Tài liệu Nghiên cứu khả năng thiêu kết và lựa chọn công nghệ chế tạo gốm quang học đa tinh thể hạt mịn trong suốt bức xạ hồng ngoại trên cơ sở bột nano MgF2: Vật lý
N.K.Hoàn, N.N.Hưng, V.L.Hoàng, V.T.Nhung, N.T.Học, S.C.Doanh “Nghiờn cứu MgF2.” 118
NGHIÊN CứU KHả NĂNG THIÊU KếT Và LựA CHọN
CÔNG NGHệ CHế TạO GốM QUANG HọC ĐA TINH THể
HạT MịN TRONG SuốT BứC Xạ HồNG NGOạI TRÊN
CƠ Sở BộT NANO MgF2
Nguyễn Khải Hoàn*, Nguyễn Ngọc Hưng**, Vũ Lê Hoàng**, Vũ Thị Nhung**,
Nguyễn Thái Học**, Sái Công Doanh***
Tóm tắt: Trong bài báo này đã đưa ra một số kết quả nghiên cứu khả năng thiêu kết, đánh giá
ảnh hưởng điều kiện thiêu kết lên tính kết khối, kích thước hạt vật liệu và định hướng lựa chọn công
nghệ chế tạo vật liệu gốm quang học đa tinh thể hạt mịn trong suốt bức xạ hồng ngoại trên cơ sở
bột nano MgF2. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng ở nhiệt độ 650-700
oC sự lớn lên của các hạt khá
rõ rệt, còn phương pháp thiêu kết không có áp lực không thể thu được vật liệu gốm quang học trên
cơ sở bột nano MgF2 với cấu trúc theo yêu cầu. Thiêu kết dưới áp lực sẽ làm chậm quá trình kết
tinh lại, ngăn cản sự lớn lên của hạt và đảm bảo...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 442 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu khả năng thiêu kết và lựa chọn công nghệ chế tạo gốm quang học đa tinh thể hạt mịn trong suốt bức xạ hồng ngoại trên cơ sở bột nano MgF2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vật lý
N.K.Hoàn, N.N.Hưng, V.L.Hoàng, V.T.Nhung, N.T.Học, S.C.Doanh “Nghiờn cứu MgF2.” 118
NGHIÊN CứU KHả NĂNG THIÊU KếT Và LựA CHọN
CÔNG NGHệ CHế TạO GốM QUANG HọC ĐA TINH THể
HạT MịN TRONG SuốT BứC Xạ HồNG NGOạI TRÊN
CƠ Sở BộT NANO MgF2
Nguyễn Khải Hoàn*, Nguyễn Ngọc Hưng**, Vũ Lê Hoàng**, Vũ Thị Nhung**,
Nguyễn Thái Học**, Sái Công Doanh***
Tóm tắt: Trong bài báo này đã đưa ra một số kết quả nghiên cứu khả năng thiêu kết, đánh giá
ảnh hưởng điều kiện thiêu kết lên tính kết khối, kích thước hạt vật liệu và định hướng lựa chọn công
nghệ chế tạo vật liệu gốm quang học đa tinh thể hạt mịn trong suốt bức xạ hồng ngoại trên cơ sở
bột nano MgF2. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng ở nhiệt độ 650-700
oC sự lớn lên của các hạt khá
rõ rệt, còn phương pháp thiêu kết không có áp lực không thể thu được vật liệu gốm quang học trên
cơ sở bột nano MgF2 với cấu trúc theo yêu cầu. Thiêu kết dưới áp lực sẽ làm chậm quá trình kết
tinh lại, ngăn cản sự lớn lên của hạt và đảm bảo thu được vật liệu có tỷ trọng cao.
Từ khoá: Gốm quang học đa tinh thể trong suốt hồng ngoại, Bột nano MgF2.
1. Đặt vấn đề
Trong chiến tranh công nghệ cao khi sử dụng các loại vũ khí thông minh, có điều khiển (tên
lửa hồng ngoại, vũ khí laser) phải ứng dụng các loại vật liệu đặc chủng, trong đó có vật liệu
gốm quang học đa tinh thể trong suốt hồng ngoại. Hiện nay, loại vật liệu này đang được ứng
dụng rộng rãi để chế tạo các cửa ra, các thấu kính hội tụ, các tấm chia quang, cũng như các lăng
kính và gương bán phản xạ [2,3,8].
Vật liệu gốm quang học đa tinh thể có các tính chất quang học không thua kém so với vật
liệu đơn tinh thể và có một số ưu điểm như: giá thành rẻ hơn, dễ dàng chế tạo các chi tiết kích
thước lớn và có hình dạng phức tạp, các tính chất cơ học cao hơn (đặc biệt là độ dai phá huỷ),
hàm lượng cao các iôn-hoạt hoá phân bố đồng đều (ví dụ Nd:YAG), vật liệu quang với các thành
phần mà rất khó hoặc không thể chế tạo ở dạng đơn tinh thể (ví dụ Y2O3), ở nhiệt độ chế tạo thấp
hơn (nhiệt độ thiêu kết gốm quang học khoảng 60-80% nhiệt độ nóng chảy). Chính vì vậy, vật
liệu gốm quang học đa tinh thể đang dần thay thế vật liệu đơn tinh thể để chế tạo các hệ quang
học [3,4,6].
ở Việt Nam, nghiên cứu chế tạo gốm quang học trong suốt bức xạ hồng ngoại còn mới mẻ,
đặc biệt cho các ứng dụng trong kỹ thuật quân sự. Hầu hết các loại tên lửa tự dẫn hồng ngoại, vũ
khí ảnh nhiệt, laser hiện có trang bị trong quân đội ta đều có ứng dụng các loại vật liệu này. Do
đó, nghiên cứu đặc điểm và công nghệ chế tạo gốm quang học MgF2 đa tinh thể trong suốt bức
xạ hồng ngoại là bước khởi đầu nhằm hình thành hướng nghiên cứu, xây dựng đội ngũ khoa học-
công nghệ chế tạo các loại gốm quang học cho quân đội ta.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Để chế tạo được vật liệu gốm quang học đa tinh thể trong suốt bức xạ hồng ngoại với các
tính chất quang học theo yêu cầu thì phải “thiết kế” được cấu trúc vật liệu đảm bảo sự tán xạ
ánh sáng thấp nhất, đặc biệt đối với vật liệu với cấu trúc phi lập phương. Nguyên liệu bột ban
đầu phải thoả mãn các yêu cầu: kích thước hạt cỡ nano, đồng nhất về kích thước theo toàn bộ
thể tích, bột dạng hình cầu, không có sự tích tụ cục bộ, độ sạch cao, tăng cường (độn) các ion
hoạt hóa ở mức độ phân tử. Trong nghiên cứu này, bột MgF2 ban đầu có độ sạch cao (>99%),
được hợp kim hoá 0,2% nguyên tố Ca. Sự có mặt nguyên tố Ca sẽ làm giảm lưỡng chiết quang
do textua xuống 2-3 lần [3].
Vật liệu MgF2 với cấu trúc mạng tinh thể tứ phương (a=b#c) (hình 1), có khoảng bước sóng
làm việc từ 1-7 àm với độ trong suốt 80-90%. Do có cấu trúc mạng phi lập phương nên kích
Nghiờn cứu khoa học cụng nghệ
Tạp chớ Nghiờn cứu KH&CN quõn sự, Số 32, 08 - 2014 119
thước hạt của vật liệu có vai trò rất quan trọng đối với các tính chất quang và cơ-lý của vật liệu.
Ngoài ra, để vật liệu có các tính chất quang tốt nhất, khối lượng riêng phải lớn hơn 99,5-99,6%
so với lý thuyết, gần như không có các lỗ rỗng xốp [3,6,8,9].
a)
b)
Hình 1. Mạng cơ sở (a) và sơ đồ khai triển mạng tinh thể của vật liệu MgF2 (b).
Công nghệ chế tạo vật liệu gốm quang học gồm các bước chuẩn bị bột, ép tạo hình, thiêu kết.
Trong nghiên cứu này mẫu vật liệu trước khi thiêu kết được ép với áp lực 4 tấn/cm2 trên thiết bị
ép thuỷ lực. Thiêu kết được tiến hành trong lò ống chân không CD1600X, độ chân không 10-2
mmHg. Phương pháp khảo sát cấu trúc, kích thước hạt bằng nhiễu xạ tia Rơngen (XRD) và chụp
ảnh hiển vi điện tử quét (SEM). Xác định độ co ngót mẫu vật liệu bằng cách đo kích thước mẫu
trước và sau khi thiêu kết. Đo khối lượng riêng bằng phương pháp cân thuỷ tĩnh.
3. Kết quả và thảo luận
Kết quả phân tích ảnh SEM thấy rằng kích thước hạt bột MgF2 khoảng 30-50 nm, khá đồng
đều, hình cầu. Giản đồ nhiễu xạ XRD khẳng định bột nguyên liệu sạch khi so sánh với dữ liệu
trong JC PDS Database của vật liệu MgF2 (hình 2).
a)
b)
Hình 2. ảnh SEM (a) và giản đồ nhiễu xạ XRD (b) của bột gốm nano MgF2.
Vật lý
N.K.Hoàn, N.N.Hưng, V.L.Hoàng, V.T.Nhung, N.T.Học, S.C.Doanh “Nghiờn cứu MgF2.” 120
Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ thiêu kết đến khả năng kết khối vật liệu và sự lớn
lên của hạt thấy rằng thiêu kết không có áp lực chỉ có thể thu được vật liệu với khối lượng riêng
tỷ đối đạt 0,75-0,76 so với lý thuyết, thậm chí khi thiêu kết đến 1000 oC, gần nhiệt độ nóng chảy
của vật liệu MgF2 (hình 3). Điều này là do ở giai đoạn cuối thiêu kết khi mà chỉ còn các lỗ rỗng
xốp kín, các hạt tinh thể bắt đầu lớn lên mạnh. Do sự kết tinh lại mạnh mẽ, một lượng lớn các
tạp khí sẽ bị bao bọc bởi các hạt tinh thể và chúng di chuyển từ biên giới hạt vào bên trong hạt
tinh thể (hình 4). Chính vì vậy, quá trình khuếch tán làm tăng kích thước lỗ xốp (đặc biệt là các
lỗ xốp nằm cách xa các biên hạt) sẽ không có hiệu quả [1]. Theo mức độ giảm kích thước của
các lỗ xốp thì áp suất khí trong lỗ xốp sẽ tăng lên và có thể cân bằng với các lực căng bề mặt có
xu hướng làm biến dạng các lỗ rỗng xốp. Trong trường hợp này các lỗ xốp là các khuyết tật cấu
trúc và loại bỏ chúng sẽ không tiếp tục xảy ra. Từ quan điểm chế tạo vật liệu gốm quang học đa
tinh thể thì thời điểm quan tâm nhất chính là giai đoạn xuất hiện lỗ rỗng xốp kín và bắt đầu có
sự kết tinh lại mãnh liệt.
a)
b)
Hình 3. Sự phụ thuộc độ co ngót (a) và khối lượng riêng
(b) của vật liệu gốm MgF2 vào nhiệt độthiêu kết.
Khi chế tạo gốm quang học có cấu trúc mạng tinh thể đẳng hướng quang học (cấu trúc mạng
lập phương) không có yêu cầu khắt khe về kích thước hạt tinh thể đối với dải bước sóng sử dụng,
mặc dù kích thước hạt càng mịn thì độ bền của vật liệu càng cao. Tuy nhiên, đối với các loại vật
liệu đa tinh thể có cấu trúc mạng tinh thể dị hướng quang học (như cấu trúc tứ phương, lục
giác...) thì hoàn toàn ngược lại. Sự lớn lên của hạt, ngoài ảnh hưởng đến độ bền của vật liệu, còn
ảnh hưởng mạnh đến một trong những tính chất quan trong nhất của hệ vật liệu này là độ truyền
qua của ánh sáng. Chính vì vậy, nghiên cứu sự lớn lên của hạt trong quá trình thiêu kết đóng một
vai trò đặc biệt quan trọng. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng ở nhiệt độ 600 oC giữa các hạt cũng
đã có sự liên kết, bắt đầu giai đoạn đầu của quá trình thiêu kết (các hạt xích lại gần nhau, hình
thành "cầu nối" các hạt). Khi nhiệt độ thiêu kết ở 650-700 oC các lỗ rỗng xốp được hình thành ở
biên giới các hạt và kích thước hạt tăng lên rõ rệt (hình 4). Từ kết quả này cũng thấy rằng kích
thước hạt của vật liệu phụ thuộc mạnh vào nhiệt độ thiêu kết (bảng 1).
Bảng 1. Kích thước hạt trung bình của mẫu gốm MgF2 sau thiêu kết ở các nhiệt độ khác nhau.
Nhiệt độ thiêu kết, oC 600 650 700 800 900 1000
Kích thước hạt trung bình, m 0,15-0,20 0,4 0,5 1,8 30 45-50
Nghiờn cứu khoa học cụng nghệ
Tạp chớ Nghiờn cứu KH&CN quõn sự, Số 32, 08 - 2014 121
Khi nhiệt độ thiêu kết ở 600 oC, kích thước hạt chỉ khoảng 0,15-0,20 m , nhưng khi thiêu
kết ở nhiệt độ 700 oC thì kích thước hạt đã đạt giá trị 0,5 m ; còn khi nhiệt độ thiêu kết 900-
1000 oC kích thước hạt lớn rất mạnh và đạt giá trị 30-50 m . Như vậy, kích thước hạt của vật
liệu rất nhạy cảm với sự tăng nhiệt độ và tăng nhanh trong khoảng giá trị nhiệt độ không quá
lớn.
1)
2)
3)
4)
5)
6)
Hình 4. ảnh SEM mẫu vật liệu gốm MgF2 được thiêu kết ở các nhiệt độ khác nhau:
1 – 600 oC; 2 – 650 oC; 3 – 700 oC; 4 – 800 oC; 5 – 900 oC; 6 – 1000 oC.
Hình thành các lỗ xốp bên trong hạt là không mong muốn vì chúng không thể loại bỏ được
bằng các phương pháp khác, chẳng hạn bằng ép nóng đẳng tĩnh [6,7,8]. Kết quả này cũng khẳng
định rằng không thể sử dụng phương pháp thiêu kết không có áp lực để chế tạo vật liệu gốm
quang học đa tinh thể trong suốt bức xạ hồng ngoại với cấu trúc hạt mịn trên cơ sở bột nano
MgF2. Để hạn chế sự lớn lên của hạt và thu được vật liệu với cấu trúc hạt mịn chỉ có thể tiến
hành thiêu kết ở nhiệt độ thấp hoặc tiến hành thiêu kết dưới áp lực cao [3,5,7,8]. Sử dụng phương
pháp thiêu kết ở nhiệt độ thấp không thể đảm bảo vật liệu kết khối tốt, thời gian thiêu kết bị kéo
dài, không thể loại bỏ được các lỗ rỗng xốp. Phương pháp thiêu kết ở nhiệt độ thấp chỉ có thể
được sử dụng để chuẩn bị mẫu vật liệu sơ bộ trước khi tiến hành ép nóng đẳng tĩnh [5,7]. Kéo
dài thời gian thiêu kết sẽ làm kích thước hạt tinh thể tăng, không đáp ứng yêu cầu đối với vật
liệu gốm quang học trên cơ sở MgF2. Đã nghiên cứu so sánh cấu trúc vật liệu gốm được thiêu
kết ở điều kiện không có áp lực và có áp lực (hình 5). Kết quả cho thấy dù áp lực không lớn
(0,3MPa) nhưng vật liệu đã kết khối tốt hơn, hình thành biên hạt rõ ràng, loại bỏ được các lỗ
rỗng xốp. Khối lượng riêng tỷ đối của vật liệu được thiêu kết khi không có áp lực đạt 0,7; còn
thiêu kết dưới áp lực thấp (0,3MPa) – 0,98. Mặt khác, dưới tác dụng của áp lực không chỉ loại
bỏ các lỗ rỗng xốp, mà còn cản trở sự kết tinh lại của vật liệu và sẽ làm chậm quá trình lớn lên
của hạt, đảm bảo thu được vật liệu với cấu trúc hạt mịn hơn [3,4]. Kích thước hạt trung bình của
vật liệu khi thiêu kết không có áp lực và dưới áp lực thấp là tương đương nhau và đạt 0,45-
0,50 m . Tuy nhiên, nếu như tiến hành ép nóng với áp lực lớn hơn có khả năng sẽ ngăn cản sự
Vật lý
N.K.Hoàn, N.N.Hưng, V.L.Hoàng, V.T.Nhung, N.T.Học, S.C.Doanh “Nghiờn cứu MgF2.” 122
lớn lên của hạt mạnh hơn, tiến hành ép nóng ở nhiệt độ thấp hơn và cho phép thu được vật liệu
gốm với cấu trúc hạt mịn theo yêu cầu.
a) b)
Hình 5. ảnh SEM mẫu vật liệu gốm MgF2 được thiêu kết ở điều kiện
không có áp lực (a) và dưới áp lực thấp (b) ở nhiệt độ 700 oC.
4. Kết luận
Để chế tạo vật liệu gốm quang học hạt mịn trên cơ sở bột nano MgF2 phải lựa chọn công
nghệ đảm bảo hạn chế tối đa sự lớn lên của hạt bột nhằm thu được cấu trúc hạt mịn, tạo ra vật
liệu với khối lượng riêng 99,9% so với lý thuyết, không có lỗ rỗng xốp (sửa các khuyết tật mạng
tinh thể, giảm thiểu tối đa các tâm hấp thụ và tán xạ ánh sáng bên trong vật liệu). Phương pháp
thiêu kết không có áp lực không thể chế tạo được vật liệu gốm quang học trên cơ sở MgF2 với
các tính chất theo yêu cầu. Để giảm thiểu sự lớn lên của hạt, làm chậm quá trình kết tinh lại và
thu được vật liệu có tỷ trọng cao thì cần phải tiến hành thiêu kết dưới áp lực, tức là công nghệ ép
nóng. Nghiên cứu đã xác định được khoảng nhiệt độ ép nóng phù hợp cho chế tạo gốm quang
học với cấu trúc hạt mịn trên cơ sở bột nano MgF2.
Tài liệu tham khảo
[1]. Будников П.П. (ред.). Процессы керамического производства/ М.-
Издательство иностранной литературы, 1960 - 267 с.
[2]. Вильчинская С.С. Оптические материалы и технологии/ Вильчинская С.С.,
Лисицын В.М.// Учебное пособие. - Томск, ТПУ, 2011 - 107 с.
[3]. Волынец Ф. К. Способы изготовления, структура и физико-химические
свойства оптической керамики/ Ф. К Волынец// Оптико-механическая
промышленность, 1973, № 9, С. 48-61.
[4]. Физико-химические основы получения оптической керамики состава
CaLa2S4// Кертман А.В./ Вестник Тюменского Государственного
Университета, 2010, №3, С. 227-233.
[5]. Mal'tsev, M. V. Fabrication of optical-ceramic preforms without mechanical
treatments/ Mal'tsev M. V., Udalova L. V., Goryachev A. Ya., Levina N. K.
Perminova N. B.// Opticheskii Zhurnal, 1993, (1), pp. 69-72.
[6]. Оптическая фторидная нанокерамика/ П.П. Федоров, В.В. Осико, Т.Т.
Басиев, Ю.В. Орловский// Российские нанотехнологии, 2007, Том 8, № 5-6,
C.95-105.
[7]. Hot Isostatic Pressing of MgAl2O4 Spinel Infrared Windows/ D.S. Tsai, C.T.
Wang, S.J. Yang & and S.E. Hsu// Materials and Manufacturing Processes, 1994,
Volume 9, Issue 4, pages 709-719.
[8]. Processing of nanopowders into transparent ceramics for infrared windows in
Nghiờn cứu khoa học cụng nghệ
Tạp chớ Nghiờn cứu KH&CN quõn sự, Số 32, 08 - 2014 123
heat seeking applications/ Jain, Mohit; Skandan, Ganesh; Singhal, Amit;
Agrawal, Dinesh// Window and Dome Technologies VIII. Edited by Tustison,
Randal W. Proceedings of the SPIE, Volume 5078, pp. 189-198 (2003).
[9]. Effect of Microstructure on Transmission Properties of Polycrystalline
Transparent Ceramics/ Qing Li, Guo Ping Zhang, Yang Liu, Hao Wang, Li Wen
Lei// Materials Science Forum, 2011, Volumes 704 - 705, pp. 842-846.
[10]. Physics and Technology of Transparent Ceramic Armor: Sintered Al2O3 vs
Cubic Materials/ Krell, A.; Hutzler, T.; Klimke, J.// NATO Research and
Technology Organization (RTO), Applied Vehicle Technological Panel (AVT):
Specialists Meeting on "Nanomaterials Technology for Military Vehicle
Structural Applications", Granada, Spain, Oct. 3-4 2005, Paper 14.
Abstract
Investigation on the sintering ability and choice of manufacturing
technology for Infrared transparent optical polycrystalline
ceramic with fine grains based on nanopowder MgF2
This article presents the sintering ability, the influence of sintering conditions on
monolithic character, grain size of material and choice of manufacturing technology
for fine-grain infrared-transparent optical polycrystalline ceramic based on
nanopowder MgF2 are researched. The results are showed that the grains grow clearly
at 650-700 oC and sintering without pressure does not allow to receive an optical
ceramic with the required structure. Sintering under pressure slows down the process
of recrystallization, inhibits grain growth and provides a high-density material.
Keywords: Infrared transparent optical polycrystalline ceramic, Nanopowder MgF2.
Nhận bài ngày 03 thỏng 04 năm 2014
Hoàn thiện ngày 01 thỏng 06 năm 2014
Chấp nhận đăng ngày 28 thỏng 07 năm 2014
Địa chỉ: *
**
***
Cục Khoa học Quân sự/ Bộ Quốc phòng;
Viện Công nghệ/ Tổng cục CN Quốc phòng; e-mail: bambitvol@gmail.com
Khoa Vật lý/ Đại học Quốc gia Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 16_nguyenkhaihoan_r_719_2149271.pdf