bệnh
nhân nào có EF dưới 55%. Giá trị hématocrite trước
mổ trung bình của các bệnh nhân trong nhóm
nghiên cứu là 40,18%. Dựa trên kết quả nghiên cứu
2664 bệnh nhân, Surgenor và cộng sự nhận thấy khi
bệnh nhân có phân suất tống máu của tâm thất trái
EF < 40% là yếu tố làm chậm rút nội khí quản sau
mổ. Theo Higgins, hématocrite trước mổ dưới 34% là
một trong những yếu tố nguy cơ làm chậm rút nội
khí quản. Nghiên cứu rút nội khí quản trong 6h đầu
hậu phẫu cho các bệnh nhân phẫu thuật van tim, các
tác giả Nguyễn Văn Chừng và Nguyễn Thị Quý cũng
đã chọn những bệnh nhân có áp lực động mạch phổi
trước mổ tăng nhẹ hoặc vừa (48,63+19,15).
Thay đổi huyết động trong quá trình
phẫu thuật:
Theo lý thuyết, để duy trì một tình trạng mê và
giảm đau đầy đủ, bệnh nhân phải luôn được duy trì
một nồng độ có tác dụngvà ổn định của thuốc mê
trong huyết tương. Với Propofol, nồng độ huyết tương
có hiệu lực gây mê trung bình là 2-5mcg/ml huyết
tương, tương đương với liều duy trì 6-8mg/kg/giờ
truyền liên tục. Tuy nhiên, khi phối hợp Propofol
cùng thuốcgiảm đau nhóm á phiện để duy trì mê thì
nồng độ huyết tương có hiệu lực của Propofol có thể
thấp hơn.
Nghiên cứu của D’Attelis trên bệnh nhân phẫu
thuật van 2 lá cho thấy khi duy trì mê với propofol
1mcg/ml huyết tương/giờ và sufentanyl
0,9mcg/kg/giờ thì huyết động ổn định trong suốt
quá trình mổ và rút được nội khí quản sớm sau mổ.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, huyết áp động
mạch và nhịp tim có tăng nhẹ tại các thời điểm sau
khi rạch da và sau khi mở xương ức so với giá trị tại
các thời điểm sau khi khởi mê và trước khi rạch da.
Tuy nhiên, sự tăng này không có ý nghĩa thống kê
với p> 0,05. Sau đó, huyết áp ổn định trong suốt
quá trình mổ cho đến thời điểm ngừng phẫu thuật,
tần số tim và huyết áp động mạch đều trở lại giá trị
tương đương với thời điểm sau khi khởi mê và trước
khi rạch da. Trong suốt quá trình mổ, chúng tôi
nhận thấy có 32 bệnh nhân (chiếm 43%) phải sử
dụng thuốc hạ huyết áp trong khi mổ; tỷ lệ này
cũng phù hợp với một nghiên cứu của Nguyễn thị
Quý là 50% trên các bệnh nhân phẫu thuật van tim.
Mặt khác, có 16 bệnh nhân phải dùng thuốc tăng co
bóp cơ tim (Dopamine) vào thời điểm ngừng tuần
hoàn ngoài cơ thể. Các bệnh nhân này đều có phân
suất tống máu trước mổ trong giói hạn thấp của
nhóm nghiên cứu (EF từ 55-58%), trong đó có 5
bệnh nhân có áp lực động mạch phổi tâm thu trước
mổ ở giới hạn cao: PaPs từ 50-60mmHg, hoặc được
phẫu thuật trên 2 van tim (thay van 2 lá, sửa van 3
lá, thời gian tuần hoàn ngoài cơ thể dài (120-
130phút). Việc dùng thuốc trợ tim này cũng phù
hợp với nhận định của Royster R. L. và cộng sự về
các yếu tố tiên lượng cho việc dùng thuốc trợ tim
sau mổ. Theo Royster, khi bệnh nhân có EF từ 46-
65% trước mổ kết hợp thời gian tuần hoàn ngoài cơ
thể tới 101-150 phút thì có 34% số bệnh nhân phải
dùng thuốc trợ tim sau tuần hoàn ngoài cơ thể.
19
Các thuốc dùng trong phác đồ gây mê
rút nội khí quản sớm
Theo khuynh hướng hiện nay trên thế giới, điều
cơ bản khi lựa chọn thuốc gây mê cho phác đồ rút nội
khí quản sớm cho bệnh nhân phẫu thuật tim với tuần
hoàn ngoài cơ thể là sử dụng thuốc giảm đau nhóm
thuốc phiện liều thấp phối hợp với thuốc mê có thời
gian tác dụng ngắn. Kỹ thuật gây mê bằng phương
pháp tiêm truyền liên tục đã được nhiều tác giả
nghiên cứu về tác dụng trên huyết động, thời gian
tỉnh, thời điểm phục hồi hô hấp tự nhiên, các biến
chứng sau mổ và sau khi rút nội khí quản. Kết quả
cho thấy phương pháp này tốt hơn hẳn việc gây mê
cổ điển tiêm từng liều ngắt quãng vì giảm được liều
các thuốc mê sử dụng trong mổ mà vẫn đảm bảo
huyết động ổn định, thời gian ức chế hô hấp sau mổ
ngắn hơn. Propofol với tính năng ưu việt về thời gian
tác dụng ngắn đã được sử dụng khá phổ biến trong
mổ tim.Vermeyen đã chứng minh không có tác dụng
hư hại đáng kể đến chức năng tim mạch khi sử dụng
phối hợp propofol và fentanyl liều nhỏ để khởi mê và
duy trì mê trên các bệnh nhân mổ bắc cầu động
mạch vành.Về mặt dược lực học, khi gây mê đơn
thuần với Propofol có thể xảy ra hiện tượng thức tỉnh
trong lúc gây mê ở một số bệnh nhân, dù trên lâm
sàng, các dấu hiệu về huyết động học cho thấy độ mê
đủ sâu, và giảm đau tốt. Do tác dụng gây quên thuận
chiều của Midazolam nên khi phối hợp midazolam
với propofol sẽ tránh được hiện tượng này. Phối hợp
Midazolam-Propofol tạo nên tác dụng hiệp lực; sự kết
hợp 3 thuốc Propofol- fentanyl và Midazolam làm
tăng thêm tác dụng hiệp lực này.
Theo các kết quả nghiên cứu của chúng tôi, liều
lượng propofol trung bình là 5,35+ 1,16 mg/kg/giờ và
tổng liều là 760,22 + 124,04 mg; so với kết quả của
Nguyễn thị Quý (tổng liều là 276,77 mg)trong nghiên
cứu rút nội khí quản ngay tại phòng mổ cho bệnh
nhân phẫu thuật vá lỗ thông liên nhĩ thì chúng tôi
dùng nhiều thuốc hơn hẵn. Điều này có thể giải thích
là do thời gian mổ của chúng tôi lâu hơn (213 phút so
với 96 phút), nhưngliều lượng trung bình tính theo
cân nặng của 2 nghiên cứu là tương đương (khoảng
5,5mg/kg/giờ). So với các kết quả của Myles, Atellis
thì lượng propofol của chúng tôi tấp hơn, dù thời gian
mổ là tương đương, do trọng lượng của bệnh nhân
thấp hơn. Lý do chúng tôi quan tâm nhiều đến tổng
liều propofol dùng trong gây mê là do dù đã có nhiểu
thay đổi về giá thành, cho đến nay thuốc mê này vẫn
còn khá đắt tiền so với thu nhập bình quân của người
bệnh, đặc biệt trong phẫu thuật tim mở còn có
những chi phí khác cho hệ thống tuần hoàn ngoài cơ
thể, cho van tim, truyền máu...Tuy nhiên, khi rút
được nội khí quản sớm sau mổ thì sẽ có nhiều tiết
kiệm khác để giảm được chi phí chung. Liều Fentanyl
dùng trong phẫu thuật trong nghiên cứu của chúng
tôi trung bình là 14,52 + 3,28 mcg/kg. So với nghiên
cứu của Myles, Royse thì không có sự khác biệt
(khoảng 15mcg/kg/giờ. Một nghiên cứu của Lin Lin
và cộng sự so sánh ảnh hưởng lên hệ giao cảm và
huyết động học khi gây mê với các nồng độ fentanyl
khác nhau (15mcg/kg, 50mcg/kg, 75mcg/kg) trên các
bệnh nhân phẫu thuật bắc cầu mạch vành đã nhận
thấy: không có sự khác biệt về ảnh hưởng lên hệ
thống giao cảm và huyết động giữa các nhóm nghiên
cứu, nhưng thời gian rút nội khí quản giữa các nhóm
thì khác biệt rõ rệt: từ 4-6 giờ cho nhóm nồng độ
thấp, >12 giờ cho nhóm còn lại. Về vai trò của thuốc
dãn cơ, chúng tôi sử dụng Vecuronium, một thuốc
dãn cơ có thời gian tác dụng trung bình, với đặc tính
ổn định tim mạch cao. Thời gian từ lúc ngưng thuốc
đến khi kết thúc phẫu thuật khoảng hơn 1giờ,thuốc
được duy trì bằng bơm tiêm điện với nồng độ thấp và
ổn định; do đó, đến thời điểm tập thở thông thường
tác dụng của thuốc dãn cơ cũng đã hết. Chúng tôi
đánh giá độ dãn cơ khi tập thở bằng các test lâm sàng
(nâng đầu, giữ cổ trong 5 giây) hoặc dùng máy kích
thích thần kinh cơ.
Thay đổi huyết động trong giai đoạn
sau mổ
Ở thời điểm tập thở và sau khi rút nội khí quản,
huyết áp động mạch tăng so với thời điểm trước khi
rạch da và khi ngừng mổ. Sự tăng này có ý nghĩa với
p< 0,05. Tần số tim cũng tăng so với thời điểm trước
khi rạch da, nhưng so với thời điểm ngừng mổ thì tăng
không đáng kể. Kết quả này phù hợp với nhận xét của
D’ Attellis khi nghiên cứu trên các bệnh nhân được
20
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
phẫu thuật van tim. Nghiên cứu chỉ ra rằng trong giai
đoạn tập thở và sau rút nội khí quản, huyết áp động
mạch tăng so với thời điểm trước khi rạch da (với
p<0,01); còn tần số tim thì hầu như không đổi. Cũng
trong nghiên cứu của D’Attellis, chỉ số tim (CI: Cardiac
Index) gia tăng 21% sau rút nội khí quản, cón sức cản
mạch máu hệ thống ngoại biên (SVR: Systemic
Vascular Resistance), chỉ số tống máu (SVI: Stroke
Volum Index), chỉ số công của thất trái (LVSWI: Left
Ventricular Stroke Work Index) thì hầu như không thay
đổi. Qua khảo sát này cho thấy việc rút nội khí quản
sớm không gây tổn thương chức năng tim mạch trên
các bệnh nhân sau mổ tim. Tương tự, theo kết quả thu
được của Myles và cộng sự, trong giai đoạn tập thở và
sau rút nội khí quản, huyết áp động mạch và chỉ số tim
tăng 15%, còn các thông số khác như tần số tim, áp lực
tĩnh mạch trung tâm, PCWP, chỉ số công của thất trái
thì không thay đổi.Trong nhóm nghiên cứu của chúng
tôi, không có bệnh nhân nào phải dùng thêm thuốc trợ
tim trong giai đoạn sau mổ; còn các bệnh nhân đã dùng
thuốc trợ tim từ trong mổ ở giai đoạn ngừng tuần hoàn
ngoài cơ thể thì không phải tăng liều trong thời gian
nằm ở phòng hồi sức. Theo nghiên cứu của Nguyễn văn
Chừng, Nguyễn thị Quý và cộng sự, sau khi rút nội khí
quản, chức năng tim sẽ được cải thiện hơn do tăng công
nhát bóp và tăng cung lượng tim. Kết quả khí máu động
mạch sau khi rút nội khí quản cho thấy không có tình
trạng toan huyết ở tất cả các bệnh nhân, các thông số
đều trong giới hạn bình thường; các thông số như
PaCO2, SaO2, pH máu đều thay đổi ít so với khi tự thở
qua ống nội khí quản, riêng PaO2 có giảm nhưng mức
giảm không có ý nghĩa thống kê.
Qua các kết quả nêu trên, có thể cho thấy việc rút
nội khí quản sớm với phác đồ nêu trên không ảnh
hưởng đến chức năng tim mạch sau phẫu thuật.
KẾT LUẬN
Gây mê bằng phối hợp fentanyl giảm đau liều
thấp (15-20mcg/kg) và Propofol duy trì liên tục qua
bơm điện tự động, không gây ra những rối loạn quan
trọng về huyết động sau khi khởi mê cũng như trong
suốt quá trình duy trì mê. Với phương pháp gây mê
này, bệnh nhân tỉnh sớm, hồi phục hô hấp nhanh và
thời gian thở máy sau mổ được rút ngắn. Việc rút nội
khí quản sớm sau mổ không gây rối loạn về chức
năng tim mạch, hô hấp sau mổ, đồng thời giảm bớt
được chi phí chung cho phẫu thuật do giảm bớt biến
chứng, thời gian nằm tại phòng hồi sức sau mổ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cheng DCH., Wall C et al (1998) “Randomized
Assessment of Resource Use in fast- track cardiac
surgery 1-year after hospital discharge” Anesthesiology,
Lippincott William and Wilkins, 98, p p 651-7
2. D’ Attelis N., Robin A.N., Delayance S., Carpentier
A.,(1997) “Early extubation after mitral valve surgery:A
target con trolled inffusion of propofol and low dose
sufentanil”, J. cardiothorac. Vsac. Anaesth. Vol 11, No 4,
p p 467-473
3. D’Attellis(1997) N. “Extubation précoce:technique
d’anesthésie” ARTECC p p 37-39.
4. Estanove S. (1997) “Evolution de l’anesthésie-
réanimation en chirurgie cardiaque” ARTECC 1997, p p
3-11.
5. Higgins T.L. (1995) “Safety issues regarding early
extubation after coronary artery bypass surgery”, J.
Cardiothorac. Vasc. Anesth. 9, p p 24-29
6. Lee J. H., Andrey J. et al (1999) “Fast-track recovery of
elderly coronary bypass surgery patient” Ann. Thorac.
Surg, 68, p p 437-441
7. Myles P.S, Buckand M. et al (1997) “Hemodynamic
effects, myocardil ischemia and timing of trachheal
extubation with propofol based anaesthesia for the
cardiac surgery” Anesth. Analg. 1997, 84, p p 12-19
8. Nguyễn Thị Quý, Võ Văn Phan và cộng sự (2000) “Rút
ống nội khí quản sớm trong gây mê bằng phối hợp
sufentanil và propofol ở bệnh nhân mổ van tim” Thời sự
Y dược học số 10/2000 p p 229-232
9. Nguyễn Văn Chừng, Nguyễn Thị Quý (2000) “Rút nội khí
quản sớm ngay tại phòng mổ sau mổ thông liên nhĩ” Hội
nghị khoa học gây mê hồi sức toàn quốc tháng 8-2000
10. Royster R.L., Butter J. F. et al(1991) “Preoperative and
intraoperative predictors of inotropic support and long-
term outcome in patient having coronary artery bypass
grafting” Anesth. Analg.1991, 72, p p 729-736
21
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_rut_noi_khi_quan_som_tren_benh_nhan_mo_tim_voi_tu.pdf