Tài liệu Nghiên cứu nhân sinh khối vi tảo haematococcus pluvialis và các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tổng hợp Astaxanthin: VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
1008
NGHIÊN CỨU NHÂN SINH KHỐI VI TẢO Haematococcus pluvialis VÀ
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG TỔNG HỢP ASTAXANTHIN
Đặng Phú Hoàng, Phạm Tú Anh, Nguyễn Đức Bách (*)
Học viện Nông nghiệp Việt Nam
TÓM TẮT
Haematococcus pluvialis là loài vi tảo nước ngọt có khả năng tổng hợp astaxanthin.
Astaxanthin có màu đỏ thuộc nhóm β-caroten có giá rất cao được dùng làm thuốc chống oxy hóa và
chất tạo màu tự nhiên trong nuôi tôm, cua và cá hồi. Trong nghiên cứu này các yếu tố ảnh hưởng tốc
độ sinh trưởng, vòng đời và khả năng tổng hợp astaxanthin của H. pluvialis được khảo sát. Kết quả
đánh giá các môi trường C, RM và BBM cho thấy H. pluvialis sinh trưởng tốt nhất trong môi trường C
với mật độ đạt cực đại 27,89×104 tế bào/ml. Bổ sung NaNO3 699,2 mg/l vào môi trường C kích thích
tăng sinh khối ở mật độ cao nhất 34,85×104 tế bào/ml. Các hormon thực vật, 1-naphthaleinacetic acid
(NAA) và gibberellin (GA3) kích thích sinh trưởng của tế bà...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 495 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu nhân sinh khối vi tảo haematococcus pluvialis và các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tổng hợp Astaxanthin, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
1008
NGHIÊN CỨU NHÂN SINH KHỐI VI TẢO Haematococcus pluvialis VÀ
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG TỔNG HỢP ASTAXANTHIN
Đặng Phú Hoàng, Phạm Tú Anh, Nguyễn Đức Bách (*)
Học viện Nông nghiệp Việt Nam
TÓM TẮT
Haematococcus pluvialis là loài vi tảo nước ngọt có khả năng tổng hợp astaxanthin.
Astaxanthin có màu đỏ thuộc nhóm β-caroten có giá rất cao được dùng làm thuốc chống oxy hóa và
chất tạo màu tự nhiên trong nuôi tôm, cua và cá hồi. Trong nghiên cứu này các yếu tố ảnh hưởng tốc
độ sinh trưởng, vòng đời và khả năng tổng hợp astaxanthin của H. pluvialis được khảo sát. Kết quả
đánh giá các môi trường C, RM và BBM cho thấy H. pluvialis sinh trưởng tốt nhất trong môi trường C
với mật độ đạt cực đại 27,89×104 tế bào/ml. Bổ sung NaNO3 699,2 mg/l vào môi trường C kích thích
tăng sinh khối ở mật độ cao nhất 34,85×104 tế bào/ml. Các hormon thực vật, 1-naphthaleinacetic acid
(NAA) và gibberellin (GA3) kích thích sinh trưởng của tế bào. Bổ sung NaCl từ 1 đến 2%, cường độ
ánh sáng mạnh và salicylic acid (SA) đã kích thích H. pluvialis chuyển sang giai đoạn bào nang, tổng
hợp và tích lũy astaxanthin.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong điều kiện khí hậu thay đổi và diện
tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, nuôi
sinh khối vi tảo đang và sẽ là một lĩnh vực có
tiềm năng ứng dụng lớn. Trong số các loài tảo
lục, H. pluvialis có khả năng tổng hợp
astaxanthin được dùng phổ biến trong nuôi
trồng thủy sản, công nghiệp thực phẩm, dược
phẩm và thực phẩm chức năng. Do nhu cầu sử
dụng astaxanthin tự nhiên ngày càng tăng nên
nhiều nước đã phát triển công nghệ sản xuất
chất này từ vi tảo H. pluvialis ở quy mô công
nghiệp như Israel, Trung Quốc (Aflalo, 2004).
Quy trình nuôi H. pluvialis để thu astaxanthin
gồm hai giai đoạn, nhân sinh khối (sinh dưỡng)
và cảm ứng tổng hợp astaxanthin (bào nang).
Để sản xuất được astaxanthin cần phải chủ
động điều khiển cả hai giai đoạn này. Trên thực
tế nhân sinh khối H. pluvialis rất khó vì tảo có
tốc độ sinh trưởng thấp, dễ tạp nhiễm và nhạy
cảm với sự thay đổi của môi trường.
Đến nay, nhiều nghiên cứu tìm điều kiện
để tảo sinh trưởng nhanh, kéo dài giai đoạn
sinh dưỡng và kích thích phân chia tế bào. Quá
trình tích lũy astaxanthin có thể cảm ứng bởi
các điều kiện tăng áp suất thẩm thấu, bổ sung
salicylic acid (Boussiba và Voshak, 1991).
Xuất phát từ vấn đề trên, nghiên cứu này nhằm
xác định môi trường và điều kiện nuôi phù hợp
để nhân sinh khối và cảm ứng astaxanthin ở H.
pluvialis. Kết quả sẽ là cơ sở để nuôi thử
nghiệm ở quy mô pilot ở giai đoạn tiếp theo.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Chủng tảo H. pluvialis được lưu giữ tại
Khoa Công nghệ sinh học, Học viện Nông
nghiệp Việt Nam. Tảo được được lưu giữ trong
môi trường RM, ở nhiệt độ 25°C, cường độ
chiếu sáng 2000 lux, chu kì sáng tối 12/12 giờ.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Khảo sát môi trường tối ưu
Khi tế bào H. pluvialis ở trạng thái sinh
dưỡng (80 - 90% tổng số tế bào) trong môi
trường RM, dịch nuôi được ly tâm ở 2500 g
trong 5 phút để thu thế bào. Tế bào sau đó
được đưa vào 200 ml môi trường C, RM hoặc
BBM với mật độ 5×104 tế bào/ml ở bình tam
giác ở nhiệt độ 25°C, cường độ chiếu ánh sáng
2 klux, chu kì sáng tối 12/12 giờ. Mỗi công
thức thí nghiệm được lặp lại 3 lần. Sau mỗi 2
ngày nuôi, tốc độ sinh trưởng và hình thái được
đo và quan sát dưới kính hiển vi. Tốc độ sinh
trưởng của vi tảo H. pluvialis được đánh giá
qua mật độ tế bào bằng buồng đếm Neubauer.
Ảnh hưởng của các yếu tố đến tốc độ sinh
trưởng và tổng hợp astaxanthin
Trên nền môi trường thích hợp, NaNO3
được bổ sung với hàm lượng khác nhau. Tốc
độ sinh trưởng được đánh giá sau mỗi 2 ngày
thông qua hàm lượng chlorophyll và
astaxanthin. Ảnh hưởng của các chất điều tiết
sinh trưởng, NAA và GA3 cũng được đến pha
sinh trưởng của tảo cũng được khảo sát. Những
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai
1009
yếu tố anh hưởng đến khả năng tổng hợp
astaxanthin bao gồm NaCl, salicylic acid và
cường độ ánh sáng đã được khảo sát. Mỗi thí
nghiệm được bố trí với 3 lần nhắc lại.
Xác định hàm lượng chlorophyll và
astaxanthin
Sinh khối tảo khô được nghiền bằng cát
thủy tinh và chiết bằng aceton kết hợp HCl
(Sarada và ctv., 2006). Sinh khối khô (25 mg)
được nghiền trong cối sứ có cát thủy tinh, bổ
sung 5 ml HCl 2N, trộn đều và ủ ở 70°C trong
10 phút. Mẫu sau đó được li tâm 5000 g trong
5 phút. Dịch nổi được hút vào bình định mức.
Phần cặn tiếp tục nghiền và bổ sung acetone và
li tâm. Cuối cùng dịch được gom lại bình định
mức, bổ sung acetone đến 25 ml. Dịch được đo
ở các bước sóng 665, 645, 630 và 480 nm.
Hàm lượng các sắc tố được tính theo công thức
mô tả bởi Strickland và Parsons (1997). Hàm
lượng sắc tố (μg/l) = C/V. Trong đó hàm lượng
sắc tố được tính bằng µg/l, V là thể tích dịch
tảo đem lọc (l), C là giá trị nhận từ các công
thức tương ứng sau:
Chlorophyll a, C = 11,6 × OD665 -
1,31 × OD645 - 0,14 × OD630
Chlorophyll b, C = 20,7 × OD645 -
4,34 × OD665 - 4,42 × OD630
Carotenoid, C = 4,0 × OD480
Đối với tảo H. pluvialis, hàm lượng
carotenoid tổng số của tế bào chủ yếu là
astaxanthin hấp thụ ở bước sóng 480 nm. Do
vậy, hàm lượng carotenoid ở tảo H. pluvialis
được xem chính là hàm lượng astaxanthin
(Đặng D.H. và ctv., 2010).
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Khảo sát môi trường tối ưu
Khảo sát các môi trường C, RM và BBM
cho thấy mật độ tế bào H. pluvialis trong môi
trường C đạt cao nhất 27,89 × 104 tế bào/ml
vào ngày thứ 20, trong khi ở môi trường RM
và BBM mật độ tế bào là 21,32 và 23,35 tại
cùng thời điểm (hình 1). Môi trường không làm
thay đổi thời gian của các pha ở đường cong
sinh trưởng nhưng có sự khác biệt về mật độ tế
bào. Đối với một số nghiên cứu RM là môi
trường trường thích hợp nhất cho sinh trưởng
(Đặng D.H và ctv, 2010). Tuy nhiên, ở một số
nghiên cứu khác, BBM được coi là hiệu quả
nhất cho sinh trưởng của vi tảo (Domínguez và
ctv., 2004). Sự khác biệt này có thể là do các
chủng giống.
Trong 6 ngày đầu ở cả 3 môi trường, H.
pluvialis sinh trưởng ổn định và đạt mật độ cao
nhất trong môi trường RM. Sau đó, tảo sinh
trưởng mạnh hơn ở môi trường C. Điều này có
thể do môi trường RM ban đầu có hàm lượng
nitơ cao hơn so với 2 môi trường còn lại. Tuy
nhiên sau 6 ngày tảo sinh trưởng tốt nhất trong
môi trường C, nguyên nhân có thể do môi
trường C chứa tris aminomethane giúp duy trì
ổn định pH môi trường. Giá trị pH của môi
trường ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng trưởng
tế bào và tích lũy carotenoid vì liên quan để
khả năng hòa tan của CO2 và khoáng chất. Từ
kết quả này, môi trường C được sử dụng để
nhân sinh khối, tạo nguồn vật liệu cho các
nghiên cứu tiếp theo.
Hình 1. Mật độ tế bào tảo trên các môi trường
Ghi chú: (?) C; (?) RM; (▲) BBM
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
1010
3.2. Khảo sát vòng đời của H. pluvialis
Trong 10 ngày đầu nuôi, 90% các tế bào
H. pluvialis ở trạng thái tế bào sinh dưỡng có
màu xanh, hình elip, có thể chuyển động. Từ
ngày 10 đến ngày 20, tế bào tảo chuyển từ
dạng sinh dưỡng sang dạng bào nang, hầu hết
tế bào có hình cầu, màu xanh, kích thước tế
bào đạt cực đại, mất roi. Sau 20 ngày, tế bào
bắt đầu chuyển sang màu đỏ do tổng hợp
astaxanthin. Đến ngày thứ 25, khoảng 90% các
tế bào tảo bất động, màu đỏ đậm. Quá trình nảy
mầm của tảo H. pluvialis được theo dõi khi bổ
sung dinh dưỡng vào môi trường nuôi cấy. Tế
bào chuyển từ trạng thái bào nang (màu đỏ)
sang tế bào sinh dưỡng (màu xanh) do sự phân
giải astaxanthin. Sau 5 ngày, khoảng 80% tế
bào ở trạng thái sinh dưỡng và lại bắt đầu nhân
đôi duy trì pha sinh dưỡng.
Hình 2. Hình thái tế bào qua các giai đoạn dưới kính hiển vi
(1) tế bào sau 10 ngày nuôi cấy, (2) từ 10-20 ngày, (3) tế bào ở ngày 25, (4) tế bào sau 5 ngày bổ sung
môi trường mới
3.3. Ảnh hưởng của các yếu tố đến tốc độ
sinh trưởng
Ảnh hưởng của nitrat
Hàm lượng nitrat từ 174,8 mg/l đến
1048,8 mg/l được bổ sung vào môi trường C.
Sau 20 ngày, mật độ tế bào cao nhất đạt
37,05×104 tế bào/ml khi môi trường có nồng độ
nitrat 699,2 mg/l. Nhìn chung, mật độ tế bào
tăng dần tỉ lệ với hàm lượng nitrat bổ sung.
Tuy nhiên, ở nồng độ nitrat 1048,8 mg/l, mật
độ tế bào chỉ đạt 87% so với mức 699,2 mg/l
(hình 3). Điều này có thể do khi nồng độ nitrat
quá cao sẽ ức chế sự sinh trưởng của vi tảo (Lê
T.T. và ctv., 2013).
Hình 3. Ảnh hưởng của nồng độ nitrat đến mật độ tế bào
(?) 174,8 mg/l; (×) 349,6 mg/l; (▲) 699,2 mg/l; (?) 1048,8 mg/l
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
1011
Ảnh hưởng của chất điều tiết sinh trưởng
Trên nền môi trường C, NAA và GA3
được bổ sung với các nồng độ khác nhau. Ở
ngày thứ 20, mật độ tế bào đạt 49,05×104 tế
bào/ml trong môi trường bổ sung 5 ppm NAA
và 10 ppm GA3, tăng 75,86% so đối chứng
(hình 4). Chất điều tiết sinh trưởng đã kích
thích sinh trưởng do làm rút ngắn thời gian pha
loãng. Ở mức 10 ppm NAA+ 15 ppm GA3, mật
độ tế bào đạt cực đại chỉ ở mức 39,62×104 tế
bào/ml, bằng 80,77% so với công thức bổ sung
5 ppm NAA và 10 ppm GA3. Như vậy, khả
năng kích thích sinh trưởng của NAA và GA3
không tuyến tính với nồng độ. Điều này có thể
do khi nồng độ NAA và GA3 cao sẽ tăng hoạt
động của L-aminocycloproane-1-cacboxylic
synthase, enzyme điều tiết sinh tổng hợp
ethylene, dẫn đến ảnh hưởng đến cân bằng tỉ lệ
sắc tố quang hợp. Hàm lượng chlorophyll ảnh
hưởng bởi hàm lượng các chất sinh trưởng, ở
nồng độ 5 ppm NAA và 10 ppm GA3 tảo có
hàm lượng chlorophyll cao nhất 212,61 µg/l.
Như vậy, chất điều tiết sinh trưởng NAA và
GA3 có khả năng kích thích vi tảo H. pluvialis
sinh trưởng và nồng độ 5 ppm NAA + 10 ppm
GA3 là hiệu quả nhất.
Hình 4. Ảnh hưởng của NAA, GA3 đến mật độ tế bào và hàm lượng chlorophyll
(?) 0 ppm NAA + 0 ppm GA3; (?) 5 ppm NAA + 10 ppm GA3; (×) 10 ppm NAA + 15 ppm GA3;
(▲) 15 ppm NAA + 15 ppm GA3.
3.4. Ảnh hưởng của các yếu tố đến khả năng
tổng hợp astaxanthin
Ảnh hưởng của NaCl
Khi tảo đạt mật độ 30,62×104 tế bào/ml
trong môi trường C, NaCl được bổ sung với
các nồng độ 0% (đối chứng), 1% và 2%. Trong
4-6 ngày đầu, mật độ tế bào giảm gần như nhau
ở các môi trường. Ở nhiều nghiên cứu, NaCl
được coi là một trong những tác nhân cảm ứng
tạo nang và kích thích tổng hợp astaxanthin
(Boussiba và Voshak, 1991; Sarada và ctv.,
2002; Lưu T.T. và ctv., 2012). Đi kèm với
tăng tổng hợp astaxanthin, hàm lượng
chlorophyll giảm khi bổ sung NaCl. Ở nồng độ
2%, hàm lượng chlorophyll giảm còn 102,06
µg/l so với 177,04 µg/l (đối chứng). Ở nồng độ
muối 1%, hàm lượng chlorophyll giảm còn
134,33 µg/l.
Hình 5. Ảnh hưởng của nồng độ muối NaCl lên mật độ tế bào và hàm lượng astaxanthin
(?) 0 %; (?) 1 %; (▲) 2 %
1011
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
1012
Ảnh hưởng của salicylic acid
SA được bổ sung vào môi trường C ở
các mức 0 (đối chứng), 25 và 50 mg/l. Sau 6
ngày thí nghiệm, kết quả cho thấy khi bổ sung
25 mg/l SA, mật độ tế gần như không đổi so
với đối chứng nhưng ở mức 50 mg/l SA, mật
độ tế bào giảm liên tục còn 37,4% sau 12 ngày.
Ở mức 25 mg/l SA mật độ tế bào giảm nhanh
xuống còn 69,4% ở ngày 12 (hình 6). Hàm
lượng chlorophyll ở hai công thức bổ sung SA
25 và 50 mg/l hầu như không thay đổi sau 6
ngày thí nghiệm. Sau 12 ngày, hàm lượng
chlorophyll giảm xuống còn 70% so với ngày
đầu tiên ở cả 2 mức thí nghiệm nhưng hàm
lượng astaxanthin đạt 68,55 và 82,94 µg/l ở
nồng độ SA 25 và 50 mg/l.
Hình 6. Ảnh hưởng của nồng độ SA lên hàm lượng chlorophyll
(?) 0 mg/l; (?) 25 mg/l; (▲) 50 mg/l
Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng
Kết quả cho thấy không có sự khác biệt ở
cường độ chiếu sáng 2,0 hoặc 3,5 klux đến khả
năng tổng hợp astaxanthin. Hàm lượng
astaxanthin trong tế bào được tích lũy khi chiếu
sáng 5 klux nhưng mật độ tế bào giảm. Không
có sự khác biệt giữa cường độ chiếu sáng 3,5
klux và 2,0 klux đến hàm lượng chlorophyll và
astaxanthin. So với cường độ chiếu sáng 2 klux
hàm lượng astaxanthin đạt 227,57 µg/l, tăng
315,12% khi chiếu sáng 5 klux, đồng thời hàm
lượng chlorophyll chỉ còn 84,25 µg/l, giảm
69,03 %. Như vậy NaCl, SA và ánh sáng tác
động nhanh tới vi tảo, tuy nhiên, khả năng tích
lũy astaxanthin dưới tác động của ánh sáng sẽ
đơn giản nhưng hiệu quả hơn so với sử dụng
NaCl và SA.
Hình 7. Ảnh hưởng của cường độ chiếu sáng đến mật độ tế bào và hàm lượng astaxanthin
(?) 2,0 kLux; (?) 3,5 kLux; (▲) 5,0 kLux.
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
1013
IV. KẾT LUẬN
Trong điều kiện thí nghiệm, H. pluvialis
sinh trưởng tối nhất trong môi trường C với mật
độ tế bào đạt cực đại là 27,89×104 tế bào/ml.
Muối nitrat và chất điều tiết sinh trưởng NAA,
GA3 kích thích tế bào tăng sinh. Khi bổ sung
NaNO3 699,2 mg/l cho mật độ cao nhất đạt
34,85×104 tế bào/ml. Tương tự, bổ sung 5 ppm
α-NAA và 10 ppm GA3 kích thích tảo sinh
trưởng. Muối NaCl, salicylic acid và ánh sáng
cường độ mạnh kích thích tảo chuyển sang bào
nang. Kết quả nghiên cứu này có thể được sử
dụng để áp dụng vào quy trình nhân nuôi H.
pluvialis trong điều kiện thử nghiệm pilot.
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu được hỗ trợ kinh phí từ
nguồn đề tài trọng điểm cấp Học viện 2014-
2016.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng D.H., Đinh Đ.H., Nguyễn T.T., Hoàng
T.L.A. (2010). Lựa chọn môi trường tối ưu
để nuôi trồng vi tảo lục Haematococcus
pluvialis giàu astaxanthin. Tạp chí Sinh học,
32(2): 43-53.
2. Lê T. T., Lưu T. T., Đinh T. N. M., Hoàng T.
L. A., Ngô T. H. T., Nguyễn C. H., Đặng D.
H. (2013). Ảnh hưởng của nồng độ nitrat lên
sinh trưởng của vi tảo lục Haematococcus
pluvialis Flotow trong điều kiện phòng thí
nghiệm. Tạp chí Sinh học, 35(2): 219-226.
3. Lưu T. T., Đinh Đ. H., Đinh T. N. M., Ngô T.
H. T., Hoàng T. L. A., Đặng D. H. (2012).
Nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ muối
lên sinh trưởng và khả năng tích lũy
astaxanthin của vi tảo Haematococcus
pluvialis làm cơ sở bước đầu cho quy trình
nuôi cấy 2 pha. Tạp chí Sinh học, 34(2):
213-223.
4. Aflalo C., Meshulam Y., Zarka A., Boussiba S.
(2007). On the relative efficiency of two- vs.
one-stage production of astaxanthin by the
green alga Haematococcus pluvialis.
Biotechnology and Bioengineering, 98(1):
300-305
5. Boussiba S., Vonshak A. (1991). Astaxanthin
accumulation in the green alga
Haematococcus pluvialis. Plant and Cell
Physiology, 32: 1077-82.
6. Domínguez A. R.-Bocanegra, Legarreta I. L.,
Jeronimo F. M., Campocpsio A. T. (2004).
Influence of environmental and nutritional
factors in the production of astaxanthin from
Haematococcus pluvialis. Bioresource
Technology, 92: 209-214.
7. Sarada R., Tripathi U., Ravishankar G. A.
(2002). Influence of stress on astaxanthin
production in Haematococcus pluvialis
grown under different culture conditions.
Process Biochemistry, 37: 623-627.
8. Strickland J. D. H., Parsons T. R. (1977). A
practical handbook of seawater
analysis. Fisheries research board of
Canada, 167: 311 pp.
ABSTRACT
Study on mass rearing of Haematocuccus pluvialis and effective factors on astaxanthin
synthesis
Đang Phu Hoang, Pham Tu Anh, Nguyen Duc Bach: ndbach@vnua.edu.vn
Fresh water microalgae Haematococcus pluvialis is able to produce high content of astaxanthin,
which is widely used as antioxidant in pharmacy and natural colorant in farming of shrimp, crab and
salmon. The study is to determine optimal medium for biomass production and factors influenced the
life cycle of H. pluvialis. Investigation of media C, RM and BBM showed that H. pluvialis grew well in
medium C with the density of 27.89×104 cells/ml. Adding of NaNO3 at 699.2 mg/l obtained the best
growth rate and maximal density was 34.85×104 cells/ml. Plant growth hormones, 1-naphthaleinacetic
acid (NAA) and gibberellin (GA3) increased the growth of H. pluvialis while NaCl, SA or high light
intensity induced the red cyst cells coupled with astaxanthin production. It suggested that light intensity
would be important factor for cyst formation and astaxanthin production.
Keywords: astaxanthin, microalgae Haematococcus pluvialis,
Người phản biện: TS. Trịnh Xuân Hoạt
1013
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_viet_210_3589_2130528.pdf