Tài liệu Nghiên cứu đặc điểm những trường hợp áp xe phần phụ điều trị nội khoa thất bại tại Bệnh viện Từ Dũ: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 198
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM NHỮNG TRƯỜNG HỢP ÁP XE PHẦN PHỤ
ĐIỀU TRỊ NỘI KHOA THẤT BẠI TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ
Trần Duy Anh*, Võ Minh Tuấn*, Cửu Nguyễn Thiên Thanh*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Áp xe phần phụ là bệnh lý phụ khoa nặng nề và thường gặp tại khoa Phụ Bệnh viện Từ Dũ.
Mục tiêu nghiên cứu là xác định tỉ lệ thất bại điều trị nội khoa ở bệnh nhân áp xe phần phụ, khảo sát các yếu tố
liên quan đến điều trị nội khoa thất bại ở bệnh nhân áp xe phần phụ tại Bệnh viện Từ Dũ.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả dọc tiến cứu toàn bộ bệnh nhân có chẩn đoán áp xe phần phụ được điều trị
nội khoa tại Bệnh viện Từ Dũ.
Kết quả: Trong thời gian 1/9/2017 - 31/3/2018, lấy mẫu toàn bộ 128 trường hợp áp xe phần phụ được điều
trị nội khoa. Các triệu chứng thường gặp nhất là đau bụng, sốt, lắc cổ tử cung đau và khí hư âm đạo bất thường.
Hơn 20% trường hợp bạch cầu bình thường khi nhập viện. Sau điều trị k...
9 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 13/07/2023 | Lượt xem: 132 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu đặc điểm những trường hợp áp xe phần phụ điều trị nội khoa thất bại tại Bệnh viện Từ Dũ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 198
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM NHỮNG TRƯỜNG HỢP ÁP XE PHẦN PHỤ
ĐIỀU TRỊ NỘI KHOA THẤT BẠI TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ
Trần Duy Anh*, Võ Minh Tuấn*, Cửu Nguyễn Thiên Thanh*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Áp xe phần phụ là bệnh lý phụ khoa nặng nề và thường gặp tại khoa Phụ Bệnh viện Từ Dũ.
Mục tiêu nghiên cứu là xác định tỉ lệ thất bại điều trị nội khoa ở bệnh nhân áp xe phần phụ, khảo sát các yếu tố
liên quan đến điều trị nội khoa thất bại ở bệnh nhân áp xe phần phụ tại Bệnh viện Từ Dũ.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả dọc tiến cứu toàn bộ bệnh nhân có chẩn đoán áp xe phần phụ được điều trị
nội khoa tại Bệnh viện Từ Dũ.
Kết quả: Trong thời gian 1/9/2017 - 31/3/2018, lấy mẫu toàn bộ 128 trường hợp áp xe phần phụ được điều
trị nội khoa. Các triệu chứng thường gặp nhất là đau bụng, sốt, lắc cổ tử cung đau và khí hư âm đạo bất thường.
Hơn 20% trường hợp bạch cầu bình thường khi nhập viện. Sau điều trị kháng sinh phối hợp, 24,2 % thất bại với
điều trị nội khoa đơn thuần và 75,8% đáp ứng thuốc. Các yếu tố liên quan đến nguy cơ thất bại là: nghề nghiệp
buôn bán (OR=4,02) so với nội trợ, sốt sau điều trị kháng sinh (OR=2,6) so với không sốt, khối vùng chậu sờ
được qua khám trong (OR=2,7) so với không sờ thấy, đường kính khối áp xe ≥ 60 mm (OR=7,38) so với < 60 mm,
số lượng bạch cầu lúc nhập viện >15.000/mm3 (OR=16,88) so với 15.000/mm3
(OR=77) so với <10.000/mm3, nồng độ C- reactive protein (CRP) lúc nhập viện ≥ 60mg/l (OR=3,36) so với <
60mg/l và sau điều trị ≥ 60mg/l (OR=33,6) so với < 60mg/l, với các giá trị P<0,05.
Kết luận: Sốt và khí hư âm đạo chỉ xuất hiện ở 1/2 trường hợp, hơn 20% trường hợp bạch cầu không tăng
trên 10.000/mm3. Tỉ lệ điều trị nội khoa thất bại với phác đồ kháng sinh tĩnh mạch chiếm 24,2 %.
Từ khóa: áp xe phần phụ, điều trị nội khoa thất bại, kháng sinh phối hợp
ABSTRACT
RESEARCH OF CHARACTERISTICS OF THE TUBO-OVARIAN ABSCESS AMONG PATIENTS WHO
FAILED TO MEDICAL TREATMENT AT TU DU HOSPITAL
Tran Duy Anh, Vo Minh Tuan, Cuu Nguyen Thien Thanh
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 198 - 206
Objectives: This study was aimed to examine the rate of patients with tubo-ovarian abscess (TOA) who
failed response to conservative treatment and assess the risk factors for medical treatment failure at Tu Du
hospital.
Methodology: Prospective longitudinal descriptive study was conducted of all patients diagnosed with
abscess are treated internally at Tu Du Hospital.
Results: From1/9/2017 to 31/3/2018, we collected all 128 cases of TOA getting medical treatment. The most
common symptoms are abdominal pain, fever, cervical motion tenderness and abnormal discharge. More than
20% of cases of white blood cell leukemia were hospitalized. After intravenous antibiotic, 24.2 % failed treatment
with antibiotics alone and 75.8% drug responded. Factors related to the risk of failure were: business jobs
(OR=4.02) compared to housewife, fever after antibiotics alone (OR=2.6) compared to none, pelvic mass on
examination (OR=2.7) compared to none, maximum diameter of the abscess ≥ 60 mm (OR=7.38) compared to <
60mm, initial (WBC) counts > 15.000/mm3 (OR=16.88) compared to
*Bộ môn Sản, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: PGS TS BS. Võ Minh Tuấn ĐT: 0909727199 Email: vominhtuan@ump.edu.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 199
15.000/mm3 (OR=77) compared to < 10.000/mm3, initial C- reactive protein CRP ≥ 60mg/l (OR=3.36) compared
to < 60mg/l, after antibiotics CRP ≥ 60mg/l (OR=33.6) compared to < 60mg/l, compared with P values <0.05.
Conclusions: Only 1/2 of the cases have fever and abnormal discharge, over 20% patients have WBC counts
under 10.000/mm3. The rate of failed response to intravenous antibiotic regimen occupied 24.2%.
Keywords: tubo-ovarian abscess, medical treatment failed, combination antibiotics
ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm vùng chậu là tình trạng viêm nhiễm
đường sinh dục trên thường gặp ở phụ nữ trong
độ tuổi sinh sản(1). Áp xe phần phụ là một biến
chứng nặng nề của viêm vùng chậu nếu không
được chẩn đoán sớm và điều trị đúng, gây đe
dọa tính mạn và ảnh hưởng đến khả năng sinh
sản của người bệnh.
Hiện nay, với sự phát triển của y học,
nhiêu loại kháng sinh mới được ra đời giúp
điều trị tốt hơn tình trạng nhiễm trùng, áp xe
phần phụ là loại áp xe duy nhất đáp ứng điều
trị bằng kháng sinh. Trong những năm gần
đây, số lượng bệnh nhân nhập viện Từ Dũ vì
áp xe phần phụ ngày càng tăng từ 228 ca/2012
lên 384 ca/2016 kèm theo đó là tỉ lệ phẫu thuật
cũng tăng từ 32,5% lên 47,1%(2). Tỉ lệ phẫu
thuật tăng này là do tình trạng bệnh nặng
ngay từ lúc nhập viện hay do thất bại của điều
trị nội khoa vẫn chưa được tổng kết. Việc
nghiên cứu về đặc điểm lâm sàng, cận lâm
sàng đặc trưng của bệnh cũng như tình trạng
đáp ứng kháng sinh ở bệnh nhân áp xe phần
phụ là cần thiết giúp tăng hiệu quả chẩn đoán
và điều trị bệnh.
Hiện nay ở Việt Nam chưa có nhiều nghiên
cứu về điều trị kháng sinh trên bệnh nhân áp xe
phần phụ nên chúng tôi thực hiện đề tài
“Nghiên cứu đặc điểm những trường hợp áp xe
phần phụ điều trị nội khoa thất bại tại bệnh viện
Từ Dũ”, với câu hỏi nghiên cứu " Ti lệ điều trị
nội khoa thất bại của áp xe phần phụ là bao
nhiêu và các yếu tố nào liên quan đến điều trị
nội thất bại?"
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định ti lệ thất bại điều trị nội khoa ở
bệnh nhân áp xe phần phụ.
Khảo sát các yếu tố liên quan đến điều trị nội
khoa thất bại ở bệnh nhân áp xe phần phụ.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả dọc tiến cứu.
Dân số mục tiêu
Bệnh nhân được chẩn đoán áp xe phần phụ.
Dân số nghiên cứu
Bệnh nhân áp xe phần phụ được điều trị nội
tại khoa Phụ bệnh viện Từ Dũ.
Dân số chọn mẫu
Dân số nghiên cứu từ 1/9/2017 đến 31/3/2018
đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn nhận vào
Bệnh nhân áp xe phần phụ có chỉ định điều
trị nội khoa theo phác đồ của Bệnh viện Từ Dũ
và đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân có chống chỉ định điều trị kháng sinh.
Bệnh nhân có chẩn đoán khác trong quá
trình điều trị.
Bệnh nhân không tuân thủ điều trị, trốn viện.
Cỡ mẫu
Dựa trên công thức xác định. tỉ lệ với độ
chính xác tuyệt đối
= /
× (1 − )
Với α=0,05, /
=1,962, d= 0,06, p=12,5%(3) =>
N=117 trường hợp. Số mẫu chúng tôi lấy được là 128
trường hợp.
Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 09/2017 – 03/2018.
Địa điểm
Khoa Phụ và khoa Hậu phẫu Bệnh viện Từ
Dũ, thành phố Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 200
Quy trình thực hiện
Bước 1
Sàng lọc và chọn đối tượng thỏa tiêu chuẩn
theo chỉ định điều trị nội khoa của khoa Phụ
Bệnh viện Từ Dũ dựa vào tiểu chuẩn lâm sàng
và cận lâm sàng theo phác đồ bệnh viện(3).
Bước 2
Mời bệnh nhân tham gia nghiên cứu và ký
bảng đồng thuận ngay khi làm bệnh án nhập khoa.
Bước 3
Quan sát bệnh nhân điều trị theo phác đồ
bệnh viện thông qua việc tham gia khám và theo
dõi bệnh hàng ngày cũng như tham gia các ca
phẫu thuật, loại khỏi nghiên cứu những bệnh
nhân có chẩn đoán khác trong quá trình theo dõi
điều trị.
Bước 4
Thu thập, xử lý số liệu, kết thúc nghiên cứu
khi bệnh nhân xuất viện.
Xử lý số liệu
Số liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm
SPSS 20.0. Phân tích mô tả từng biến số, sau đó
phân tích đơn biến so sánh mối liên quan. Các
phép kiểm được thực hiện với độ tin cậy 95%.
KẾT QUẢ
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu từ
01/09/2017 đến 31/03/2018 tại Bệnh viện Từ Dũ
có 251 bệnh nhân được chẩn đoán áp xe phần
phụ nhập viện, trong đó có 146 bệnh nhân được
điều trị nội khoa và 105 bệnh nhân có chỉ định
phẫu thuật. Tuy nhiên, chỉ có 128 bệnh nhân
thỏa mãn các điều kiện thu nhận mẫu của nhóm
nghiên cứu đặt ra, các bệnh nhân khác bị loại do
nhiều nguyên nhân như khối áp xe có kích thước
lớn, ứ dịch vòi trứng hoặc có chẩn đoán xác định
khác. Tất cả những bệnh nhân có chẩn đoán áp
xe phần phụ khi nhập viện đều tuần thủ quy
trình điều trị, được đánh giá điều trị một cách
khách quan do các bác sĩ giàu kinh nghiệm tại
khoa Phụ bệnh viện Từ Dũ tiến hành, có hồ sơ
bệnh án đầy đủ. Các bệnh nhân đều đồng ý hợp
tác tham gia nghiên cứu.
Đặc điểm về lâm sàng và cận lâm sàng:
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận 97,7%
trường hợp bệnh nhân có đau bụng từ mức độ
nhẹ đến dữ đội đến khám, chỉ có 2,3% bệnh
nhân không biểu hiện đau bụng dưới khi đến
khám, được phát hiện tình cờ qua siêu âm
kiểm tra sức khỏe phát hiện khối bất thường ở
vùng chậu.
Bảng 1: Đặc điểm triệu chứng cơ năng và triệu
chứng thực thể
Số trường họp
(N=128)
Tỉ lệ (%)
Đau bụng
Không đau 3 2,3
Có đau 125 97,7
Sốt trước nhập viện
Không 58 45,3
Có 70 54,7
Sốt sau điều trị kháng sinh
Không 103 80,5
Có 25 19,5
Buồn nôn và nôn
Không 114 89,1
Có 14 10,9
Tiêu chảy
Không 116 90,6
Có 12 9,4
Xuất huyết âm đạo bất thường
Không 95 74,2
Có 33 25,8
Khí hư âm đạo bất thường
Không 68 53,1
Có 60 46,9
Phản ứng thành bụng
Không 108 82
Có 23 18
Khối vùng chậu sờ được
Không 55 43
Có 73 57
Lắc cổ tử cung đau
Không 25 19,5
Có 103 80,5
Hầu hết các trường hợp bênh nhân áp xe
phần phụ đều được xác đinh có triệu chứng sốt
trước khi nhập viện là 54,7%. Tuy nhiên sau khi
bắt đầu điều trị kháng sinh tĩnh mạch thì số
lượng bệnh có triệu chứng sốt giảm đến 42 ca,
tức chỉ đạt mức 19,5%.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 201
Trong nhóm đối tượng nghiên cứu, 25,8%
trường hợp xuất huyết âm đạo bất thường và
46,9% có khí hư âm đạo bất thường.
Bảng 2. Đặc điểm siêu âm và xét nghiệm
Số trường họp
(N=128)
Tỉ lệ (%)
Kết luận siêu âm
Áp xe phần phụ 107 83,6
Khối u buồng trứng 2 1,6
Ứ dịch vòi trứng 19 14,8
Đường kính khối áp xe
<60 mm 68 53,1
60-80 mm 60 46,9
Vị trí khối áp xe trên siêu âm
Bên phải 19 14,8
Bên trái 38 29,7
Hai bên 71 55,5
Số lượng bạch cầu lúc nhập viện
<10.000/mm
3
28 21,9
10.000 -15.000/mm
3
48 37,5
> 15.000/mm
3
52 40,6
Số lượng bạch cầu lúc điều trị
<10.000/mm
3
60 46,9
10.000 -15.000/mm
3
42 32,8
> 15.000/mm
3
26 20,3
CRP lúc nhập viện
< 60 mg/l 55 43
≥ 60mg/l 73 57
CRP lúc điêu trị
< 60 mg/l 89 69,5
≥ 60mg/l 39 30,5
Trong nhóm đối tượng nghiên cứu, đường
kính trung bình của khối áp xe là 58,6 ± 12,5
mm, nhỏ nhất là 28 mm, lớn nhất là 79 mm.
Chúng tôi lấy mốc so sánh là 60 mm dựa vào
nghiên cứu của Topçu về kích thước khối áp
xe làm tăng nguy cơ điều trị nội thất bại(5). Đa
số đối tượng có đường kính khối lớn nhất
<60mm (53,1%), 46,9% còn lại khối áp xe có
kích thước từ 60-80 mm trên siêu âm.
Số lượng bạch cầu lúc nhập viện của các
đối tượng trong nhóm nghiên cứu trung bình
là 14.379 ± 5.750/mm3, cao nhất là 34.700/mm3
và thấp nhất là 4.900/mm3. Đa số đối tượng
nghiên cứu có số lượng bạch cầu lúc nhập viện
tăng > 15.000/mm3 chiếm 40,6%. Sau đó là
nhóm tăng từ 10.000 -15.000/mm3, đạt 37,5%.
Cuối cùng là nhóm dưới 10.000/mm3, chiếm tỉ lệ
thấp nhất là 21,9%.
Sau quá trình điều trị kháng sinh phối hợp,
số lượng bạch cầu lúc quyết định điều trị thay
đối nhiều. Lượng bệnh nhân có bạch cầu về mức
bình thường tăng lên đáng kể, đạt 46,9%. Tiếp
theo là nhóm có số lượng bạch cầu tăng từ 10.000
-15.000/mm3, có tỉ lệ 32,8%. Sau cùng là nhóm có
số lượng bạch cầu cao >15.000/mm3 giảm nhiều,
chiếm 20,3%.
Lúc nhập viện, nồng độ CRP trung bình của
các bệnh nhân tham gia nghiên cứu là 98,38 ±
83,5 mg/l, nồng độ cao nhất là 345 mg/l. Có 56%
bệnh nhân có nồng độ CRP lúc nhập viện ≥ 60
mg/l. Chúng tôi lấy mốc CRP là 60mg/l dựa vào
nghiên cứu của Miettinen(8) về liên quan giữa
CRP với độ nặng của viêm vùng chậu với độ
nhạy 97% và độ đặc hiệu 61%.
Sau thời gian điều trị kháng sinh, nồng độ
CRP trung bình của các bệnh nhân tham gia
nghiên cứu là 56,3 ± 71,1 mg/l, nồng độ cao nhất
là 341 mg/l. Tỉ lệ bệnh nhân có nồng độ CRP ≥ 60
mg/l giảm nhiều, chỉ còn 30,5%, trong khi đó
69,5% bệnh nhân có nồng độ < 60 mg/l.
Đặc điểm về chẩn đoán và điều trị phẫu thuật
áp-xe phần phụ
Hầu hết bệnh nhân được điều trị theo phác
đồ 3 kháng sinh phối hợp gồm Metronidazole +
Amoxicillin/ Acid Clavulanic + Gentamycin,
chiếm 84,4%.
Trong 128 trường hợp nghiên cứu có 97
trường hợp điều trị thành công với phác đồ
kháng sinh chiếm 75,8% [95% CI 0,68 - 0,83],
24,2% [95% CI 0,17 - 0,32] bệnh nhân cần phải
can thiệp phẫu thuật để điều trị.
Trong số 31 trường hợp thất bại với điều trị
nội khoa, lý do thất bại chiếm nhiều nhất là số
lượng bạch cầu máu không giảm hoặc tăng
(45,2%), sau đó là khối áp xe phần phụ tăng
kích thước, chiếm 41,9%. Sốt không giảm hay
đau vùng chậu không giảm hoặc tăng chiếm ti
lệ thấp, lần lượt là 9,7% và 6,5%. Chưa ghi
nhận trường hợp nào phải mổ vì có dấu hiệu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 202
nhiễm trùng huyết.
Về phương pháp phẫu thuật, trong số 31
bệnh nhân cần can thiệp của chúng tôi đa phần
được phẫu thuật bảo tồn tử cung, chỉ cắt vòi
trứng hoặc phần phụ chiếm gần 90% số trường
hợp. Điều này cho thấy sự cố gắng bảo tồn tối đa
khả năng sinh sản cho bệnh nhân của các phẫu
thuật viên.
Bảng 3. Đặc điểm chẩn đoán và điều trị
Số trường họp
(N=128)
Tỉ lệ
(%)
Thời gian điều trị nội
1-7 ngày 85 66,4
> 7 ngày 43 33,6
Phác đồ kháng sinh sử dụng
Amox/ A. Clavulanaic +
Gentamycin + Metronidazol
108 84,4
Khác 20 15,6
Kết quả điều trị
Thành công 97 75,8
Thất bại 31 24,2
Lý do thất bại (N=31)
Sốt không giảm 3 9,7
Đau vùng chậu không giảm
hoặc tăng
1 3,2
Khối áp xe phần phụ lớn hơn 13 41,9
Bạch cầu máu không giảm
hoặc tăng
14 45,2
Cách tiếp cận (N=31)
Mổ mở 7 22,6
Mổ nội soi 24 77,4
Phương pháp phẫu thuật (N=31)
Cắt TC toàn phần và 2 phần
phụ
2 6,4
Cắt TC toàn phần chừa BT
Phải/Trái
1 3,2
Cắt phần phụ 22 71,0
Cắt vòi trứng 6 19,4
Các yếu tố liên quan đến kết quả điều trị
Chúng tôi đã tiến hành phân tích đơn biến
tất cả 38 cặp biến số nhằm tìm ra mối liên quan
với kết quả điều trị. Kết quả có 8 cặp biến số có
mối liên quan có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Do
cỡ mấu 128 trường hợp nhỏ, không đủ năng lực
mẫu để phân tích đa biến nên chúng tôi chỉ
dừng lại ở phân tích đơn biến. Các cặp biến số có
ý nghĩa là:
Nghề nghiệp: nhóm bệnh nhân làm nghề
buôn bán có nguy cơ thất bại với liệu pháp
kháng sinh gấp 4 lần so với nhóm bệnh nhân nội
trợ (95% CI= 1,1 - 14,36).
Sốt sau điều trị kháng sinh: tình trạng vẫn
còn sốt sau khi đã được điều trị kháng sinh
đường tĩnh mạch làm tăng nguy cơ thất bại của
điều trị nội khoa so với những bệnh nhân hết sốt
lên 2,6 lần (95% CI= 1,02 - 6,65).
Khối vùng chậu sờ được: triệu chứng sờ
được khối ở vùng chậu qua khám trong làm
tăng nguy thất bại của liệu pháp kháng sinh
phối hợp đường tĩnh mạch gấp 2,7 lần so với
nhóm không phát hiện khối qua khám lâm
sàng (95% CI= 1,10 - 6,63).
Đường kính khối áp xe: trong các yếu tố về
đặc điểm hình ảnh học của siêu âm, nhóm bệnh
nhân có đường kính lớn nhất của khối áp xe ≥ 6
cm làm tăng nguy cơ thất bại với điều trị kháng
sinh tĩnh mạch gấp 7,4 lần so với nhóm có khối
áp xe < 6 cm (95% CI= 2,76 - 19,72). Kết quả này
cũng tương đương với Topcu(10) với kết luận
đường kính khối áp xe ≥ 6 cm làm tăng số ngày
nằm viện và ti lệ phẫu thuật lên gấp 8 lần.
Số lượng bạch cầu trước và sau điều trị
kháng sinh: số lượng bạch cầu cao trong máu ở
thời điểm nhập viện hay qua quá trình điều trị
làm tăng nguy cơ thất bại so với nhóm có số
lượng bạch cầu bình thường, số lượng bạch
cầu càng cao, khả năng thất bại càng lớn. Đối
với nhóm bệnh nhân nhập viện, nhóm có
lượng bạch cầu từ 10.000 - 15.000/mm3 và
15.000/mm3 tăng nguy cơ thất bại lần lượt gấp
7 và 17 lần so với nhóm bạch cầu <
10.000/mm3, còn đối với nhóm bệnh nhân sau
điều trị kháng sinh, nhóm có bạch cầu
>15.000/mm3 nguy cơ thất bại cao gấp 77 lần so
với các nhóm đã về bình thường, đây cũng là
một trong những lý do chính của những bệnh
nhân cần phẫu thuật trong nghiên cứu.
CRP trước và sau điều trị: tương tự như số
lượng bạch cầu máu, CRP cũng là một chỉ dấu
quan trọng cho tình trạng viêm nhiễm. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ CRP ban ≥ 60
mg/l tăng nguy cơ thất bại điều trị nội hơn 3,36
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 203
lần so với nhóm có CRP < 60 mg/l, điều này càng
thấy rõ hơn đối với nhóm đã qua điều trị kháng
sinh với CRP ≥ 60 mg/l có ti lệ thất bại cao gấp
33,6 lần so với nhóm < 60 mg/l.
Bảng 4. Các yếu tố liên quan đến kết quả điều trị
Thành công
N=97 (%)
Thất bại
N=31 (%)
OR 95% CI P
Nghề nghiệp
Nội trợ 29(29,9) 5(16,1) 1
Công nhân 11(11,3) 5(16,1) 1,93 0,44-8,45 0,31
Nông dân 12(12,4) 4(12,9) 2,64 0,64-10,91 0,16
Văn phòng 26(26,8) 6(19,4) 1,34 0,37-4,91 0,46
Buôn bán 13(13,4) 9(29.0) 4,02 1,1-14,36 0,03
Khác 6(6,2) 2(6,5) 1,93 0,30-1,94 0,40
Sốt sau điều trị kháng sinh
Không 82(84,5) 21(67,7) 1
Có 15(15,5) 10(32,3) 2,60 1,02-6,65 0,04
Khối vùng chậu sờ được
Không 47(48,5) 8(32,3) 1
Có 50(51,5) 23(67,7) 2,70 1,10-6,63 0,02
Đường kính khối áp xe
<60 mm 62(63,9) 6(19,4) 1
≥60mm 35(36,1) 25(80,6) 7,38 2,76-19,72 0,00
Số lượng bạch cầu trước điều trị
<10.000/mm
3
27(27,8) 1(3,2) 1
10.000 -15.000/mm
3
38(39,2) 10(32,3) 7,10 0,86-58,8 0,04
> 15.000/mm
3
32(33) 20(64,5) 16,88 2,12-134 0,00
Số lượng bạch cầu sau # 48- 72 giờ điều trị
<10.000/mm
3
56(57,7) 4(12,9) 1
10.000 -15.000/mm
3
37(38,1) 5(16,1) 1,9 0,48-7,51 0,28
> 15.000/mm
3
4(4,1) 22(71) 77 17,7-335 0,00
CRP lúc nhập viện
< 60 mg/l 48(49,5) 7(22,6) 1
≥ 60mg/l 49(50,5) 24(77,4) 3,36 1,32-8,52 0,01
CRP sau # 48- 72 giờ điều trị
< 60 mg/l 84(86,6) 7(22,6) 1
≥ 60mg/l 13(13,4) 24(77,4) 33,6 11-103,1 0,00
BÀN LUẬN
Đặc điểm về lâm sàng và cận lâm sàng
Tình trạng sốt trước khi điều trị được ghi
nhận trong nghiên cưu của chúng tôi là 54,7%.
Số liệu của chúng tôi kết quả của chúng tôi lại
cao hơn những số liệu về tình trạng sốt của tác
giả Dewitt(4) tại Mỹ là 27% và Gungorduk(6) tại
Thổ Nhĩ Kỳ là 24,7%. Như vậy gần 1/2 trường
hợp không sốt khi nhập viện.
Có 46,9 % đối tượng trong nhóm nghiên cứu
có xuất hiện khí hư âm đạo bất thường. Số liệu
của chúng tôi cao hơn so với các kết quả của
Dewitt(4) là 21%.
Tỉ lệ khối vùng chậu phát hiện được qua
thăm khám lâm sàng của chúng tôi là 57%. Số
liệu này thấp hơn kết quả được ghi nhận từ
nghiên cứu của tác giả P. T. M. Thơ(9) là 80,7%.
Sự chênh lệch này có thể giải thích được là do
kích thước trung bình khối áp xe trong nhóm đối
tượng nghiên cứu của tác giả P. T. M. Thơ lớn
hơn nhiều so với trong nhóm chúng tôi là 85,5
cm so với 58,2 cm.
Kích thước trung bình của đường kính lớn
nhất khối áp xe trong nhóm điều trị nội thành
công là 55,6 ± 12 mm và trong nhóm thất bại là
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 204
67,8 ± 9,1 mm. So với các nghiên cứu khác của
Gungorduk(6) và Farid(5), kết quả đường kính
trung bình của khối áp xe trong nhóm điều trị
kháng sinh tĩnh mạch tương đương với con số
của chúng tôi lần lượt là 56 mm và 52 mm. Tuy
nhiên, đường kính trung bình trong nhóm thất
bại lại cao hơn so với nghiên cứu của chúng tôi
là 87 mm và 78 mm. Sự khác biệt này là do tiêu
chuẩn nhận mẫu của chúng tôi là các bệnh nhân
có khối áp xe phần phụ < 80 mm, vì vậy một
lượng lớn bệnh nhân có kích thước lớn bị chúng
tôi loại khỏi nghiên cứu, trong khi 2 nghiên cứu
trên nhận tất cả bệnh nhân không phân biệt kích
thước khối vùng chậu.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đa phần
bệnh nhân có số lượng bạch cầu lúc nhập viện
cao hơn 15.000/ mm3 (40,6%) tiếp đó là nhóm có
số lượng bạch cầu từ 10.000 - 15.000/ mm3
(37,5%), cuối cùng là nhóm có lượng bạch cầu
bình thường dưới 10.000/ mm3 (21,9%). Sự phân
bố bạch cầu này khá tương đồng với kết quả của
Dewitt(4) là 39%, 34% và 27%. Trên 20% bệnh
nhân nhập viện ban đầu có lượng bạch cầu bình
thường, chiếm đa số trong đó là nhóm bệnh
nhân không có triệu chứng lâm sàng, điều này
làm cho việc chẩn đoán trở nên khó khăn hơn.
Đối với nồng độ CRP lúc nhập viện, chúng
tôi ghi nhận nồng độ trung bình của 2 nhóm
điều trị thành công và thất bại lần lượt là 81 ±
73,6 mg/l và 152,7 ± 90 mg/l. Kết quả trong nhóm
cần phẫu thuật của chúng tôi tương đương với
báo cáo của tác giả Phạm Thị Mộng Thơ là 142,5
± 94,5 mg/l. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu tại
Việt Nam lại cao hơn nhiều so với số liệu do
Akkurt ghi nhận tại Thổ Nhĩ Kỳ với nồng độ
CRP trung bình của nhóm điều trị kháng sinh
đơn thuần là 48,6 ± 38,9 mg/l và nhóm cần phẫu
thuật là 62,5 ± 39,3 mg/l.
Đặc điểm về chẩn đoán và điều trị phẫu thuật
áp-xe phần phụ
Phác đồ kháng sinh được sử dụng trong
phần lớn nghiên cứu của chúng tôi là phác đồ
phối hợp 3 thuốc Amoxicillin/ Acid Clavulanic +
Metronidazol + Gentamycin chiếm 84,4 % số
trường hợp, 7,8% sử dụng phác đồ 3 kháng sinh
khác (Metronidazol + Tazocin + Vinphacin hay
Metronidazol + Tazocin + Gentamycin) và 7,8%
sử dụng phác đồ 2 thuốc (Metronidazol +
Amoxicillin/ Acid Clavulanic hay Metronidazol
+ Cephalosporin 3 hay Metronidazol+
Gentamycin). Phác đồ kháng sinh thường được
sử dụng trong nghiên cứu của chúng tôi là phác
đồ 3 thuốc phối hợp. Trong khi đó phác đồ
kháng sinh tĩnh mạch được Akkurt(1) và
Gungorduk(6) sử dụng chỉ gồm 2 thuốc là
Gentamycin và Clindamycin hoặc hay
Metronidazol + Cephalosporin 3. Sự khác biệt
này có thể giải thích do tình trạng sử dụng
kháng sinh không kiểm soát ở nước ta, người
dân có thể dễ dàng mua thuốc kháng sinh tại các
nhà thuốc, điều này làm tăng tỉ lệ vi trùng kháng
thuốc nên liệu pháp 2 kháng sinh có thể không
đạt được hiệu quả mong muốn, giải pháp 3
kháng sinh phối hợp là cần thiết.
Tỉ lệ thất bại điều trị nội khoa trong nghiên
cứu của chúng tôi là 24,4% [95% CI 0,17 - 0,32].
Tỉ lệ này tương đương với các kết quả ghi nhận
được bởi các tác giả Gungorduk, Akkurt và
Farid với các số liệu thu được lần lượt là 25,7%,
26% và 24,6%. Tỉ lệ này lại cao hơn nhiều so với
kết quả sử dụng phác đồ 3 kháng sinh phối hợp
(Ampicillin + Clindamycin + Gentamycin) của
McNeeley(7) là 12,5%.
Về phương pháp phẫu thuật, trong số 31
bệnh nhân cần can thiệp của chúng tôi đa phần
được phẫu thuật bảo tồn tử cung, chỉ cắt vòi
trứng hoặc phần phụ chiếm gần 90% số trường
hợp. Số lượng bệnh nhân phải mổ cắt tử cung
kèm 1 hoặc 2 phần phụ trong nghiên cứu của tác
giả Phạm Thị Mộng Thơ(9) cao hơn hẳn so với
chúng tôi, chiếm 40%. Giải thích tình trạng này
do nhóm nghiên cứu của tác giả Phạm Thị Mộng
Thơ(9) có tình trạng lâm sàng ban đầu nặng nề
hơn, các cuộc phẫu thuật có thể phải tiến hành
cấp cứu trong trường hợp khối áp xe vỡ gây
viêm phúc mạc dẫn đến quyết định phải mổ
trọn khối nhiễm trùng tử cung và phần phụ,
hoặc trường hợp khối áp xe lớn làm thay đổi cấu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 205
trúc vùng chậu nhiều dẫn đến việc bảo tồn tử
cung khó khăn, nguy cơ nhiễm trùng hậu phẫu
cao nên cắt toàn bộ khối là cần thiết.
Các yếu tố liên quan đến kết quả điều trị
Theo phân tích của chúng tôi, nhóm bệnh
nhân làm nghề buôn bán có nguy cơ thất bại với
liệu pháp kháng sinh gấp 4 lần so với nhóm
bệnh nhân nội trợ. Trên thế giới chưa có ghi
nhận về ảnh hưởng của nghề nghiệp lên việc
điều trị áp xe phần phụ.
Tình trạng vẫn còn sốt sau khi đã được điều
trị kháng sinh tĩnh mạch làm tăng nguy cơ thất
bại của điều trị nội khoa so với những bệnh
nhân hết sốt. Nghiên cứu của Gungorduk(6)
cũng ghi nhận mối liên quan giữa sốt với sự thất
bại của điều trị bảo tồn. Sốt là một trong những
dấu hiệu lâm sàng thường gặp khi xuất hiên tình
trạng viêm nhiễm trong cơ thể, đây là một trong
những cách mà hệ miễn dịch sử dụng để chống
lại nhiễm trùng. Nếu nhiệt độ tăng quá cao, kéo
dài, không đáp ứng tác dụng kháng sinh thì đây
là 1 tình trạng cảnh báo hệ miễn dịch của chúng
ta không thể chống lại tác nhân gây bệnh trừ khi
ổ nhiễm trùng được lấy ra khỏi cơ thể, lúc này,
phẫu thuật là cần thiết để giải quyết tận gốc.
Triệu chứng sờ được khối ở vùng chậu qua
khám âm đạo làm tăng nguy cơ thất bại của liệu
pháp kháng sinh phối hợp đường tĩnh mạch.
Điều này cũng được tác giả Phạm Thị Mộng Thơ
ghi nhận qua nghiên cứu về các trường hợp áp
xe cần phẫu thuật với triệu chứng sờ thấy khối ở
phần phụ. Điều này có thể giải thích cho sự thất
bại của điều trị thuốc do kích thước khối áp xe
càng lớn thì việc khám phát hiện ra càng dễ
dàng. Tỉ lệ phát hiện khối áp xe của tác giả Phạm
Thị Mộng Thơ(9) cao hơn hẳn so với chúng tôi
(80,7% so với 57%) vì kích thước các khối áp xe
lớn hơn (85,5 cm so với 58,2 cm). Chính vì kích
thước lớn nên ổ áp xe tập hợp một lượng lớn vi
khuẩn kị khí tăng sinh và là co các mạch máu
đến, vì vậy làm giảm tác dụng kháng sinh nhiều
lần, gây nên thất bại của điều trị nội khoa.
Trong các yếu tố về đặc điểm hình ảnh học
của siêu âm, nhóm bệnh nhân có đường kính lớn
nhất của khối áp xe ≥ 6 cm làm tăng nguy cơ thất
bại với điều trị kháng sinh tĩnh mạch gấp 7,4 lần
so với nhóm có khối áp xe < 6 cm. Kết quả này
cũng tương đương với Topcu(10) với kết luận
đường kính khối áp xe ≥ 6 cm làm tăng số ngày
nằm viện và tỉ lệ phẫu thuật lên gấp 8 lần.
Dewitt(4) đã mô tả sự tương quan giữa kích
thước khối áp xe và sự thành công của điều trị
nội khoa đơn thuần, ông ghi nhận những bệnh
nhân có khối áp xe lớn hơn có thời gian nằm
viện trung bình lâu hơn, nhiều biến chứng hơn,
thời gian sốt kéo dài hơn và nhu cầu phẫu thuật
cao hơn so với nhóm có kích thước nhỏ hơn, kích
thước ổ áp xe trung bình trong nhóm điều trị nội
thành công là 6,3 cm. Nghiên cứu của Farid(8) lại
ghi nhận giới hạn lớn nhất của đường kính ổ áp
xe trung bình là 5,18 cm để điều trị kháng sinh
thành công, và kết quả của liệu pháp kháng sinh
không bị ảnh hưởng bởi loại phác đồ kháng sinh
sử dụng.
Dựa vào số liệu thu thập được, số lượng
bạch cầu cao trong máu ở thời điểm nhập viện
hay qua quá trình điều trị làm tăng nguy cơ thất
bại so với nhóm có số lượng bạch cầu bình
thường, số lượng bạch cầu càng cao, khả năng
thất bại càng lớn. Đối với nhóm bệnh nhân nhập
viện, nhóm có lượng bạch cầu từ 10.000-
15.000/mm3 và 15.000/mm3 tăng nguy cơ thất bại
lần lượt gấp 7 và 17 lần so với nhóm bạch cầu <
10.000/mm3, còn đối với nhóm bệnh nhân sau
điều trị kháng sinh, nhóm có bạch cầu
>15.000/mm3 nguy cơ thất bại cao gấp 77 lần so
với các nhóm đã về bình thường, đây cũng là
một trong những lý do chính của những bệnh
nhân cần phẫu thuật trong nghiên cứu. Thật vậy,
những bệnh nhân có lượng bạch cầu vẫn cao sau
khi được điều trị kháng sinh là những trường
hợp nhiễm trùng nặng, có thể đã có nhiễm trùng
huyết, vi khuẩn độc lực cao đề kháng kháng sinh
nên việc chỉ dùng liệu pháp nội khoa đơn thuần
là không đủ. Trong nghiên cứu của Farid(8) cho
thấy số lượng bạch cầu > 16.000/mm3 có giá trị
dự đoán sự thất bại của điều trị kháng sinh tĩnh
mạch khi được dùng như liệu pháp đầu tay để
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 206
điều trị áp xe phần phụ. Tuy nhiên, việc sử dụng
số lượng bạch cầu tăng như một chỉ dấu mức độ
nặng của tình trạng nhiễm trùng ở ổ áp xe có thể
có những hạn chế trong trường hợp có nhiễm
trùng huyết hoặc nhiễm trùng ở các cơ quan
khác kèm theo.
Tương tự như số lượng bạch cầu máu, CRP
cũng là một chỉ dấu quan trọng cho tình trạng
viêm nhiễm. Trong nghiên cứu của chúng tôi,
nồng độ CRP ban ≥ 60 mg/l tăng nguy cơ thất bại
điều trị nội hơn 3,36 lần so với nhóm có CRP <60
mg/l, điều này càng thấy rõ hơn đối với nhóm
đã qua điều trị kháng sinh với CRP ≥ 60 mg/l có
tỉ lệ thất bại cao gấp 33,6 lần so với nhóm <60
mg/l. Trong nghiên cứu của Miettinen(6) trên 72
phụ nữ có viêm vùng chậu cấp, việc sử dụng kết
hợp tốc độ lắng máu với CRP đã cải thiện đánh
giá mức độ nặng của viêm vùng chậu cấp và tạo
điều kiện cho quyết định điều trị.
KẾT LUẬN
Ti lệ điều trị nội khoa thất bại với phác đồ
điều trị kháng sinh tĩnh mạch phối hợp tại bệnh
viện Từ Dũ là 24,2 % [95%CI 0,17 - 0,32], tương
đương với các nước trên thế giới.
Đau bụng là triệu chứng cơ năng thường
gặp nhất với hơn 90% bệnh nhân xuất hiện tình
trạng này, đây cũng là nguyên nhân chính khiến
bệnh nhân đến khám. Sốt và khí hư âm đạo chỉ
hiện diện ở 50% trường hợp, 20% bệnh nhân
nhập viện với lượng bạch cầu bình thường. Đối
với các bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ thất bại
điều trị nội cao cần tư vấn chuẩn bị tâm lý cho
bệnh nhân về nguy cơ phẫu thuật và vấn đề dự
hậu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Akkurt M et al. (2015). The evaluation of risk factors for failed
response to conservative treatment in tubo-ovarian abscesses. J
Turk Ger Gynecol Assoc, 16(4): p. 226-30.
2. Bệnh viện Từ Dũ. Báo cáo tổng kết năm của khoa Phụ năm 2012,
2013, 2014, 2015, 2016, 01/2017-04/2017.
3. Bênh Viện Từ Dũ (2015). Phác đồ điều trị sản phụ khoa. NXB
Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr. 130-40.
4. Dewitt J et al (2010). Tuboovarian abscesses: is size associated
with duration of hospitalization & complications? Obstet Gynecol
Int, p. 704-1.
5. Farid H et al (2016). Clinical Characteristics Associated with
Antibiotic Treatment Failure for Tuboovarian Abscesses. Infect
Dis Obstet Gynecol, p. 29-3.
6. Gungorduk K et al. (2014). Experience of tubo-ovarian abscess
in western Turkey. Int J Gynaecol Obstet, 124(1): p. 45-50.
7. McNeeley SG et al. (1998). Medically sound, cost-effective
treatment for pelvic inflammatory disease and tuboovarian
abscess. Am J Obstet Gynecol, 178(6): p. 1272-8.
8. Miettinen AK et al. (1993). Test performance of erythrocyte
sedimentation rate and C-reactive protein in assessing the
severity of acute pelvic inflammatory disease. Am J Obstet
Gynecol, 169(5): p. 1143-9.
9. Phạm Thị Mộng Thơ, Võ Minh Tuấn (2016). Khảo sát đặc điểm
các trường hợp Áp xe phần phụ sau phẫu thuật tại bệnh viện
Từ Dũ. Thời sự y học, 16(2): p. 18-25.
10. Topcu HO et al. (2015). Risk factors for adverse clinical
outcomes in patients with tubo-ovarian abscess. J Obstet
Gynaecol. 35(7): p. 699-702.
Ngày nhận bài báo: 30/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 06/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_dac_diem_nhung_truong_hop_ap_xe_phan_phu_dieu_tri.pdf