Tài liệu Nghiên cứu khả năng ức chế của nấm chaetomium globosum đối với một số loại nấm gây bệnh chính trên chè: Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai
1003
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG ỨC CHẾ CỦA NẤM Chaetomium globosum
ĐỐI VỚI MỘT SỐ LOẠI NẤM GÂY BỆNH CHÍNH TRÊN CHÈ
Nguyễn Văn Thiệp, Nguyễn Hữu La, Phạm Huy Quang, Nguyễn Thị Thu Hà
Viện KHKT Nông Lâm Nghiệp miền núi phía Bắc
TÓM TẮT
Sản xuất chè gặp rất nhiều khó khăn do sâu bệnh phá hoại quanh năm. Bệnh hại chè diễn
biến phức tạp, người sản xuất hầu như chỉ áp dụng phòng trừ bằng thuốc hóa học, đã gây ô nhiễm
môi trường và ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe người sản xuất và tiêu dùng. Chủng Chaetomium
globosum CPT1 phân lập từ đất chè ở Phú Hộ, đã được nghiên cứu, đánh giá hoạt tính đối kháng đối
với một số nấm bệnh Colletotrichum camelliae; Pestalotia theae và Fusarium sp. hại cây chè. Chủng
nấm C. globosum CPT1 đã hạn chế được từ 57,11 - 75% sự phát triển hệ sợi nấm và hạn chế được
từ 58,73 - 77,38% bào tử của 3 loài nấm bệnh. Đồng thời cũng hạn chế từ 67,18 - 74,39% sự lây lan
của các bệnh C. camelliae, P. theae k...
5 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 282 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu khả năng ức chế của nấm chaetomium globosum đối với một số loại nấm gây bệnh chính trên chè, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai
1003
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG ỨC CHẾ CỦA NẤM Chaetomium globosum
ĐỐI VỚI MỘT SỐ LOẠI NẤM GÂY BỆNH CHÍNH TRÊN CHÈ
Nguyễn Văn Thiệp, Nguyễn Hữu La, Phạm Huy Quang, Nguyễn Thị Thu Hà
Viện KHKT Nông Lâm Nghiệp miền núi phía Bắc
TÓM TẮT
Sản xuất chè gặp rất nhiều khó khăn do sâu bệnh phá hoại quanh năm. Bệnh hại chè diễn
biến phức tạp, người sản xuất hầu như chỉ áp dụng phòng trừ bằng thuốc hóa học, đã gây ô nhiễm
môi trường và ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe người sản xuất và tiêu dùng. Chủng Chaetomium
globosum CPT1 phân lập từ đất chè ở Phú Hộ, đã được nghiên cứu, đánh giá hoạt tính đối kháng đối
với một số nấm bệnh Colletotrichum camelliae; Pestalotia theae và Fusarium sp. hại cây chè. Chủng
nấm C. globosum CPT1 đã hạn chế được từ 57,11 - 75% sự phát triển hệ sợi nấm và hạn chế được
từ 58,73 - 77,38% bào tử của 3 loài nấm bệnh. Đồng thời cũng hạn chế từ 67,18 - 74,39% sự lây lan
của các bệnh C. camelliae, P. theae khi xử lý trực tiếp trên lá chè. Kết quả thí nghiệm mở ra hướng
ứng dụng nấm Chaetomium phòng trừ bệnh hại chè hiệu quả và an toàn.
Từ khóa: Chaetomium globosum CPT1, Colletotrichum camelliae; Pestalotia theae và
Fusarium sp.
I. MỞ ĐẦU
Chè (Camellia sinensis) là cây công
nghiệp lâu năm được trồng phổ biến ở vùng
trung du và miền núi. Cây chè sinh trưởng phát
triển và cho thu hoạch hầu như quanh năm nên
sâu, bệnh hại cũng diễn biến phức tạp gây
nhiều khó khăn trong phòng trừ. Đặc biệt nhiều
loại bệnh gây thối rễ, thối búp, thối lá, khô
cành làm suy yếu cây chè dẫn đến chết cây,
mất khoảng ở nhiều nương chè. Hiện nay, biện
pháp phòng trừ bệnh hại chè chủ yếu vẫn bằng
hóa học nhưng còn kém hiệu quả và để lại tồn
dư trong môi trường vùng chè và trong sản
phẩm, có hại cho sức khỏe người tiêu dùng.
Trong thực tế hiện nay đã có các nghiên
cứu và ứng dụng vi sinh vật có ích để phòng
chống các loại bệnh hại trên các loại cây trồng
khác nhau, trong đó có các chủng nấm
Chaetomium (Soytong, 1989). Chaetomium
thuộc lớp nấm hoại sinh có khả năng cạnh tranh
mạnh so với nấm bệnh, đặc biệt là loài
Chaetomium globossum và Chaetomium
cochlioides có tác động đối kháng với các loài
nấm thuộc chi Fusarium và Helminthosporium
(Tveit and Moore, 1954), Alternaria,
Colletotrichum (Vannacci et al., 1987; Talubnuc
et al., 2010). Tính đối kháng của Chaetomium là
do nấm tổng hợp chất kháng sinh
Chaetoglobosin, chất này phá hủy màng tế bào,
làm cho nguyên sinh chất bị phá vỡ và mất đi
độc tính của nấm gây bệnh (Di Petro et al.,
1992; Soytong, 2007). Ngoài ra nấm
Chaetomium còn tổng hợp được một số hợp
chất có tác dụng kích thích sinh trưởng, phát
triển, tăng sức đề kháng của cây trồng (Lê Thị
Ánh Hồng, 2005; Doke et al., 1991, 1997).
Trên cơ sở những đặc điểm có ích của
nấm Chaetomium, chúng tôi đánh giá khả năng
ức chế của chủng nấm C. globosum CPT1 đối
với một số loại bệnh nấm hại cây chè, nhằm
ứng dụng nấm đối kháng Chaetomium trong
phòng trừ bệnh hại chè, hướng tới sản xuất chè
an toàn và bền vững.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
- Chủng Chaetomium globosum CPT1
phân lập từ đất trồng chè ở Phú Hộ, Phú Thọ.
- Các bệnh chấm nâu (Colletotrichum
camelliae), chấm xám (Pestalotia theae) và
thối rễ chè (Fusarium sp.) từ nguồn lưu giữ tại
Bộ môn Công nghệ sinh học và Bảo vệ Thực
vật, Viện KHKT nông lâm nghiệp miền núi
phía Bắc.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp đánh giá đối kháng trên
môi trường nhân tạo: theo phương pháp của
Soytong (1992), Talubnuc et al, (2010). Nấm
đối kháng và các loài nấm bệnh thuần được cấy
trên môi trường PDA trong đĩa petri, nuôi ở
nhiệt độ phòng. Bảy ngày sau, sử dụng nấm
thuần mới cấy cho thí nghiệm cấy đối kháng
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
1004
(Bi-culture). Sử dụng một ống nhựa tròn đã
khử trùng, đường kính lỗ 0,5 cm lấy mẫu agar
đã có nấm thuần đặt lên môi trường PDA trong
đĩa petri 9 cm, cách rìa của đĩa 1 cm. Ở đĩa cấy
đối kháng, đặt 2 mẫu agar có nấm bệnh và nấm
đối kháng đối diện nhau, ở đĩa đối chứng chỉ
đặt 1 mẩu agar nấm bệnh hoặc nấm đối kháng.
Các đĩa đã cấy nấm đặt ở nhiệt độ phòng. Sau
30 ngày, đo đếm kích thước tản nấm và số
lượng bào tử của cả nấm bệnh và nấm đối
kháng. Hiệu quả ức chế của nấm đối kháng là
%, tính theo công thức:
Hiệu quả ức chế =
A - B
A
× 100
Trong đó A là kích thước tảng nấm hoặc
số lượng bào tử của nấm bệnh ở đối chứng, B
là kích thước tản nấm hoặc số lượng bào tử của
nấm bệnh ở công thức đối kháng.
- Đánh giá hiệu quả ức chế trực tiếp trên
lá chè: theo phương pháp Yoshida et al.,
(2006). Lây bệnh nhân tạo nấm C. camelliae và
P. theae lên lá chè; sau 1 tuần, tiến hành xử lý
lá nhiễm bệnh bằng dung dịch bào tử nấm đối
kháng. Lá chè thí nghiệm được giữ ẩm và đặt ở
nhiệt độ phòng, theo dõi sự phát triển của nấm
bệnh: đo kích thước vết bệnh trên lá chè. Các
thí nghiệm bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên, 4 lần
nhắc lại, thực hiện năm 2013 và 2014.
Số liệu thí nghiệm được xử lý thống kê
bằng phần mềm Sirichai 6.0.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Khả năng ức chế của chủng C. globosum
CPT1 đối với một số nấm bệnh hại chè ở
điều kiện in vitro
Tiến hành đánh giá khả năng đối kháng
của chủng C. globosum CPT1 đối với một số
loại nấm gây bệnh chấm nâu (C. camelliae),
bệnh chấm xám (Pestalotia theae) và bệnh thối
rễ (Fusarium sp.) cây chè.
Sau 30 ngày nuôi cấy, ở công thức đối
chứng, tản nấm đều phát triển kín đĩa petri có
đường kính 9 cm. Tuy nhiên, ở đĩa cấy đối kháng,
nấm C. globosum lấn át sự phát triển của tản nấm
C. camelliae, đường kính tản nấm C. camelliae
chỉ đạt 2,25 cm. Hiệu quả ức chế sự phát triển
của sợi nấm đạt 75,0%. Bên cạnh khả năng ức
chế sự phát triển hệ sợi nấm, C. globosum còn ức
chế sự hình thành bào tử của nấm C. camelliae
dẫn đến số lượng bào tử nấm bệnh trong thí
nghiệm đối kháng chỉ có 1,71 × 107 bào tử; trong
khi đó, số lượng bào tử ở công thức đối chứng
đạt 7,56 × 107 bào tử, hiệu quả ức chế sự hình
thành bào tử đạt 77,38% (bảng 1).
Bảng 1. Ảnh hưởng của C. globosum đối với sinh trưởng phát triển của nấm bệnh C. camelliae
hại chè sau 30 ngày
Công thức
Sự phát triển của tản nấm
C. camelliae
Khả năng sinh sản bào tử của nấm C.
camelliae
Kích thước (cm) Hiệu quả ức chế (%) Số lượng bào tử (× 107)
Hiệu quả ức chế
(%)
C. camelliae +
C. globosum 2,25 75,00 1,71 77,38
C. camelliae 9,00 - 7,56 -
CV (%) 4,69 - 9,03 -
LSD0.05 0,59 - 1,04 -
Bệnh chấm xám Pestalotia theae là bệnh
khá phổ biến ở các vùng chè, bệnh hại lá bánh
tẻ và lá già. Trong công thức cấy đối kháng,
đường kính tản nấm của nấm gây bệnh P. theae
đạt 3,86 cm, hiệu quả ức chế đạt 57,11%. Số
lượng bào tử hình thành chỉ đạt 1,82 × 107 bào
tử so với đối chứng 4,92 × 107 bào tử, hiệu quả
ức chế đạt 58,73% (bảng 2).
Nấm Fusarium sp. hại rễ làm cho rễ bị
thối, dẫn đến cây chè bị chết. Fusarium sp. là
một trong số các loài vi sinh vật hại vùng rễ cây
chè gây ra hiện tượng “chết loang”, rất phổ biến
ở hầu khắp các vùng chè nước ta hiện nay. Bệnh
này đã và đang gây nhiều thiệt hại cho sản xuất
chè và rất khó khăn phòng trừ bệnh. Kết quả thí
nghiệm ở bảng 3 cho biết khả năng ức chế của
nấm đối kháng C. globosum đối với nấm
Fusarium sp. hại rễ chè.
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai
1005
Bảng 2. Ảnh hưởng của C. globosum đối với sinh trưởng phát triển của nấm bệnh P. theae hại
chè sau 30 ngày
Công thức
Sự phát triển của tản nấm bệnh Sinh sản bào tử nấm bệnh
Kích thước (cm) Hiệu quả ức chế (%)
Số lượng bào tử (×
107)
Hiệu quả ức chế
(%)
P. theae + C.
globosum 3,86 57,11 1,82 58,73
P. theae 9,00 - 4,92 -
CV (%) 6,76 - 12,39 -
LSD.05 0,96 - 1,00 -
Bảng 3. Ảnh hưởng của C. globosum đối với sinh trưởng phát triển của nấm bệnh Fusarium sp.
hại chè sau 30 ngày
Công thức
Sự phát triển của tản nấm bệnh Sinh sản bào tử nấm bệnh
Kích thước (cm) Hiệu quả ức chế (%)
Số lượng bào tử (×
107)
Hiệu quả ức chế
(%)
Fusarium sp. + C.
globosum 2,80 68,88 1,78 70,03
Fusarium sp. 9,00 - 5,94 -
CV(%) 6,64 - 11,22 -
LSD.05 0,87 - 1,05 -
Trên môi trường PDA, sự có mặt của
chủng nấm C. globosum đã làm chậm quá trình
sinh trưởng và phát triển của loài nấm Fusarium
sp. Đường kính tản nấm Fusarium sp. chỉ đạt
2,8cm trong khi ở công thức đối chứng là 9cm;
hiệu quả ức chế đạt 68,88%. Số lượng bào tử chỉ
đạt 1,78 × 107 so với công thức đối chứng là
5,94 × 107 bào tử. Hiệu quả ức chế sự hình
thành bào tử đạt 58,73% (bảng 3).
Như vậy, nấm C. globosum thể hiện có
tính đối kháng cao đối với các loại nấm bệnh
hại chè chủ yếu C. camelliae, Pestalozia theae
và Fusarium sp.
3.2. Hiệu quả ức chế của C. globosum đối
với nấm bệnh hại lá chè
Để xác định hiệu quả trừ bệnh trên lá chè,
chúng tôi tiến hành lây nhiễm nấm C. camelliae,
P. theae lên lá chè, sau đó nhúng lá chè đã được
lây bệnh vào trong dung dịch chứa bào tử nấm
C. globosum pha loãng với nước cất.
Lá chè nhiễm nấm bệnh C. camelliae
được xử lý bằng dung dịch bào tử nấm đối
kháng C. globosum đã làm giảm khả năng lan
rộng của bệnh. Những tuần đầu vết bệnh tiếp
tục lan rộng thêm, nhưng về sau hầu như không
phát triển thêm, quan sát trên bề mặt vết bệnh,
số lượng quả thể nấm bệnh rất ít. Xử lý bệnh
trực tiếp bằng bào tử nấm C. globosum sau 30
ngày đã ức chế 74,39% sự phát triển của vết
bệnh (bảng 4).
Bảng 4. Ảnh hưởng của dung dịch bào tử nấm C. globosum đến triệu chứng nấm bệnh C.
camelliae sau lây nhiễm.
Công thức
Sau 15 ngày Sau 30 ngày
ĐK vết bệnh (cm) Hiệu quả ức chế (%) ĐK vết bệnh (cm)
Hiệu quả ức chế
(%)
C. camelliae + C.
globosum 0,22 43,58 0,42 74,39
C. camelliae 0,39 - 1,64 -
CV(%) 7,32 - 4,87 -
LSD.05 0,04 - 0,11 -
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai
1006
Khi được xử lý dung dịch C. globosum,
đường kính vết bệnh do nấm P. theae gây ra
phát triển chậm hơn ở công thức xử lý đối
kháng (sau 15 ngày vết bệnh rộng thêm 0,21
cm, trong khi ở đối chứng không xử lý vết
bệnh rộng thêm 0,94 cm). Hiệu quả ức chế của
dung dịch bào tử nấm đối kháng đối với nấm
bệnh P. theae sau xử lý 1 tháng đạt 67,18%
(bảng 5).
Bảng 5. Ảnh hưởng của dung dịch bào tử nấm C. globosum đến triệu chứng nấm bệnh P. theae
sau lây nhiễm
Thí nghiệm
Sau 15 ngày Sau 30 ngày
ĐK vết bệnh (cm) Hiệu quả ức chế (%) ĐK vết bệnh (cm)
Hiệu quả ức chế
(%)
P. theae + C.
globosum 0,21 38,23 0,42 67,18
P. theae 0,38 - 1,28 -
CV(%) 6,25 - 4,54 -
LSD.05 0,04 - 0,09 -
3.3. Sử dụng nấm C. globosum phòng trừ
bệnh thối rễ chè (Root rot) trên đồng ruộng
Bệnh thối rễ gây nhiều thiệt hại cho người
trồng chè, bệnh xuất phát ban đầu từ những
điểm nhỏ làm thối rễ cây chè, khô cành rồi chết.
Bệnh lan dần qua năm tháng gây chết cây và
mất khoảng. Những nương chè cao tuổi, tốc độ
chết nhanh hơn. Trong thực tế sản xuất, nhiều
nương chè đã phải phá đi trồng lại. Gây ra bệnh
chết loang do một số loài nấm gây bệnh ở rễ cây
chè như Rosellinia necatrix, Fusarium sp.,
Rhizoctonia sp. Thí nghiệm áp dụng dung dịch
có chứa C. globosum CPT1 trừ bệnh trên giống
chè PH1 25 năm tuổi đang bị bệnh nặng (chỉ số
bệnh 25-26%) và giống chè LDP1 12 năm tuổi,
bệnh nhẹ hơn (chỉ số bệnh 7-8%) tại Công ty
chè Liên Sơn, tỉnh Yên Bái. Dung dịch
Chaetomium được xử lý 1 lần/tháng.
Sau 4 tháng xử lý chế phẩm, chỉ số bệnh
ở nương chè có xử lý giảm dần. Tại nương chè
trồng giống PH1, chỉ số bệnh giảm từ 26,0%
trước xử lý xuống 3,4% trong khi đối chứng
không xử lý giảm tự nhiên không đáng kể (từ
25,4% xuống 20,3%), hiệu quả trừ bệnh đạt
89,23%. Ở nương chè giống LDP1, chỉ số bệnh
giảm từ 7,3% xuống còn 3,4%, trong khi không
xử lý, chỉ số bệnh giảm từ 8,2% xuống 7,6%,
hiệu quả trừ bệnh đạt 53,42% (bảng 6).
Bảng 6. Diễn biến bệnh thối rễ chè sau xử lý dung dịch Chaetomium ở điều kiện đồng ruộng,
2014
Giống chè Xử lý Chaetomium (%) Không xử lý Chaetomium (%) 29/4 5/6 2/7 6/8 29/4 5/6 2/7 6/8
PH1 26,0 25,6 12,4 2,8 25,4 25,7 23,0 20,3
% bệnh giảm - 1,92 52,30 89,23 - - 9,44 20,07
LDP1 7,3 7,1 6,0 3,4 8,2 8,2 8,0 7,6
% bệnh giảm - 2,73 17,80 53, 42 - 0,00 2,43 7,31
IV. KẾT LUẬN
- Chủng nấm C. globosum CPT1 có khả
năng ức chế sinh trưởng và phát triển của một
số loài nấm gây bệnh cho cây chè như C.
camelliae, Pestalotia theae và Fusarium sp.
- Nấm C. globosum CPT1 ức chế được từ
57,11 - 75% sự phát triển hệ sợi nấm và từ
58,73 - 77,38% bào tử của 3 loài nấm bệnh sau
30 ngày.
- Xử lý trực tiếp dung dịch bào tử nấm
đối kháng C. globosum CPT1 lên lá chè đã lây
nhiễm bệnh C. camelliae, Pestalotia theae hạn
chế được từ 67,18 - 74,39% sự sinh trưởng và
của các nấm bệnh này.
- Áp dụng trừ bệnh chết loang tại công ty
chè Liên Sơn ở điều kiện đồng ruộng, sau 4
tháng bệnh hiệu quả trừ bệnh của dung dịch
1006
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai
1007
chứa nấm Chaetomium đạt từ 53,42% đến
89,23%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thị Ánh Hồng (2005). Nghiên cứu ứng
dụng nấm Chaetomium trong sản xuất các
chế phẩm vi sinh bảo vệ thực vật phòng
chống các bệnh nấm hại; Báo cáo tổng kết
KHKT, Viện Di truyền nông nghiệp, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
2. Talubnuc C. ang Soytong K (2010). Biocontrol
of vanina anthracnose using Emericella
nidulans. J. of Agricultural technology 2010,
6(1): 47-55.
3. Di Petro et al (1992). Role of antibiotics
produced by in biocontrol of Pythium
ultimum, a causal agent of damping off.
Phytopathology 1992, 131-135.
4. Yoshida K. and Takeda Y (2006). Evaluation
of Anthracnose Resistance among Tea
Genetic Resources by Wound-Inoculation
Assay. JARQ 40 (4), 2006, 379-386.
5. Soytong K. and Quimio T.H. (1989).
Antagonism of Chaetomium globosum to the
rice blast pathogen, Pyricularia oryzae.
Kasetsat J. (Nat. Sci.) 23, 198-203.
6. Tevit M. and Moore M.B. (1954). Isolate of
Chaetomium that protect oats from
Heminthosporium victoriae. Phytopathology
44, p.686-689.
ABSTRACT
Study on antifungal activities of Chaetomium globosum in major fungal pathogens of tea
Nguyen Van Thiep; Nguyen Huu La; Pham Huy Quang; Nguyen Thi Thu Ha
Tea plant Camellia sinensis is considering as one of the most important crops in the country.
However, diseases and insects have a devastating effect on tea production and nowadays. Diseases
have gradually become more complicate and difficult for control. Most farmers prefer to use chemical
pesticides to control major diseases on tea leading environmental pollutions and giving negative
impacts on human health. The fungus Chaetomium globosum CPT1 that was isolated from tea-
planting soils in Phu Ho has been studied and evaluated the antifungal activity on tea fungi
including C. camelliae; P. theae and Fusarium sp. Accordingly, C. globosum CPT1 was able to
prevent the development of mycelium and spores 57.11 – 75.00% and 58.73 – 77.38%, respectively. It
also inhibited the spread of C. camelliae, P. theae 67.18 – 74.39% after the C. camelliae- and P.
theae-infested tea leaves were treated directly with C. globosum CPT1 solution. These results have
illustrated the method of applying Chaetomium to prevent from tea diseases effectively.
Keywords: Camellia sinensis, Chaetomium globosum, Colletotrichum camelliae, Fusarium sp.,
Pestalozia theae.
Người phản biện: TS. Trịnh Xuân Hoạt
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_viet_202_2055_2130520.pdf