Tài liệu Nghiên cứu giải phẫu động mạch quay: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 119
NGHIÊN CỨU GIẢI PHẪU ĐỘNG MẠCH QUAY
Nguyễn Hoàng Vũ*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Động mạch quay là một trong hai đường phổ biến được chọn lựa trong kỹ thuật thông tim.
Ngoài ra, động mạch quay còn là động mạch nguồn dùng làm mạch ghép trong phẫu thuật bắc cầu động mạch
vành. Sự thay đổi về giải phẫu động mạch quay là rất quan trọng trên lâm sàng. Do đó, nghiên cứu về giải phẫu
động mạch quay là rất cần thiết.
Mục tiêu: Khảo sát các đặc điểm giải phẫu động mạch quay.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 100 mẫu động mạch quay lấy từ 51 xác ướp tại bộ môn Giải phẫu
học, Đại học Y Dược TPHCM.
Kết quả: 99 (99%) trường hợp động mạch quay xuất phát từ động mạch cánh tay, 1(1%) trường hợp xuất
phát từ động mạch nách. 96% trường hợp xuất phát dưới đường liên lồi cầu xương cánh tay, 4% xuất phát trên
đường liên lồi cầu. Đường kính trung bình động mạch quay là 2,82 ± 0,55mm, nhỏ hơn đ...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 05/07/2023 | Lượt xem: 215 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu giải phẫu động mạch quay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 119
NGHIÊN CỨU GIẢI PHẪU ĐỘNG MẠCH QUAY
Nguyễn Hoàng Vũ*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Động mạch quay là một trong hai đường phổ biến được chọn lựa trong kỹ thuật thông tim.
Ngoài ra, động mạch quay còn là động mạch nguồn dùng làm mạch ghép trong phẫu thuật bắc cầu động mạch
vành. Sự thay đổi về giải phẫu động mạch quay là rất quan trọng trên lâm sàng. Do đó, nghiên cứu về giải phẫu
động mạch quay là rất cần thiết.
Mục tiêu: Khảo sát các đặc điểm giải phẫu động mạch quay.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 100 mẫu động mạch quay lấy từ 51 xác ướp tại bộ môn Giải phẫu
học, Đại học Y Dược TPHCM.
Kết quả: 99 (99%) trường hợp động mạch quay xuất phát từ động mạch cánh tay, 1(1%) trường hợp xuất
phát từ động mạch nách. 96% trường hợp xuất phát dưới đường liên lồi cầu xương cánh tay, 4% xuất phát trên
đường liên lồi cầu. Đường kính trung bình động mạch quay là 2,82 ± 0,55mm, nhỏ hơn động mạch trụ (3,40 ±
0,51mm). Không có sự khác biệt về đường kính giữa động mạch quay bên phải và bên trái. Động mạch quặt
ngược quay xuất phát dưới đường liên lồi cầu 33,30 ± 7,55mm. Có 21% trường hợp không có nhánh gan cổ tay,
2% trường hợp không có nhánh động mạch ngón cái chính.
Kết luận: Động mạch quay xuất phát từ động mạch cánh tay ở dưới đường liên lồi cầu xương cánh tay
nhưng có thể xuất phát cao hơn. Đường kính động mạch quay nhỏ hơn động mạch trụ. Các nhánh của động
mạch quay có thể không có như nhánh gan cổ tay, động mạch ngón cái chính.
Từ khóa: động mạch quay, động mạch quặt ngược quay, động mạch ngón cái chính, xuất phát cao
ABSTRACT
A STUDY ON ANATOMY OF RADIAL ARTERY
Nguyen Hoang Vu
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 119-124
Background: Radial artery is one of the two common ways for cardiac catheterization. In additions, radial
artery is used for coronary arteries bypass sugery. Variations of anatomy of radial artery are clinically important.
Therefore, it is essential to study on anatomy of radial artery.
Objectives: To survey the anatomical characteristics of radial artery.
Materials and methods: 100 radial arteries of 51 embalmed cadavers at Anatomy Department, University
of Medicine and Pharmacy at Ho Chi Minh city.
Results: The radial artery originated from brachial artery in 99 specimens (99%), from the axillary artery in
1 specimen (1%). The radial artery originated below the intercodylar line in 96%, and above this line in 4%. The
average diameter of radial artery was 2.82 ± 0.55mm, smaller than that of the ulnar artery (3.40 ± 0.51mm).
There was no difference in the mean diameter beween the right and the left radial artery. The radial recurrent
artery originated from 33.30 ± 7.55mm below the intercondylar line. The palmar carpal branch was absent in
21%, the princeps pollicis artery was absent in 2%.
Conclusion: The radial artery originated from the brachial artery below the intercondylar line but might
.* Bộ môn Giải phẫu học, ĐH Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: TS. Nguyễn Hoàng Vũ. ĐT: 0903 86 32 52. Email: vunguyen@ump.edu.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 120
originate from a higher possition. The diameter of the radial artery was smaller the ulnar artery. The branhes of
the radial artery might be absent, such as the palmar carpal branch, the princeps pollicis artery.
Keywords: radial artery, radial recurrent artery, princeps pollicis artery, high origin.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với động mạch trụ, động mạch quay
xuất phát từ động mạch cánh tay ở hố khuỷu và
cấp máu cho vùng cẳng tay và bàn tay.
Các phẫu thuật vùng cẳng tay, bàn tay vốn là
những phẫu thuật phổ biến. Ngày nay, trong kỹ
thuật thông tim, thì đường thông qua động
mạch quay thường được chọn do ít xảy ra biến
chứng hơn so với đường qua động mạch đùi(2,8).
Mặt khác, động mạch quay là một trong những
động mạch dùng làm mạch ghép trong phẫu
thuật bắc cầu động mạch vành, một phẫu thuật
khá phổ biến hiện nay(3). Do đó, sự thay đổi về
giải phẫu động mạch quay rất có ý nghĩa trên
lâm sàng.
Trên thế giới cũng đã có những nghiên cứu
về giải phẫu động mạch quay nhưng đó là
những nghiên cứu tiến hành trên người nước
ngoài. Trái lại, các nghiên cứu giải phẫu động
mạch quay trên người Việt Nam còn khiêm tốn.
Đặc điểm hình thái nói chung và đặc điểm về
giải phẫu nói riêng ở người Việt Nam không
giống với người nước ngoài. Vì vậy chúng tôi
tiến hành nghiên cứu này nhằm khảo sát các đặc
điểm giải phẫu động mạch quay trên người Việt
Nam. Qua nghiên cứu này, chúng tôi mong
muốn đưa ra các số liệu để giúp các bác sĩ lâm
sàng có thêm thông tin cần thiết để tham khảo,
đồng thời góp phần bổ sung vào hằng số hình
thái học người Việt Nam.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
100 mẫu động mạch quay lấy trên 51 xác
người Việt Nam, gồm 30 nam, 21 nữ, tuổi từ 40
đến 88, trung bình là 66,78 tuổi. Xác đã được ướp
formol và lưu trữ tại bộ môn Giải phẫu học, Đại
học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu
Mô tả cắt ngang.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Mẫu được chọn thuận tiện, là những xác
được sử dụng để phục vụ giảng dạy sinh viên
các năm học 2016 – 2017 và năm học 2017 – 2018.
Tiêu chuẩn loại trừ
Xác có vết thương, có sẹo mổ vùng cẳng tay
hay bàn tay.
Các trường hợp không tìm được động
mạch quay.
Phương pháp phẫu tích
Xác được đặt nằm ngửa, hai bàn tay ngửa.
Tiến hành mổ vào mặt trước vùng khuỷu và
mặt trước cẳng tay đến gan tay. Đường mổ bắt
đầu từ 3cm phía trên nếp khuỷu, kéo dài xuống
dưới đến nếp xa cổ tay.
Ở gan tay, đường mổ đi theo đường dọc
giữa gan bàn tay và một đường ngang phần xa
gan tay, gần gốc các ngón tay.
Tách cơ cánh tay quay, bóc tách động mạch quay.
Ghi nhận, đo đạc các chỉ số vào phiếu thu
thập số liệu:
Nguyên ủy động mạch quay.
Vị trí nguyên ủy động mạch quay so với
đường thẳng ngang qua hai lồi cầu xương
cánh tay.
Đường kính động mạch quay tại nguyên ủy.
Đường kính động trụ tại nguyên ủy.
Khoảng cách từ nguyên ủy động mạch
quặt ngược quay đến đường liên lồi cầu xương
cánh tay.
Xác định sự hiện diện của động mạch ngón
cái chính, nhánh mu cổ tay, nhánh gan cổ tay,
nhánh gan tay nông.
Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS.
KẾT QUẢ
Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trên 51 xác ướp
gồm 30 nam và 21 nữ. Tuổi của mẫu nghiên cứu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 121
từ 40 đến 88 tuổi, trung bình là 66,78.
Trong quá trình phẫu tích lấy mẫu, có một
xác chỉ khảo sát được động mạch quay bên phải
và một xác chỉ khảo sát được động mạch quay
bên trái. Vì vậy, cuối cùng chúng tôi chọn được
100 mẫu động mạch quay gồm 50 mẫu bên phải
và 50 mẫu bên trái đưa vào nghiên cứu.
Nguyên ủy động mạch quay
99% trường hợp động mạch quay xuất phát
từ động mạch cánh tay, 1% trường hợp xuất
phát từ động mạch nách.
Về vị trí xuất phát của động mạch quay so
với đường liên lồi cầu xương cánh tay (Bảng 1).
Bảng 1: Vị trí nguyên ủy ĐM quay so với đường liên
lồi cầu xương cánh tay
Vị trí nguyên ủy ĐM quay so với
đường liên lồi cầu
Trên Dưới
Số trường hợp 4 96
Tỷ lệ % 4% 96%
Khoảng cách từ nguyên ủy động mạch quay
đối với đường liên lồi cầu
96 trường hợp điểm xuất phát của động
mạch quay ở phía dưới đường liên lồi cầu và
dưới đường này một khoảng là 29,87 ± 7,49mm.
04 trường hợp động mạch quay xuất phát
cao, phía trên đường liên lồi cầu xương cánh tay
và trên đường này một khoảng là 149,83 ±
7,66mm.
Đường kính động mạch quay
Đường kính trung bình động mạch quay bên
phải, bên trái và chung cho toàn bộ mẫu nghiên
cứu được trinh bày ở Bảng 2.
Bảng 2: Đường kính động mạch quay
Động mạch (ĐM) Số mẫu Đường kính trung bình
(mm)
ĐM quay trái 50 2,74 ± 0,57
ĐM quay phải 50 2,90 ± 0,53
Chung hai bên 100 2,82 ± 0,55
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
đường kính trung bình của động mạch quay bên
phải và bên trái.
Đường kính động mạch quay theo giới
Đường kính động mạch quay ở nam là
2,95±0,54mm, ở nữ là 2,64±0,52mm
Đường kính động mạch quay ở nam lớn hơn
ở nữ, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p<0,05.
So sánh đường kính động mạch quay và động
mạch trụ
Chúng tôi đo đường kính động mạch trụ tại
nguyên ủy để so sánh đường kính động mạch
quay và động mạch trụ. Kết quả là đường kính
động mạch trụ lớn hơn đường kính động mạch
quay, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p<0,01. Kết quả được biểu thị ở Bảng 3, Hình 1.
Bảng 3: Đường kính động mạch quay và động mạch trụ
Động mạch (ĐM) Số mẫu
Đường kính
trung bình (mm)
ĐM quay 100 2,82 ± 0,55
ĐM trụ 100 3,40 ± 0,51
Hình 1. Động mạch (ĐM) quay và ĐM trụ xuất phát từ ĐM cánh
ĐM cánh tay
ĐM quay
ĐM trụ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 122
Vị trí xuất phát của động mạch quặt ngược
quay
Động mạch quặt ngược quay xuất phát từ
động mạch quay, phía dưới đường liên lồi cầu
xương cánh tay một khoảng từ 10,05 đến
48,32mm, trung bình là 33,30 ± 7,55mm.
Nhánh gan cổ tay và nhánh mu cổ tay
Nhánh gan cổ tay: 79 (79%) trường hợp có
nhánh gan cổ tay, 21 (21%) trường hợp không có
nhánh gan cổ tay.
Nhánh mu cổ tay: 100% trường hợp động
mạch quay cho nhánh mu cổ tay.
Động mạch ngón cái chính
98 trường hợp (98%) có động mạch ngón cái
chính; 2 trường hợp (2%) không có nhánh động
mạch ngón cái chính. Đường kính trung bình
của động mạch ngón cái chính là 1,45 ± 0,38mm
(từ 0,69mm đến 2,92mm).
BÀN LUẬN
Về đặc điểm mẫu nghiên cứu
Cho đến nay, xác vẫn là phương tiện nghiên
cứu giải phẫu tốt nhất vì cho các chi tiết giải
phẫu rất cụ thể. Tuy nhiên, nghiên cứu này thực
hiện trên xác ướp, các kết quả về nguyên ủy
động mạch, vị trí xuất phát của các nhánh, sự
hiện diện của nhánh bên sẽ không bị ảnh hưởng
và sẽ giống như trên người sống. Trái lại, kết quả
về đường kính động mạch có thể sẽ thay đổi do
thành mạch giảm tính đàn hồi, vì vậy kết quả có
thể khác với kết quả khi đo trên phương tiện
chẩn đoán hình ảnh và trên người sống.
Vị trí xuất phát của động mạch quay
Bình thường, động mạch quay xuất phát
ngang hoặc dưới đường liên lồi cầu xương
cánh tay. Nghiên cứu này gặp 3 trường hợp
(3%) động mạch quay xuất phát từ động mạch
cánh tay nhưng ở vị trí cao, cách đường liên lồi
cầu 14,17cm đến 15,68cm và 01 trường hợp
động mạch quay xuất phát từ động mạch
nách. Theo Lê Văn Cường(6) nghiên cứa trên
người Việt Nam, tỷ lệ động mạch quay xuất
phát cao gặp trong 4% trường hợp. Các nghiên
cứu trên thế giới cũng ghi nhận tỷ lệ động
mạch quay xuất phát cao từ 4,1% đến
15,6%(5,7,8,9). Năm 2006, khi phẫu tích xác tại
khoa Giải phẫu của đại học Baskent, Thỗ Nhĩ
Kỳ, Pelin C(10) gặp một trường hợp động mạch
quay xuất phát từ động mạch cánh tay, phía
trên đường liên lồi cầu xương cánh tay một
khoảng 12cm. Tương tự, năm 2014, Aparna(1)
báo cáo một trường hợp động mạch quay xuất
phát từ động mạch nách khi phẫu tích xác tại
khoa Giải phẫu trường NRI Medical College,
Chinnakakani, Ấn Độ.
Trường hợp động mạch quay xuất phát cao
rất có ý nghĩa lâm sàng. Trong kỹ thuật thông
tim, động mạch quay thường được chọn hơn
động mạch đùi vì cấu trúc giải phẫu quanh động
mạch quay ít phức tạp hơn so với động mạch
đùi(4). Tuy nhiên, khi có bất thường giải phẫu
như khi động mạch quay xuất phát cao lại là một
trong những nguyên nhân gây thất bại của thủ
thuật và có thể dễ có biến chứng như co thắt
mạch hoặc tắc mạch do huyết khối(4,10,11,12). Vì
vậy, phát hiện những bất thường này trước khi
tiến hành thủ thuật là điều rất quan trọng và rất
cần thiết (Hình 2).
Đường kính động mạch quay
Đường kính động mạch quay trong nghiên
cứu này tại nguyên ủy là 2,82 ± 0,55mm, tương
đương với nghiên cứu của tác giả Lê Văn
Cường(6) là 2,8mm.
Về so sánh đường kính động mạch quay bên
phải và bên trái, kết quả nghiên cứu này là
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Cho
đến thời điểm nghiên cứu, chúng tôi chưa tìm
được tài liệu hoặc nghiên cứu nào so sánh
đường kính trung bình động mạch quay bên
phải và bên trái.
Đường kính động mạch quay theo giới
Bảng 4: So sánh đường kính động mạch quay giữa
nam và nữ
Đường kính ĐM quay theo giới Nam Nữ
Nasr AY 3,30 ± 0,72 3,20±0,76
Chúng tôi 2,95 ± 0,54 2,64 ± 0,52
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 123
Tác giả Nasr(7) nghiên cứu trên 50 xác ướp
gồm 30 nam và 20 nữ cho thấy đường kính
trung bình động mạch quay ở nam lớn hơn ở nữ
có ý nghĩa thống kê.
Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho kết kính
động mạch quay ở nam lớn hơn ở nữ.
So sánh đường kính động mạch quay và động
mạch trụ
Động mạch quay và động mạch trụ là hai
nhánh tận của động mạch cánh tay. Nghiên cứu
này cho kết quả là động mạch trụ lớn hơn động
mạch quay. Trong các tài liệu về giải phẫu học
đều mô tả động mạch trụ lớn hơn động mạch
quay nhưng không đưa ra số đo cụ thể(7,10). Điều
này có thể giải thích là vì động mạch trụ không
chỉ có vai trò cung cấp máu cho các cơ vùng
cẳng tay trước như động mạch quay mà còn
cung cấp máu cho các cơ vùng cẳng tay sau qua
động mạch gian cốt sau.
Về các nhánh chính của động mạch quay
Nghiên cứu của chúng tôi khảo sát các
nhánh chính của động mạch quay như động
mạch quặt ngược quay, nhánh mu cổ tay, nhánh
gan cổ tay, động mạch ngón cái chính để góp
phần tìm hiểu các số liệu hình thái của người
Việt Nam. Các chỉ số này cũng chưa được
nghiên cứu trước đây nên chúng tôi chưa có cơ
sở so sánh.
KẾT LUẬN
Cùng với động mạch trụ, động mạch quay
xuất phát từ động mạch cánh tay ở vị trí dưới
đường liên lồi cầu xương cánh tay. Tuy nhiên, có
4% trường hợp động mạch quay xuất phát cao,
trong đó có 1 trường hợp động mạch quay xuất
phát từ động mạch nách. Điều này có ý nghĩa
quan trọng trong lâm sàng, là một trong những
nguyên nhân gây khó khăn trong kỹ thuật
thông tim.
Đường kính động mạch quay nhỏ hơn
đường kính động mạch trụ. Đường kính động
mạch quay bên phải và bên trái thì không có
sự khác biệt.
Động mạch quay cho nhánh đầu tiên là động
mạch quặt ngược quay, góp phần tạo nên mạng
mạch quanh khớp khuỷu. Động mạch quặt
ngược quay thường xuất phát phía dưới đường
liên lồi cầu xương cánh tay khoảng 33,30mm.
Có 2% trường hợp động mạch quay không
cho nhánh động mạch ngón cái chính.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aparna G, Sarada DSS (2014). Superficial radial artery – a case
report. Int J Res Dev Health, 2(1): 48-51.
2. Brueck M, Bandorski D, Kramer W et al (2009). A Randomized
comparision of Transradial versus Transfemoral approach for
Coronary Angiography and Angioplasty. JAAC: Cardiovascular
Interventions, 2(11): 1047-1054
cơ ngưc lớn (đã cắt)
ĐM quay
ĐM nách
ĐM trụ
Hình 2. ĐM quay (và cả ĐM trụ) xuất phát từ ĐM nách
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 124
3. Desai ND, Cohen EA, Naylor D, et al (2004). A Randomized
comparision of radial artery and saphenous vein coronary
bypass grafts. The New England Journal of Medicine, 351:2302-2309.
4. Gourassas J, Albedd U, Papadopoulos CE et al (2003).
Anomalous Origin of Right Radial Artery as a cause of Radial
Approach Failure of Coronary Angiography. Hellenic J Cardiol,
44: 226-229.
5. Keller FS, Rosch J, Dotter CT et al (1980). Proxial Origin of
Radial Artery: Potental Pitfall in Hand Angiography. AJR, 134:
160-170.
6. Lê Văn Cường (2012). Các dạng và kích thước động mạch ở
người Việt Nam. Nhà xuất bản Y học TP. Hồ Chí Minh, pp.193-2017.
7. Nasr AY (2012). The Radial artery and its variation: anatomy
study and implication. Folia Morphol, 74(4): 252-262.
8. Natsis K, Papadopoulou AL, Papathnasiou E et al (2009). Study
of two cases of high-origin radial artery on humans. Eur J Anat,
13(2): 97-103.
9. Ostojic Z, Bulum J, Ernst A et al (2015). Frequency of radial
artery anatomic variations in patients undergoing transradial
heart catheterization. Acta Clin Croat, 54: 65-72.
10. Pelin C, Zagyapan R, Mas N et al (2006). An unusual course of
the radial artery. Folia Morphol., 65(4): 410-413.
11. Singh R, Tubb RS (2015). Abnormal superficial radial artery and
related vessels. Basic Sciences of Medicine, 4(1): 1-4.
12. Swaroop N, Daksayani KR (2011). The high origin of radial
artery and its significance. Anatomica Karnataca, 5(2): 32-35.
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 07/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_giai_phau_dong_mach_quay.pdf