Tài liệu Nghiên cứu đề kháng insulin ở bệnh nhân bệnh mạch vành cao tuổi không đái tháo đường tại Bệnh viện Thống Nhất: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 55
NGHIÊN CỨU ĐỀ KHÁNG INSULIN Ở BỆNH NHÂN
BỆNH MẠCH VÀNH CAO TUỔI KHÔNG ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
TẠI BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT
Trang Mộng Hải Yên*, Nguyễn Thị Diệu Hương**, Phạm Hoà Bình***, Nguyễn Văn Trí***
Mở đầu: Đái tháo đường được chứng minh là một yếu tố nguy cơ của bệnh mạch vành cấp với tỉ lệ ngày
càng tăng ở người cao tuổi. Bên cạnh đó, kháng insulin là yếu tố chính liên quan dẫn đến đái tháo đường ở người
cao tuổi và tỉ lệ này cũng đang tăng lên. Do vậy, việc xác định tình trạng kháng insulin ở bệnh nhân bệnh mạch
vành cao tuổi không đái tháo đường sẽ giúp cho việc phát hiện tình trạng tiền đái tháo đường, và giúp ngăn ngừa
xảy ra các biến chứng do đái tháo đường, trong đó có biến cố mạch vành cấp, ở giai đoạn sớm.
Mục tiêu: Khảo sát đề kháng insulin ở bệnh nhân bệnh mạch vành cao tuổi không đái tháo đường tại bệnh
viện thống nhất.
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang m...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 171 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu đề kháng insulin ở bệnh nhân bệnh mạch vành cao tuổi không đái tháo đường tại Bệnh viện Thống Nhất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 55
NGHIÊN CỨU ĐỀ KHÁNG INSULIN Ở BỆNH NHÂN
BỆNH MẠCH VÀNH CAO TUỔI KHÔNG ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
TẠI BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT
Trang Mộng Hải Yên*, Nguyễn Thị Diệu Hương**, Phạm Hoà Bình***, Nguyễn Văn Trí***
Mở đầu: Đái tháo đường được chứng minh là một yếu tố nguy cơ của bệnh mạch vành cấp với tỉ lệ ngày
càng tăng ở người cao tuổi. Bên cạnh đó, kháng insulin là yếu tố chính liên quan dẫn đến đái tháo đường ở người
cao tuổi và tỉ lệ này cũng đang tăng lên. Do vậy, việc xác định tình trạng kháng insulin ở bệnh nhân bệnh mạch
vành cao tuổi không đái tháo đường sẽ giúp cho việc phát hiện tình trạng tiền đái tháo đường, và giúp ngăn ngừa
xảy ra các biến chứng do đái tháo đường, trong đó có biến cố mạch vành cấp, ở giai đoạn sớm.
Mục tiêu: Khảo sát đề kháng insulin ở bệnh nhân bệnh mạch vành cao tuổi không đái tháo đường tại bệnh
viện thống nhất.
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả, thực hiện trên 330 bệnh nhân từ 65 tuổi trở lên và
mắc bệnh mạch vành. Giá trị chuẩn của chỉ số kháng insulin HOMA – IR (HOMA: homeostasis model
assessment - IR: insulin resistance) dựa vào định nghĩa của tổ chức y tế thế giới 1998, là điểm cắt tứ phân vị cao
nhất của tập hợp giá trị HOMA IR, xác định từ nhóm cá thể chuẩn là 117 người ở độ tuổi từ 25 đến 40 tuổi, khoẻ
mạnh.
Kết quả: Nhóm nghiên cứu gồm 330 bệnh nhân (63% nam và 37% nữ). Giá trị có được từ xác định điểm
cắt tứ phân vị cao nhất giá trị HOMA IR của nhóm chuẩn là HOMA-IR 75 = 2,2. Tỉ lệ tăng kháng insulin của
nhóm nghiên cứu là 50,9%, tỉ lệ tăng kháng insulin ở các nhóm yếu tố nguy cơ tăng huyết áp là 53,28%; rối loạn
lipid máu là 53,51% (166/370), béo phì là 81,82%, có chỉ số WHR cao là 61,63%. Qua phân tích mối liên quan
nhận thấy nguy cơ tăng đề kháng insulin tăng lên 2,3 lần nếu bị rối loạn lipid máu chung (p=0,002; OR=2,3;
CI95% = 1,35 – 3,85); 1,83 lần nếu bị tăng triglycerid máu (p=0,008; OR=1,83; I95% = 1,18 – 2,86); 7,4 lần nếu
chỉ số BMI trên 23 (béo phì) (p < 0,001; OR=7,4; CI95% = 3,82 – 8,62); 2,49 lần nếu chỉ số WHR tăng (p=0,000;
OR=2,49; CI95% = 1,6 – 3,87).
Kết luận: Như vậy, trong nghiên cứu này, tình trạng tăng kháng insulin có nguy cơ tăng lên trên các đối
tượng bệnh nhân bệnh mạch vành từ 65 tuổi trở lên mắc rối loạn lipid máu, tăng triglycerid máu, béo phì (BMI
>23), tăng chỉ số eo hông (WHR).
Từ khoá: kháng insulin, đái tháo đường, bệnh mạch vành, người cao tuổi
ABSTRACT
INSULIN RESISTANCE IN NON DIABETES ELDERLY WITH CORONARY ARTERY DISEASES AT
THONG NHAT HOSPITAL
Trang Mong Hai Yen, Nguyen Thi Dieu Huong, Pham Hoa Binh, Nguyen Van Tri
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 55 - 60
Backgrounds: Diabetes is proven as a risk factor of acute coronary disease (ACS). Going with the rate of
eldely increasing, the morbidity of ACS. Besides, Insulin resistance is concerned as a major factor causing diabetes
mellitus type 2 in old person whose morbidity is increasing these days. Finding out the Increasing Insulin
resistance situation in non-diabetes patient with coronary artery disease will be helpful in discovering pre-
diabetes, therefore preventing complications of diabetes, in which including ACS, in early stages of diseases.
*Bệnh viện Thống Nhất, **Đại học Y tế công cộng Hà Nội, ***Bộ môn Lão khoa-Đại học Y Dược Tp.HCM
Tác giả liên lạc: BS. Trang Mộng Hải Yên Email: trangmonghaiyen@gmail.com ĐT: 0908060098
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 56
Objectives: To determine insulin resistance in non diabetes elderly with coronary artery diseases at Thong
Nhat hospital.
Methods: A cross-sectional study involved in 330 subjects aged (63% males and 37% females) over 65
year olds with coronary artery disease and non - diabetes due to ADA 2015 criteria. According to the
definition of the WHO in 1998, the meaningful cutting point of HOMA IR to indicate the sistuation of
increasing insulin resistance is defined at the highest quartiles of HOMA-IR of set including normal people
from 25 – 40 ages (175 people).
Results: cutting point of HOMA-IR is 2,2. The percentage of increasing insulin resistance identifying by
HOMA-IR index is 50.9% (in study group), 53.28% in hypertension group, 53.51% in lipidemia disorder group,
81.82% in obesity group and 61.63% in hyper WHR. We found out that the risk of having hyper insulin
resistance in elderly would be 2,3 times higher in patients with lipidemia disorder (p=0.002; OR=2.3; CI95%
= 1.35 – 3.85); 1.83 times higher in patients with hyper triglycemia (p=0.008; OR=1.83; I95% = 1.18 – 2.86), 7.4
times higher in patients having BMI over 23 (p= 0.00; OR=7,4; CI95% = 3.82 – 8.62) and 2.49 times higher in
patients with high WHR (p=0.00; OR=2.49; CI95% = 1.6 – 3.87).
Conclusions: In this study, the risk of having hyper insulin resistance will increase in patients who have
lipidemia disorder, hyper triglycemia, obesity with BMI over 23 and high WHR.
Keywords: insulin resistance, diabetes, elderly, coronary artery disease
MỞ ĐẦU
Đái tháo đường là yếu tố nguy cơ cao nhồi
máu cơ tim. Trên đối tượng bệnh nhân cao tuổi,
mắc đái tháo đường gây nguy cơ nhồi máu cơ
tim tương đương với việc đã bị nhồi máu cơ tim
trước đây. Như vậy khi bệnh nhân bệnh mạch
vành cao tuổi mắc đái tháo đường thì đồng
nghĩa với việc nguy cơ biến cố tim mạch trong
tương lai là rất cao. Trong khi đó, tăng đề kháng
insulin được coi là một trong các cơ chế chính
gây bệnh đái tháo đường týp 2 và ngày càng
tăng cao ở người cao tuổi(1,16). Việc phát hiện tình
trạng tăng kháng insulin ở những bệnh nhân
bệnh mạch vành cao tuổi Việt Nam sẽ giúp có
chiến lược phát hiện tình trạng đái tháo đường
tiềm ẩn từ đó có thể can thiệp sớm đến các yếu
tố nguy cơ để hạn chế việc mắc đái tháo đường
trong tương lai, đồng thời giảm nguy cơ xảy ra
biến cố tim mạch trên đối tượng bệnh nhân này.
Đó là lý do chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
“Khảo sát đề kháng insulin ở bệnh nhân bệnh
mạch vành cao tuổi không đái tháo đường tại
bệnh viện thống nhất”.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cắt ngang mô tả, thực hiện trên
330 bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên, được chẩn đoán
mắc bệnh mạch vành dựa vào kết quả chụp DSA
mạch vành, hoặc có tiền sử nhồi máu cơ tim,
hoặc có tiền sử nong đặt stent, bắc cầu mạch
vành trước đây, và được xác định không mắc đái
tháo đường tại thời điểm nghiên cứu dựa vào
các yếu tố là chưa được chẩn đoán hay điều trị
đái tháo đường, có chỉ số đường huyết đói <
7mmol/L và HbA1c < 6,5%.
Giá trị chuẩn của chỉ số kháng insulin
HOMA – IR (HOMA: homeostasis model
assessment - IR: insulin resistance) dựa vào định
nghĩa của tổ chức y tế thế giới 1998 (9), là điểm cắt
tứ phân vị cao nhất của tập hợp giá trị HOMA
IR, xác định từ nhóm cá thể chuẩn là 117 người ở
độ tuổi từ 20 đến 40 tuổi, khoẻ mạnh được chọn
từ các cán bộ công nhân viên của BV Thống
Nhất, Được kiểm tra sức khỏe định kỳ, tổng quát
với kết quả sức khỏe loại I.
Chỉ số HOMA - IR được tính theo công thức:
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 57
Đối tượng nghiên cứu không đang mắc các
bệnh lý: suy tim, suy gan, suy thận nặng, suy
kiệt nặng, đang mắc các bệnh ác tính; không
đang trong bệnh cảnh cấp tính như nhiễm
khuẩn huyết, hôn mê do chuyển hóa hay do
một nguyên nhân khác ví dụ như đang sử
dụng một số thuốc ảnh hưởng đến chức nặng
tế bào β, độ nhạy insulin như corticoid, bệnh
nhân mắc các bệnh như to đầu chi, Cushing
do thuốc, cường giáp.
Các đối tượng thuộc nhóm nghiên cứu và
nhóm tham chiếu sẽ được thực hiện lấy các chỉ
số trong nghiên cứu bao gồm: tuổi, giới, đo chỉ
số chiều cao, cân nặng, vòng bụng, vòng mông,
huyết áp (đo và bệnh sử), đường huyết máu lúc
đói, HbA1c, cholesterol máu, Tryglycerid máu,
HDL-cholesterol máu, LDL-cholesterol máu, tình
trạng rối loạn lipid máu (bệnh sử).
Từ các kết quả có được sẽ thực hiện tính chỉ số
HOMA-IR để từ đó tính tỉ lệ tăng kháng insulin ở
nhóm nghiên cứu cũng như tìm các mối liên quan
giữa một số yếu tố nguy cơ với tình trạng tăng
kháng insulin ở nhóm nghiên cứu.
Để đảm bảo tính chính xác, mỗi bệnh nhân
với tình trạng bệnh cụ thể chỉ được chọn duy
nhất 1 lần trong suốt thời gian nghiên cứu.
KẾT QUẢ
Nhóm nghiên cứu gồm 330 bệnh nhân với
63% nam và 37% nữ, độ tuổi trung bình là
70,81 ± 6,63, trong đó, trên 80 tuổi chiếm
11,8%. Giá trị có được từ xác định điểm cắt tứ
phân vị cao nhất giá trị HOMA IR của nhóm
tham chiếu là HOMA-IR 75 = 2,2
Bảng 1: giá trị HOMA - IR của nhóm nghiên cứu và
nhóm tham chiếu
Chỉ số HOMA IR Nhóm NC (N = 330) Nhóm TC (n=117)
Trung bình 2,23±1,55 1,54 ± 1,07
Tứ phân vị 75 2,2
Trung vị 2,49 1,8
Tăng kháng insulin 168 (50,9%) 29 (25%)
Không tăng kháng 162 (49,1%) 88 (75%)
So sánh HOMA – IR của từng cá thể trong
nhóm NCT, chúng tôi xác định được tình
trạng kháng insulin của cá thể. Cụ thể là, tỉ lệ
đối tượng có tình trạng tăng kháng insulin
trong nhóm nghiên cứu là 50,9%.
Bảng 2: Mối liên quan giữa tình trạng tăng kháng
insulin với tuổi - giới
Yếu tố Tăng kháng (N/%)
Không tăng kháng
(N/%)
P
Nhóm tuổi 168 (100,0) 162 (100,0)
>
0,05
60 – 60 80 (47,6) 65 (40,1)
70 – 79 70 (41,7) 76 (46,9)
> 80 18(10,7) 21 (13)
Nam 98 (47,12) 110 (52,88) >
0,05 Nữ 70 (57,38) 52 (42,62)
Trong nghiên cứu của chúng tôi, sự khác
biệt về tăng kháng insulin theo phân lớp tuổi
cũng như giới tính không có ý nghĩa thống kê
(p > 0,05). Điều này cho thấy, ở bệnh nhân cao
tuổi cần tầm soát tình trạng tăng kháng insulin
ở mọi đối tượng bất kể độ tuổi hay giới.
Khi đánh giá mối tương quan giữa các yếu
tố nguy cơ với tình trạng tăng kháng insulin,
kết quả cho thấy có mối liên quan chặt chẽ
giữa tình trạng tăng kháng insulin và tình
trạng BP cũng như béo bụng, theo đó, BP làm
tăng nguy cơ tăng kháng insulin gấp 7,4 lần và
béo bụng làm tăng nguy cơ tăng kháng insulin
2,49 lần.
Bảng 3: Mối liên quan giữa tình trạng tăng kháng
insulin với các yếu tố nguy cơ
Đặc tính
Tăng HOMA IR
p OR Có
(n = 168)
Không
(n = 162)
THA
Có
Không
146
22
128
34
0,136
RLLP
chung
Có
Không
122
46
106
56
0,002
2,3
(1,35 – 3,85)
Béo phì
Có
Không
81
87
18
144
0,00
7,40
(3,82 – 8,62)
WHR
tăng
Có
Không
106
62
66
96
0,00
2,49
(1,6 – 3,87)
BÀN LUẬN
Mối liên quan giữa tình trạng BP và ĐTĐ
típ 2 đã được nhận thấy từ nhiều thập kỷ nay,
và yếu tố chính cho mối liên quan này chính là
tình trạng đề kháng insulin. Hiện nay, tình
trạng kháng insulin đã trở thành vấn đề quan
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 58
tâm có tính thời sự trong các công trình
nghiên cứu vì vai trò mấu chốt trong vòng
xoắn bệnh lý ĐTĐ, BP, THA, RLLP máu, bệnh
lý tim mạch, đột quỵ não(13).
Một số nghiên cứu thế giới và tại Việt Nam
trong những năm gần đây cũng đã sử dụng
HOMA - IR để xác định tình trạng kháng
insulin trên đối tượng nghiên cứu như của tác
giả Hoàng Mạnh(6), Nguyễn Văn Quýnh(12),
Bonora E.(3). Tuy nhiên giá trị HOMA - IR của
nhóm tham chiếu cũng như của nhóm nghiên
cứu ở 2 nghiên cứu này khác với nghiên cứu
của chúng tôi.
Bảng 4: Mối liên quan giữa tình trạng tăng kháng
insulin với các đặc điểm RLLP máu
Đặc tính
Tăng HOMA IR
p OR Có
(n = 168)
Không
(n = 162)
Tăng
Cholesterol
Có
Không
50
118
51
111
0,811
Tăng
Triglyceride
Có
Không
85
83
58
104
0,008
1,83
(1,18 –
2,86)
Giảm HDL –
cholesterol
Có
Không
20
148
22
140
0,742
Tăng LDL -
Cholesterol
Có
Không
39
49
129
113
0,171
Không những thế, khi so sánh với tác giả
Hoàng Mạnh là nghiên cứu có chỉ số HOMA - IR
có thể thể xem là gần tương đồng với nghiên cứu
của chúng tôi, thì tỉ lệ tăng kháng insulin HOMA
IR là 33,3%(6). Tỷ lệ kháng insulin trong nghiên
cứu này cao hơn nghiên cứu của Hoàng Mạnh là
vì Hoàng Mạnh nghiên cứu trên nhóm NCT nói
chung, còn chúng tôi nghiên cứu trên nhóm
NCT BMV có yếu tố nguy cơ đái tháo đường.
Trong hội nghị của Hội Bác sỹ nội tiết lâm
sàng Hoa Kỳ (AAC) 2002 có đề cập đến tình
trạng kháng insulin và các nghiên cứu như The
San Antonio Heart Study(4) mẫu nghiên cứu cắt
ngang gồm 3000 người cho thấy có liên quan
tuyến tính giữa nồng độ insulin máu lúc đói và
khối mỡ cơ thể và Ở người BP có nguy cơ kháng
insulin tăng gấp 3 lần. Anoop Misra và Naval K.
Wikram (2002)(10) nghiên cứu trên nhóm người
Ấn Độ chỉ ra rằng BP là yếu tố quan trọng nhất
dẫn đến tình trạng kháng insulin, tăng 1/3 lần so
với cân nặng lý tưởng sẽ làm giảm đến 40% hoạt
động của insulin. Kết quả nghiên cứu của chúng
tôi cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của tác
giả khác Hoàng Mạnh(6) và Nguyễn Văn
Quýnh(12) là tăng tỷ lệ kháng insulin giữa tăng
WHR so với nhóm không tăng WHR có ý nghĩa
thống kê.
Chỉ số Triglycerid tăng chủ yếu do chế độ dư
thừa tinh bột, carbonhydrat, từ đó, Triglycerid
được tạo ra nhiều trong máu và đây cũng là tình
trạng rối loạn thường gặp ở BN ĐTĐ. Tình trạng
rối loạn dung nạp glucose được xem như là sự
báo động cho nguy cơ mắc ĐTĐ cao trong tương
lai. Khi tình trạng tăng kháng insulin xảy ra thì
lại đóng vai trò là nguyên nhân gây tăng glucose
máu. Từ đó tăng lượt acid béo đổ về gan làm gia
tăng sự tổng hợp VLDL-cholesterol và các
lipoprotein có chứa apolipoprotein B của insulin
đồng thời những BN tăng glucose máu đều có sự
khiếm khuyết về sự thanh thải VLDL –
cholesterol do hoạt tính của các men lipoprotein
lipase và hepatic lipase cũng giảm trên các BN
tăng kháng insulin và hậu quả là dẫn đến tình
trạng RLLP máu. Và cứ như thế, như một vòng
xoắn bệnh lý, RLLP máu – tăng kháng insulin –
tăng glucose trong máu sẽ ngày càng làm tăng
nặng thêm lẫn nhau ở BN.
Trong những năm trở lại, có một số nghiên
cứu đã công bố thực hiện sử dụng HOMA – IR
để đánh giá giá trị tiên đoán mắc bệnh mạch
vành cũng như nguy cơ diễn tiến đái tháo
đường. Cụ thể như trong bảng 5.
Bên cạnh đó cũng đã có một số nghiên cứu
khác đánh giá giá trị của HOMA IR trong việc
kiểm soát bệnh ĐTĐ nhằm phòng ngừa bệnh lý
tim mạch như trong bảng 6.
Như vậy, mặc dù được biết đến từ năm 1985,
nhưng HOMA IR vẫn chưa thật sự được sử
dụng trên lâm sàng để đánh giá hiệu quả điều
trị. Cho đến gần đây, khi y học phòng ngừa ngày
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 59
càng được chú trọng đặc biệt trong dự phòng
ĐTĐ và các biến cố tim mạch bao gồm bệnh lý
tim mạch mạn tính và cấp tính (NMCT, đột quỵ)
và đường máu đói ngày càng chứng tỏ giá trị dự
báo không cao thì HOMA IR bắt đầu được quan
tâm và bước đầu được đưa vào sử dụng trong
lâm sàng vì những giá trị tiên lượng có được qua
các nghiên cứu.
Bảng 5: Các NC về giá trị HOMA IR trong tiên đoán BMV
Tác giả Cỡ mẫu Đối tượng NC Kết quả đạt được
Gayoso-Diz
(5)
, 2013 2459 Người lớn ngẫu nhiên trong cộng
đồng
Tìm điểm cắt tiên đoán của HOMA IR để đánh giá
BN nguy cơ cao tim mạch chuyển hoá.
Chittaranjan SY
(17)
, 2015 357 Trẻ em 8t (đoàn hệ tiến cứu đến
21 tuổi)
HOMA IR tăng có liên quan nguy cơ BMV cần
can thiệp kiểm soát để giảm tần suất bệnh tim mạch
Bonora E
(3)
, 2002 1326 BN ĐTĐ HOMA IR là yếu tố tiên đoán độc lập bệnh mạch
vành ở BN đái tháo đường
Jorgen Jeppesen
(7)
, 2007 2493 Bệnh nhân không có BMV ngẫu
nhiên trong cộng đồng
HOMA IR là yếu tố tiên đoán độc lập BMV ở BN
ĐTĐ
Bảng 6: Các NC về giá trị HOMA IR trong tiên đoán mắc ĐTĐ
Tác giả Cỡ mẫu Đối tượng NC Kết quả đạt được
Okita K
(14)
, 2013 19 BN ĐTĐ kiểm soát đường
huyết kém điều trị bằng
insulin
HOMA IR là công cụ đánh giá hiệu quả độ nhạy
insulin trên BN ĐTĐ
Purohit A
(15)
, 2015 50 – NC bệnh chứng BN ĐTĐ mới phát hiện HOMA IR cao hơn ở Bn ĐTĐ
Morimoto A.
(11)
, 2015 2209 – NC đoàn hệ BN không ĐTĐ Tăng HOMA IR có liên quan mạnh với việc bị
ĐTĐ
Barseem NA
(2)
, 2015 60 Trẻ em và trẻ vị thành niên HOMA IR là phương tiên dự báo đáng tin cậy cho
ĐTĐ 2 ở trẻ vị thành niên béo phì và là công cụ
phòng ngừa và theo dõi điều trị hiệu quả
Kumru P
(8)
, 2016 333 Thai phụ nguy cơ thấp Yếu tố tiên lượng độc lập với nguy cơ ĐTĐ thai kì
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu thực hiện trên 330 bệnh
nhân cao tuổi không đái tháo đường mắc bệnh
mạch vành và 117 người khỏe mạnh từ 25 - 40
tuổi để xác định các chỉ số HOMA - IR, chúng tôi
rút ra được la tỉ lệ đề kháng insulin ở BN BMV
cao tuổi không ĐTĐ cao (50,9%), do đó cần quan
tâm đến việc điều trị dự phòng ĐTĐ như kiểm
soát tình trạng RLLP đặc biệt là tăng TGR, béo
phì, béo bụng. Bên cạnh đó, ở BN BMV cao tuổi
không ĐTĐ nhưng có các YTNC trên thì nên
được tầm soát chỉ số HOMA IR để phòng ngừa
ĐTĐ mới cho BN.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. American Diabetes Association (2016), “Standards of Medical
Care in Diabetes – 2016”. Diabetes Care, Vol. 34 (1), pp. S13
2. Barseem NA, et al (2015), “Homeostatic model assessment of
insulin resistance as a predictor of metabolic syndrome:
Consequence of obesity in children and adolescent”, Egyptian
Pediatric Association, Elsevier, Vol 63, Issue 1, Pages 19-24
3. Bonora E et al (2002), “HOMA-Estimated Insulin Resitance is an
Independent Predictor of cacdiovascular disease type 2 Diabetic
Subjects: prospective data from the verona Diabetes
complications Study’’. Diabetes Care, Volume 25(7), pp.1135-1141
4. Edwards KL, Burchfiel CM, et al (1998), “Factor of the Insulin
Resistance Syndrome in Non Diabetic and Diabetic Elderly
Japanese – American Men”, American Journal of Epidemiology, Vol
147, No 5, 441-447.
5. Gayoso-Diz, et al (2013), “Insulin resistance (HOMA-IR) cut-off
values and the metabolic syndrome in a general adult
population: effect of gender and age: EPIRCE cross-sectional
study”, BMC Endocrine Disorder.
6. Hoàng Mạnh (2011), “Đánh giá tình trạng kháng insulin và chức
năng tế bào beta ở người cao tuổi đến khám tại bệnh viện Thống
Nhất”. Luận văn bác sĩ chuyên khoa II.
7. Jeppesen J, et al (2007), “Insulin resistance, the metabolic
syndrome and Risk of Incident Cardiovascular Disease”, J Am
Coll Cardiol; 49:2112–9
8. Kumru P, et al (2016), “Prediction of gestational diabetes
mellitus at first trimester in low-risk pregnancies”, Taiwanese
Journal of Obstetrics & Gynecology, 55, 815-820
9. Lethtovirta M, Kaprio J, Forsblom C, et al (2000), "Insulin
sensitivity and insulin secretion in monozygotic and dizygotic
twins", Diabetologia, 43: pp 285 – 293
10. Misra A, Wikram NK (2002), “Insulin resistance syndom and
Asian Indians”. Current Science, Vol 83, No. 12, pp. 14 – 84
11. Morimoto A, et al (2014), Plos one tenth anniversary,
https://doi.org/10.1371/journal.pone.0105827
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 60
12. Nguyễn Văn Quýnh và cộng sự (2007), “Nghiên cứu tình trạng
kháng insulin ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2”. Đề tài cấp Bộ
Quốc Phòng.
13. Nguyễn Văn Tân (2010), “Béo phì và hội chứng chuyển hoá ở
người cao tuổi”. Tạp chí Tim mạch học -
hoc/445-beo-phi-va-hi-chng-chuyn-hoa-ngi-cao-tui.html 28.
14. Okita K, et al (2013), “Homeostasis model assessment of insulin
resistance for evaluating insulin sensitivity in patients with type
2 diabetes on insulin therapy”, Endocrine Journal, 60 (3), 283-290
15. Purohit A, et al (2015), “Study of Insulin Resistance in Type 2
Diabetes Mallitus by Homa-IR Score”, International Journal of
Medical Research and Review, January - February, Vol 3/ Issue 1.
ISSN 2321-127X
16. Ủy ban quốc gia người cao tuổi Việt Nam (2010),
Viet- Nam-se-tăng-dot-bien/200812/2477.vnplus.
17. Yajnik CS, et al (2015), “Higher glucose, insulin and insulin
resistance (HOMA-IR) in childhood predict adverse
cardiovascular risk in early adulthood: the Pune Children’s
Study”, Diabetologia. 58:1626–1636
Ngày nhận bài báo: 18/11/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/11/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/3/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_de_khang_insulin_o_benh_nhan_benh_mach_vanh_cao_t.pdf