Tài liệu Nghiên cứu một tình huống dạy học hệ số góc của đường thẳng theo hướng phát triển năng lực giao tiếp toán học cho học sinh Trung học Phổ thông - Vương Vĩnh Phát: VJE Tạp chí Giáo dục, Số 447 (Kì 1 - 2/2019), tr 39-42; 32
39
NGHIÊN CỨU MỘT TÌNH HUỐNG DẠY HỌC HỆ SỐ GÓC
CỦA ĐƯỜNG THẲNG THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
GIAO TIẾP TOÁN HỌC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Vương Vĩnh Phát - Trường Đại học An Giang
Ngày nhận bài: 10/10/2018; ngày sửa chữa: 20/10/2018; ngày duyệt đăng: 29/10/2018.
Abstract: Through the analysis of textbooks, the article offers a teaching situation of the slope of
straight lines to develop mathematical communication competency for students. In this study, we
use different stages of collaborative teaching method, scientific debate and self-reflection methods
to help students better understand the meaning of the slope and develop mathematical
communication competency for them.
Keywords: Slope, mathematical communication, competency, students.
1. Mở đầu
Năng lực giao tiếp toán học là một trong những năng
lực được đề cập từ cuối thế kỉ XX. Trong xu thế phát triển
và hội nhập ở Việt Nam, chương ...
5 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 691 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu một tình huống dạy học hệ số góc của đường thẳng theo hướng phát triển năng lực giao tiếp toán học cho học sinh Trung học Phổ thông - Vương Vĩnh Phát, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 447 (Kì 1 - 2/2019), tr 39-42; 32
39
NGHIÊN CỨU MỘT TÌNH HUỐNG DẠY HỌC HỆ SỐ GÓC
CỦA ĐƯỜNG THẲNG THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
GIAO TIẾP TOÁN HỌC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Vương Vĩnh Phát - Trường Đại học An Giang
Ngày nhận bài: 10/10/2018; ngày sửa chữa: 20/10/2018; ngày duyệt đăng: 29/10/2018.
Abstract: Through the analysis of textbooks, the article offers a teaching situation of the slope of
straight lines to develop mathematical communication competency for students. In this study, we
use different stages of collaborative teaching method, scientific debate and self-reflection methods
to help students better understand the meaning of the slope and develop mathematical
communication competency for them.
Keywords: Slope, mathematical communication, competency, students.
1. Mở đầu
Năng lực giao tiếp toán học là một trong những năng
lực được đề cập từ cuối thế kỉ XX. Trong xu thế phát triển
và hội nhập ở Việt Nam, chương trình giáo dục phổ thông
mới đã chuyển từ định hướng tiếp cận nội dung sang định
hướng tiếp cận phát triển năng lực người học nên quá
trình dạy học Toán cần tập trung vào phát triển các năng
lực chung cốt lõi cho học sinh (HS), trong đó có năng lực
giao tiếp toán học.
Hàm số bậc nhất có đồ thị là một đường thẳng. Khái
niệm hệ số góc (HSG) của đường thẳng đã được nhiều
tác giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Bài
viết đề cập ý nghĩa của HSG và phát triển năng lực giao
tiếp toán cho HS thông qua một tình huống dạy học.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Ý nghĩa của hệ số góc
Khái niệm HSG (hay hệ số độ dốc) của đường thẳng
thường xuất hiện trong Đại số, Hình học và Giải tích với
các ý nghĩa khác nhau.
Ý nghĩa 1: Dấu của HSG của đường thẳng (d): y = ax
+ b (a 0) cho biết hàm số đồng biến hay nghịch biến.
Hàm số y = ax + b đồng biến trên khi a > 0, nghịch
biến trên khi a < 0.
Ý nghĩa 2: HSG của một đường thẳng bằng tang của
góc với là góc tạo bởi đường thẳng đó với trục Ox.
Ý nghĩa 3: HSG của đường thẳng bằng tỉ số giữa tung
độ và hoành độ của vectơ chỉ phương của đường thẳng
đó (nếu đường thẳng đó có HSG).
Ý nghĩa 4: Cho hàm số y = ax + b (a 0).
Trường hợp a > 0: nếu x tăng thêm 1 đơn vị thì y tăng
thêm a đơn vị.
Trường hợp a < 0: nếu x tăng thêm 1 đơn vị thì y giảm
a đơn vị.
Ý nghĩa 5: HSG cho biết độ dốc của đường thẳng so
với phương ngang.
Ý nghĩa 6: Cho hàm số ( )y f x có đồ thị là (C),
xác định trên khoảng ;a b và có đạo hàm tại điểm
0 ;x a b . Đạo hàm của hàm số ( )y f x tại điểm 0x
là HSG của tiếp tuyến của (C) tại điểm 0 0; ( )M x f x .
Ngoài ra, HSG của tiếp tuyến với đường cong được xác
định bởi hàm số y = f(x) tại điểm x(a; b) cho biết tốc độ
biến thiên của hàm số ấy trên khoảng (a; b).
Trong bài viết này, chúng tôi tập trung vào ý nghĩa thứ
5 của HSG. Trong ví dụ ở phần thực nghiệm, để biết vật liệu
nào cách nhiệt tốt hơn, HS cần so sánh độ cách nhiệt của các
vật liệu với cùng một độ dày. Điều đó có nghĩa là HS cần
tính HSG của đường thẳng. Đường thẳng nào có giá trị tuyệt
đối của HSG càng lớn thì độ cách nhiệt càng cao.
2.2. Giao tiếp toán học và năng lực giao tiếp toán học
2.2.1. Giao tiếp toán học
Trong cuốn Principles and Standards for School
Mathematics do Hội đồng Quốc gia Giáo viên (GV) Toán
của Mĩ phát hành vào năm 2000 cho rằng: Giao tiếp là một
phần thiết yếu của toán học và giáo dục toán học. Giao tiếp
là cách chia sẻ các ý tưởng, phản ánh kịp thời và thảo luận.
Thông qua giao tiếp cũng giúp người học xây dựng, hình
thành các ý tưởng toán học [1].
Cũng [1], mục tiêu của quá trình học tập môn Toán
là phát triển các khả năng: 1) Giải quyết vấn đề toán học;
2) Giao tiếp toán học; 3) Suy luận và chứng minh toán
học; 4) Xây dựng các mối liên hệ toán học; 5) Biểu diễn
và kết nối toán học. Kĩ năng giao tiếp tốt là yếu tố cần
thiết cho người học để phát triển tư duy logic và tư duy
sáng tạo.
Theo Vũ Thị Bình: giao tiếp toán học là quá trình giao
tiếp diễn ra giữa GV - HS, giữa HS - HS trong quá trình
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 447 (Kì 1 - 2/2019), tr 39-42; 32
40
dạy học Toán; quá trình này sử dụng ngôn ngữ toán học
là phương tiện quan trọng và chủ yếu để tiếp nhận và
chuyển tải các ý tưởng, kiến thức toán học, đưa ra lập
luận, chứng minh, giải quyết vấn đề để đạt được mục tiêu
dạy học [2].
Clark cho rằng, thảo luận là một trong những chiến
lược phát triển giao tiếp toán học; khi đưa ra một vấn đề
toán học, HS cần hiểu vấn đề và tìm lời giải [3].
2.2.2. Năng lực giao tiếp toán học
Các yêu cầu về năng lực giao tiếp toán học cấp trung
học phổ thông thể hiện trên 04 biểu hiện của HS: - Khả năng
nghe hiểu, đọc hiểu và ghi chép thông tin toán học;
- Khả năng trình bày, diễn đạt; - Khả năng sử dụng ngôn
ngữ toán học, ngôn ngữ tự nhiên; - Sự tự tin trong giao tiếp.
Năng lực toán học được PISA định nghĩa: “Năng lực
toán học là khả năng của một cá nhân thiết lập công
thức, vận dụng và giải thích toán học trong nhiều ngữ
cảnh khác nhau; bao gồm suy luận toán học và sử dụng
các khái niệm, phương pháp, sự việc và công cụ để mô
tả, giải thích và dự đoán các hiện tượng; giúp cá nhân
nhận ra vai trò của toán học, đưa ra ý kiến và quyết định
có cơ sở” [4; tr 25].
Dựa trên các biểu hiện về năng lực giao tiếp toán học
theo chương trình giáo dục phổ thông mới và định nghĩa
của PISA, theo chúng tôi: Năng lực giao tiếp toán học là
khả năng của một cá nhân: - Nghe, hiểu, đọc hiểu và ghi
chép được các thông tin toán học cần thiết được trình
bày dưới dạng văn bản toán học hay do người khác nói
hoặc viết ra; - Trình bày, diễn đạt (bằng cách nói hoặc
viết) được các nội dung, ý tưởng, giải pháp toán học
trong sự tương tác với người khác; - Sử dụng được hiệu
quả ngôn ngữ toán học (chữ số, chữ cái, kí hiệu, biểu đồ,
đồ thị, các liên kết logic,...) kết hợp với ngôn ngữ thông
thường hoặc động tác hình thể khi trình bày, giải thích
và đánh giá các ý tưởng toán học trong sự tương tác
(thảo luận, tranh luận) với người khác; - Thể hiện sự tự
tin khi trình bày, diễn đạt, nêu câu hỏi, thảo luận, tranh
luận các nội dung, ý tưởng liên quan đến toán học.
Các biểu hiện của năng lực giao tiếp toán học gồm:
“- Tóm tắt được ý chính khi nghe thầy hoặc bạn trình
bày; - Trình bày một vấn đề hấp dẫn nhờ sử dụng các
loại ngôn ngữ và các phương tiện kĩ thuật; - Trình bày
rõ ràng lời giải của một bài toán nhờ sử dụng chính xác
thuật ngữ, kí hiệu, liên kết logic, quy tắc suy luận; - Phát
biểu một định nghĩa, định lí theo các ngôn ngữ, cách thức
khác nhau; - Vẽ hình, đồ thị, biểu đồ, lập bảng một cách
trực quan; - Đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi” [5; tr 133].
Từ đó, để phát triển năng lực giao tiếp toán học cho
HS, chúng tôi xác định 4 thành tố của năng lực giao tiếp
Bảng 1. Các thành tố và biểu hiện của năng lực giao tiếp toán học
Các thành tố của năng lực
giao tiếp toán học
Biểu hiện (hay còn gọi là các tiêu chí)
1. Nghe hiểu, đọc hiểu và ghi chép
được các thông tin toán học cần thiết
được trình bày dưới dạng văn bản hay
do người khác nói hoặc viết ra.
1.1. Nghe hiểu, đọc hiểu và ghi tóm tắt được các thông tin toán học cơ
bản, trọng tâm trong văn bản nói hoặc viết.
1.2. Biết phân tích, lựa chọn, trích xuất được các thông tin toán học cần
thiết từ văn bản nói hoặc viết.
1.3. Biết kết nối, liên kết, tổng hợp thông tin toán học từ các tài liệu khác
nhau.
2. Trình bày, diễn đạt (nói hoặc viết)
được các nội dung, ý tưởng toán học,
biện pháp đưa ra toán học trong sự
tương tác với người khác
2.1. Trình bày đầy đủ, chính xác, logic các nội dung, ý tưởng toán học.
2.2. Tham gia thảo luận, tranh luận về các nội dung và ý tưởng toán học
với người khác.
2.3. Giải thích mạch lạc, rõ ràng suy nghĩ của mình về các biện pháp và
biết lập luận toán học chặt chẽ.
3. Sử dụng hiệu quả ngôn ngữ toán học
(chữ số, kí hiệu, biểu đồ, đồ thị, các
liên kết logic,...) kết hợp với ngôn ngữ
thông thường hoặc động tác hình thể
khi trình bày, giải thích và đánh giá các
ý tưởng toán học trong sự tương tác
(thảo luận, tranh luận) với người khác.
3.1. Sử dụng được một cách hợp lí ngôn ngữ toán học kết hợp với ngôn
ngữ thông thường để biểu đạt cách suy nghĩ, lập luận, chứng minh các
khẳng định toán học.
3.2. Phân tích, so sánh, đánh giá và lựa chọn được các ý tưởng toán học
phù hợp.
4. Thể hiện được sự tự tin khi trình bày,
diễn đạt, nêu câu hỏi, thảo luận, tranh
luận các nội dung, ý tưởng liên quan
đến toán học.
4.1. Tự tin khi trình bày, diễn đạt các nội dung toán học.
4.2. Khi tham gia thảo luận, tranh luận, biết giải thích các nội dung toán
học một cách rõ ràng, lập luận chặt chẽ để khẳng định hay bác bỏ một
mệnh đề toán học nào đó.
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 447 (Kì 1 - 2/2019), tr 39-42; 32
41
toán học, mỗi thành tố lại được chia thành các mức độ
khác nhau thông qua các biểu hiện (hay còn gọi là tiêu
chí) (xem bảng 1 trang trước).
Theo đề xuất của NCTM: “Có thể đánh giá năng lực
giao tiếp toán học của HS thông qua việc các em biểu
diễn ý tưởng toán học (nói, viết, chứng minh và miêu tả
chúng một cách trực quan), hiểu, giải thích và đánh giá
ý tưởng toán học, biết mô tả các mối liên hệ và tình huống
đã được mô hình hóa” [1].
2.3. Phương pháp dạy học ACODESA
2.3.1. Tranh luận khoa học và tranh luận khoa học trong
dạy học Toán
Theo Nally: một cuộc thảo luận là nơi mà nhóm
người hoặc cá nhân trình bày ý kiến trái ngược nhau về
một vấn đề, dựa trên tập hợp các quy luật [6]. Tranh luận
giúp HS không chỉ chấp nhận thông tin, mà còn hiểu và
có kĩ năng nghiên cứu khoa học thông qua các nguồn tài
liệu khác nhau, phân tích, phê bình và hình thành khả
năng lập luận. Sử dụng tranh luận trong lớp học có thể
giúp HS phát triển tư duy trừu tượng, tư duy phân tích;
rèn luyện kĩ năng thuyết trình, sử dụng ngôn ngữ, đặt câu
hỏi/kiểm tra chéo, phân biệt đúng sai từ các ý kiến, tổ
chức và làm việc nhóm/hợp tác.
Theo chúng tôi: tranh luận khoa học trong dạy học
Toán là một quá trình diễn ra trong lớp học toán, mà ở đó
HS đóng vai các nhà khoa học, đưa ra phát biểu, lập luận
để giải thích tính đúng sai của các phát biểu; trong đó,
chân lí được thiết lập dựa vào các tri thức toán học.
2.3.2. Quy trình dạy học bằng phương pháp ACODESA
Hitt và González - Martín đã nghiên cứu sự biến thiên
giữa các biến trong một quá trình mô hình hóa, đó là sự
kết hợp của học tập hợp tác, tranh luận khoa học và tự
suy xét. Phương pháp dạy học này được đặt tên là
ACODESA, tượng trưng cho: “học tập hợp tác, tranh
luận khoa học và tự suy xét”. Nghiên cứu cũng chỉ ra
5 pha khác nhau trong phương pháp ACODESA, gồm
[7; tr 205-206]:
- Pha 1: Làm việc cá nhân. HS được GV giao một
nhiệm vụ không quen thuộc, các em suy nghĩ và trả lời
câu hỏi đặt ra trong nhiệm vụ đó.
- Pha 2: Làm việc nhóm. HS làm việc nhóm với cùng
nhiệm vụ ở pha 1. Ở pha này, HS chọn lựa các câu trả lời
thông qua quá trình thảo luận giữa các thành viên trong
nhóm. Kết quả làm việc của mỗi nhóm có thể ghi thành
1 áp phích cho GV đánh giá.
- Pha 3: Tranh luận. GV chọn một áp phích của
nhóm (thường là nhóm có câu trả lời sai) để cả lớp thảo
luận. Trong pha này, GV cần cho HS phát triển khả năng
lập luận.
- Pha 4: Tự suy xét. GV giao cho HS các nhiệm vụ
học tập để các em thực hiện ở nhà. Giai đoạn này cho
phép HS củng cố kiến thức.
- Pha 5: Quá trình thể chế hóa. GV giải thích vấn đề
dựa trên kết quả tính toán của HS.
2.4. Thiết kế một tình huống dạy học hệ số góc bằng
phương pháp ACODESA
Trong nghiên cứu này, chúng tôi vận dụng phương
pháp ACODESA nhưng bỏ qua pha 1 và pha 4, thực
nghiệm được tiến hành từ pha 2. Vì pha 1 và pha 2 HS
làm việc trên cùng một nhiệm vụ, nên trong nghiên cứu
này chúng tôi muốn nhấn mạnh đến làm việc nhóm ở pha
2 và phá 3, bỏ qua pha làm việc cá nhân (pha 1) và pha
thực hiện nhiệm vụ học tập ở nhà (pha 4). Lớp học được
chia thành các nhóm, thông qua quá trình thảo luận
nhóm, HS sẽ có cơ hội trình bày ý kiến của mình và lắng
nghe ý kiến của người khác. Quá trình giao tiếp hiệu quả
ở pha 2 sẽ giúp HS tranh luận tốt hơn ở pha 3.
Thực nghiệm được tiến hành vào cuối học kì 2 ở lớp
10A, với 26 HS tại Trường Trung học phổ thông Nguyễn
Văn Thoại, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, thời gian
thực nghiệm là 60 phút và được triển khai sau khi các em
đã được học về HSG của đường thẳng. Vận dụng quy
trình dạy học bằng phương pháp ACODESA, chúng tôi
xây dựng một tình huống như sau:
Bài toán: “Để tạo ra sự cách nhiệt giữa nhiệt độ
trong phòng và nhiệt độ ngoài phòng, các nhà thiết kế đã
chế tạo một vách ngăn cách nhiệt gồm ba lớp, bao gồm
tấm thạch cao (gypsum wallboard), sợi thủy tinh cách
nhiệt (fiberglass insulation) và gỗ bao bên ngoài (wood
sheathing). Ba lớp này được xếp liên tục kề nhau như
hình 1. Nhiệt độ trong phòng ban đầu là 72oF(72oF
22,2oC), sau khi qua các lớp: thạch cao, sợi thủy tinh
cách nhiệt và gỗ bao bên ngoài thì nhiệt độ giảm xuống
còn 0oF (0oF -17,8oC). Bằng cách tính HSG của các
đường thẳng, hãy tìm sự thay đổi nhiệt độ qua mỗi inch
của các vật liệu cách nhiệt sau:
a) Tấm thạch cao.
b) Sợi thủy tinh cách nhiệt.
c) Gỗ bao bên ngoài.
d) Vật liệu nào trong ba vật liệu trên cách nhiệt tốt
nhất? Kém nhất? Giải thích câu trả lời của bạn?”.
Pha 2 (20 phút): Làm việc nhóm. GV chia lớp thành các
nhóm để trả lời câu hỏi của bài toán. Mỗi nhóm gồm 2 HS,
kết quả trả lời của từng nhóm được mỗi nhóm ghi lại.
Có 6 nhóm trả lời đúng, sợi thủy tinh là vật liệu cách
nhiệt tốt nhất, qua mỗi inch, nhiệt độ giảm khoảng 15,5oF
(vì nhiệt độ giảm từ 66oF xuống còn 10oF khi qua tấm
thủy tinh dày 3,6 inch); tấm thạch cao là vật liệu cách
nhiệt kém nhất, qua mỗi inch nhiệt độ giảm khoảng 5oF
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 447 (Kì 1 - 2/2019), tr 39-42; 32
42
(vì nhiệt độ giảm từ 68oF xuống 66oF khi qua tấm thủy
tinh dày 0,4 inch). Chẳng hạn, kết quả trả lời và giải thích
của nhóm 3 như sau:
“a) Khi qua tấm thạch cao dày 0,4 inch, nhiệt độ giảm
2oF (khi tiếp xúc nhiệt độ là 68oF, khi đi qua nhiệt độ là
66oF), suy ra khi đi qua tấm thạch cao dày 1 inch thì nhiệt
độ giảm 5oF.
b) Khi đi qua sợi thủy tinh cách nhiệt 3,6 inch thì
nhiệt độ giảm 56oF (khi tiếp xúc nhiệt độ là 66oF, khi đi
qua nhiệt độ là 10oF), suy ra khi đi qua sợi thủy tinh cách
nhiệt dày 1 inch thì nhiệt độ giảm 15,6oF”.
Có 7 nhóm còn lại trả lời sai, trong đó nhóm 10, nhóm
8 và nhóm 6 cho rằng khi qua tấm thạch cao nhiệt độ giảm
2oF (từ 68oF xuống 66oF, khi qua sợi thủy tinh nhiệt độ
giảm 56oF (từ 66oF xuống 10oF và qua gỗ bao bên ngoài
nhiệt độ giảm 5oF (từ 10oF xuống 66oF mà không chú
trọng đến độ dày của các loại vật liệu. Để so sánh vật liệu
nào cách nhiệt tốt hơn, HS cần so sánh trên cùng độ dày.
Pha 3 (25 phút): Tranh luận chung cho cả lớp học.
Cả lớp tiến hành tranh luận.
GV yêu cầu các nhóm ghi câu trả lời trong pha 2 lên
các áp phích trong thời gian là 5 phút và chọn kết quả của
1 nhóm (thường là nhóm có câu trả lời sai hoặc nhóm có
câu trả lời đúng nhưng chưa đầy đủ), sau đó dán kết quả
lên bảng. Cả lớp bắt đầu tranh luận, GV không can thiệp
vào kết quả tranh luận của HS.
GV: Đưa ra kết quả tranh luận của nhóm 10. Nhóm 10
cho rằng nhiệt độ ban đầu trong phòng là 72oF, nhiệt độ
khi xuyên qua tấm thạch cao giảm từ 68oF xuống còn 66oF
nên khi xuyên qua tấm thạch cao
nhiệt độ giảm 2oF tương tự nhiệt độ
qua sợi thủy tinh và gỗ giảm tương
ứng là 56oF và 5oF. Vậy, sợi thủy
tinh cách nhiệt kém nhất và thạch
cao cách nhiệt tốt nhất.
HS1: Đề bài yêu cầu khi xuyên
qua mỗi inch của vật liệu thì nhiệt
độ giảm bao nhiêu nên câu trả lời
của nhóm 10 là sai.
HS2: Cần tìm độ biến thiên k
qua mỗi inch là bao nhiêu để xét
xem nhiệt độ đã giảm bao nhiêu.
HS3: Đối với sợi thủy tinh dày,
có thể tính được k của sợi thủy tinh.
GV: Tiếp tục giới thiệu áp phích
của nhóm 11. Nhóm 11 cho rằng:
“Xét thạch cao:
2
5
inch giảm
2oF.
1 inch giảm 5oF → k = 5.
Xét thủy tinh: 1 inch giảm từ 66oF xuống 50oF → k = 5.
Xét gỗ bên ngoài:
7
10
inch giảm 5oF.
1 inch giảm
50
7
0
𝐹→𝑘 =
50
7
.
Vật liệu cách nhiệt tốt nhất là sợi thủy tinh vì HSG
của sợi thủy tinh lớn nhất trong ba vật liệu”.
HS3: Vì hàm số giảm nên HSG không âm. Do vậy,
kết quả nhóm 11 sai. Vậy, cần tìm k dựa vào hệ phương
trình. Dựa vào đồ thị cho trước, khoảng cách xuyên qua
bức tường theo inch đặt là x, nhiệt độ là y. Giả sử y = kx
+ b. Thạch cao là 0 inch thì nhiệt độ là 68oF và 0,4 inch
thì nhiệt độ là 66oF. Từ đó, suy ra hệ phương trình và tìm
được b = 68, k = -5. Vậy, y = -5x + 68.
GV tiếp tục trình bày áp phích của nhóm 8.
HS1: Kết quả của nhóm 8 không đúng. Đó là kết luận sai.
Pha 5 (15 phút): Thể chế hóa. Ở pha này, GV tổng kết
lại kết quả tranh luận của các nhóm, tính đúng sai của các
phát biểu của mỗi nhóm và giải thích ý nghĩa của HSG.
3. Kết luận
Bài viết đã chỉ ra quy trình dạy học kết hợp giữa làm
việc cá nhân, làm việc nhóm với tranh luận khoa học, giúp
các em phát triển năng lực giao tiếp toán học. Phương pháp
dạy học ACODESA tạo cho HS nhiều cơ hội trình bày các
ý tưởng toán học, lắng nghe ý tưởng của bạn, dùng lập
luận, biểu diễn toán học để mô tả và giải thích các phát
biểu toán học. Thông qua quá trình giao tiếp toán học hiệu
quả sẽ giúp HS hiểu sâu hơn các kiến thức toán học.
(Xem tiếp trang 32)
Nhiệt độ bên
ngoài là
0°F = -17,8°C
Gỗ bao bên ngoài
Sợi thủy tinh
cách nhiệt
Tấm thạch cao
Nhiệt
độ
bên
trong
phòng
là
72°F=22,2°C
Nhiệt độ (°F)
Khoảng cách xuyên qua bức tường (inches)
76543210
0°
20°
30°
40°
10°
50°
60°
70°
80°
90°
100°
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 447 (Kì 1 - 2/2019), tr 29-32
32
2.3.6. Tạo điều kiện tối đa để kết hợp đa dạng, hiệu quả
các hình thức tổ chức dạy học và phương pháp dạy học
Nội dung kiến thức LS rất phong phú, đa dạng và
phản ánh tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như:
chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học - kĩ thuật, chiến tranh
- cách mạng... Hơn nữa, đối tượng nhận thức của HS ở
mỗi vùng miền có sự khác nhau, với điều kiện cơ sở vật
chất ở các địa phương không giống nhau. Vì vậy, trong
quá trình dạy học bộ môn ở trường THPT, GV cần kết
hợp sử dụng linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học phù
hợp, như: nội khóa trên lớp kết hợp với nội khóa ngoài
lớp; đa dạng hóa hoạt động ngoại khóa và tổ chức hiệu
quả hoạt động trải nghiệm. Đồng thời, sử dụng kết hợp
linh hoạt các PPDH truyền thống (trình bày miệng, sử
dụng đồ dùng trực quan, trao đổi đàm thoại...) với các
PPDH mới (dự án, tình huống, đóng vai, tranh biện...) và
các kĩ thuật dạy học tích cực (K-W-L-H; 3-2-1; khăn trải
bàn....) để tạo nên những giờ học sinh động, hấp dẫn,
khích lệ được tính sáng tạo và chủ động trong nhận thức
của HS. Qua đó, nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.
3. Kết luận
Trên thế giới, dạy học TH đã được nghiên cứu và tổ
chức từ rất sớm. Ở nước ta, lí luận về TH, dạy học TH cũng
đã được bàn luận nhiều năm nay, song để vận dụng hiệu
quả phương pháp TH trong DHLS ở trường THPT là vấn
đề không đơn giản. Bởi vì, lâu nay giáo dục Việt Nam đang
đi theo hướng dạy học phân hóa sâu; do đó, đội ngũ GV
được đào tạo ra chủ yếu dạy các môn học riêng rẽ với
phương pháp cung cấp kiến thức cho HS là chủ yếu và môn
LS không phải là ngoại lệ. Mặt khác, chương trình môn LS
và việc tổ chức dạy học cơ bản vẫn theo chương, bài, tiết
độc lập cũng phần nào hạn chế khả năng sáng tạo của GV
và HS. Xuất phát từ ý nghĩa lí luận và thực tiễn quá trình
dạy học, việc nghiên cứu, vận dụng phương pháp TH trong
DHLS ở trường THPT được xem là hướng đi đúng và cần
thiết để nâng cao chất lượng bộ môn, góp phần hoàn thành
mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT theo tinh thần
Nghị quyết số 29-NQ/TW của Đảng.
Tài liệu tham khảo
[1] Ngô Minh Oanh và nhóm nghiên cứu (2016). Giải
pháp nâng cao năng lực dạy học tích hợp cho giáo
viên trung học cơ sở các tỉnh khu vực Nam Bộ. Đề
tài Khoa học và Công nghệ cấp bộ (MS: B 2014-19-
10), Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
[2] Nguyễn Thị Kim Dung (2014). Dạy học tích hợp
trong chương trình giáo dục phổ thông. Kỉ yếu Hội
thảo “Dạy học tích hợp, dạy học phân hóa ở trường
trung học đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình và
sách giáo khoa sau năm 2015”. Viện Nghiên cứu giáo
dục - Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
[3] Hoàng Phê (chủ biên, 2003). Từ điển Tiếng Việt.
NXB Đà Nẵng.
[4] Bùi Hiền (chủ biên, 2001). Từ điển Giáo dục học.
NXB Khoa học và Kĩ thuật.
[5] C. Mác (1962). Sự khốn cùng của triết học. NXB Sự thật.
[6] Bộ GD-ĐT (2017). Chương trình giáo dục phổ
thông tổng thể.
[7] Trần Thị Thanh Thủy (chủ biên, 2016). Dạy học tích hợp
phát triển năng lực học sinh. NXB Đại học Sư phạm.
[8] Xavier Roegiers (1996). Khoa sư phạm tích hợp hay làm
thế nào để phát triển các năng lực ở nhà trường (Đào
Ngọc Quang - Nguyễn Ngọc Nhị dịch). NXB Giáo dục.
NGHIÊN CỨU MỘT TÌNH HUỐNG DẠY HỌC...
(Tiếp theo trang 42)
Tài liệu tham khảo
[1] National Council of Teachers of Mathematics
(2000). Principles and Standards for School
Mathematics. Reston, VA: Author.
[2] Vũ Thị Bình (2016). Bồi dưỡng năng lực biểu diễn
toán học và năng lực giao tiếp toán học cho học sinh
trong dạy học môn Toán lớp 6, lớp 7. Luận án tiến
sĩ, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.
[3] Clark, K. K. (2005). Strategies for Building
Mathematical Communication in the Middle School
Classroom: Modeled in Professional Development,
Implemented in the Classroom. CIME (Current
Issues in Middle Level Education), Vol. 11 (2),
pp. 1-12.
[4] OECD (2013). PISA 2012 assessment and
analytical framework: Mathematics, reading,
science, problem solving and financial literacy.
OECD publishing.
[5] Vương Vĩnh Phát (2015). Dạy học đồ thị của hàm
số bậc nhất theo hướng phát triển năng lực học sinh.
Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt tháng 7, tr 133-135.
[6] Nally, F. (2015). Primary debating handbook.
Ireland: Education Centres in Ireland.
[7] Hitt, F - Gonzáslez Martín, A.S. (2015). Covariation
between variables in a modelling process: The
ACODESA (collaborative learning, scientific
debate and self-reflection) method. Educational
Studies in Mathematics, Vol. 88, pp. 201-219.
[8] Barbara, S. (2008). Coming to Understand Slope
and the Cartesian Connection: An Investigation of
Student Thinking. A dissertation for Doctor of
Philosophy in Education, California University.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 09vuong_vinh_phat_1903_2135441.pdf