Tài liệu Nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ của biện pháp tu từ phóng đại trong một số tác phẩm văn học Pháp và Việt Nam: LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
NGUYỄN THỊ THU THỦY - Nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ của biện pháp tu từ
phóng đại trong một số tác phẩm văn học Pháp và Việt Nam
3
VŨ THỊ HUYỀN TRANG - Phân tích đối chiếu “给我” và “cho tôi/cho tao”
trong câu cầu khiến tiếng Hán và tiếng Việt
13
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
NGUYỄN THU HẠNH, DƯƠNG THỊ HỒNG HẠNH - Hiệu quả của áp dụng
trò chơi ngôn ngữ nhằm thúc đẩy việc làm chủ thuật ngữ quân sự tiếng Anh
20
NGUYỄN NGỌC ÂN, ĐÀO THỊ LÊ MAI, THIỀU NGỌC HƯNG - Nâng cao
năng lực đọc hiểu tài liệu tiếng Anh chuyên ngành trong các học viện, trường
thuộc lực lượng vũ trang
28
NGUYỄN THỊ MINH TÂN - Bàn về phương pháp dạy học ngữ pháp tiếng Hán
giai đoạn sơ cấp cho sinh viên Việt Nam
35
HOÀNG VĂN TIẾN - Giảng dạy tiếng Pháp theo đường hướng phát triển kỹ
năng trong các trường đại học Việt Nam
41
MAI THỊ HUẾ - Phân tích lỗi sai thường gặp khi sử dụng từ ly hợp trong tiếng
Hán hiện đại của sinh viên Việt Nam
47
Số 11 - 01/2018 ISSN 2525 - 2232
NGHIÊN ...
96 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 705 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ của biện pháp tu từ phóng đại trong một số tác phẩm văn học Pháp và Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
NGUYỄN THỊ THU THỦY - Nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ của biện pháp tu từ
phóng đại trong một số tác phẩm văn học Pháp và Việt Nam
3
VŨ THỊ HUYỀN TRANG - Phân tích đối chiếu “给我” và “cho tôi/cho tao”
trong câu cầu khiến tiếng Hán và tiếng Việt
13
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
NGUYỄN THU HẠNH, DƯƠNG THỊ HỒNG HẠNH - Hiệu quả của áp dụng
trò chơi ngôn ngữ nhằm thúc đẩy việc làm chủ thuật ngữ quân sự tiếng Anh
20
NGUYỄN NGỌC ÂN, ĐÀO THỊ LÊ MAI, THIỀU NGỌC HƯNG - Nâng cao
năng lực đọc hiểu tài liệu tiếng Anh chuyên ngành trong các học viện, trường
thuộc lực lượng vũ trang
28
NGUYỄN THỊ MINH TÂN - Bàn về phương pháp dạy học ngữ pháp tiếng Hán
giai đoạn sơ cấp cho sinh viên Việt Nam
35
HOÀNG VĂN TIẾN - Giảng dạy tiếng Pháp theo đường hướng phát triển kỹ
năng trong các trường đại học Việt Nam
41
MAI THỊ HUẾ - Phân tích lỗi sai thường gặp khi sử dụng từ ly hợp trong tiếng
Hán hiện đại của sinh viên Việt Nam
47
Số 11 - 01/2018 ISSN 2525 - 2232
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
TRỊNH THỊ THÚY - Một số hình thức viết tắt thuật ngữ quân sự tiếng Việt 74
BÙI THỊ THANH LƯƠNG - Vài nét về giáo trình “Ngữ pháp tiếng Việt” trong
chương trình đào tạo cử nhân Việt Nam học cho học viên quân sự nước ngoài
tại Học viện Khoa học Quân sự
77
TRÀ THỊ THOA - Tăng cường tổ chức hoạt động ngoại khóa ngoại ngữ trong các
học viện, nhà trường Quân đội
83
NGUYỄN HỮU NGHỊ - Thực trạng và các vấn đề giảng dạy tiếng Anh chuyên
ngành ở trường Sĩ quan Chính trị hiện nay
88
VĂN HÓA - VĂN HỌC
ĐỖ TIẾN QUÂN - Sự phát triển về nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Dư Hoa
nhìn từ góc độ quan hệ gia đình
52
NGUYỄN THỊ MAI - Bàn về 5 nét nghệ thuật đặc sắc của tiểu thuyết Kim Dung 62
DỊCH THUẬT
VÕ TRUNG ĐỊNH - Một số phương pháp dịch thuật từ ngữ văn hóa Việt Nam
sang tiếng Hán
68
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO
Chủ tịch
Thiếu tướng, GS.TS. ĐẶNG TRÍ DŨNG
Phó chủ tịch
Đại tá, PGS.TS. NGUYỄN TRỌNG HẢI
Ủy viên
Thiếu tướng, PGS.TS. QUẢN VĂN TRUNG
Đại tá, TS. TRẦN NGỌC TRUNG
Đại tá, ThS. PHẠM QUANG HẢI
Đại tá, PGS.TS. MA ĐỨC KHẢI
Đại tá, TS. TRỊNH THỊ THÚY
TỔNG BIÊN TẬP
Đại tá, PGS.TS. NGUYỄN TRỌNG HẢI
PHÓ TỔNG BIÊN TẬP
Trung tá, TS. NGUYỄN THU HẠNH
BAN BIÊN TẬP
Đại tá, TS. ĐINH QUANG TRUNG
Đại tá, ThS. DƯƠNG VĂN TUYỂN
Đại tá, TS. BÙI THỊ THANH LƯƠNG
Thượng tá, ThS. LÊ CÔNG PHÁT
Trung tá, TS. TRẦN THỊ MINH THỤC
Trung tá, TS. NGUYỄN THU HẠNH
Thiếu tá, TS. ĐOÀN THỤC ANH
THƯ KÝ - TRỊ SỰ
Trưởng ban
Thiếu tá, ThS. NGUYỄN TUẤN ANH
Ủy viên
Thiếu tá CN, ThS. HOÀNG THỊ BẮC
Thiếu tá, ThS. NGÔ NGỌC HẢI
Thượng úy, ThS. NGUYỄN THỊ THU
TRỤ SỞ
322E Lê Trọng Tấn, Định Công,
Hoàng Mai, Hà Nội
Điện thoại: 0246.328.2232
Email: tapchikhnnqs@ gmail.com
Website: hvkhqs.edu.vn
GIẤY PHÉP HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ IN
Số 200/GP-BTTTT ngày 19/4/2016
của Bộ Thông tin và Truyền thông
CONTENTS
1. A study of linguistic features of hyperbole in literary works written in French and Vietnamese; 2. A contrastive analysis of
“给我” and “cho tôi/cho tao” in Chinese and Vietnamese imperatives respectively; 3. The effectiveness of using language
games in promoting the mastery of military English; 4. Enhancing reading comprehension with ESP materials in military
institutes and universities; 5. Chinese grammar teaching methodology for Vietnamese students of Chinese at elementary
level; 6. Teaching French under the skills development approach in Vietnamese universities; 7. Analysis of common mistakes
with separable words in modern Chinese made by Vietnamese students; 8. The development of the narrative arts in Yu
Hua’s works: from the perspective of family relationship; 9. Five typical artistic features of Kim Dung’s fictions; 10. Suggested
ways of translating Vietnamese cultural words into Chinese; 11. Ways of abbreviations Vietnamese military terms; 12. Some
features of the textbook Vietnamese Grammar for foreign undergraduate students Vietnamese at Military Science Academy;
13. Intensifying the extracurricular activities of foreign languages in the Vietnamese military schools and academies; 14. Real
situations and issues of teaching English for specific purposes at the Political Officers College.
SOMMAIRE
1. Etude de l’aspect linguistique de l’hyperbole dans des œvres littéraires françaises et vietnamiennes; 2. L’anayse contrastive
“给我” et “cho tôi/cho tao” dans la phrase injonctive en chinois et en vietnamien; 3. Efficacité du jeu linguistique dans
l’acquisition de la terminologiemilitaire en anglais; 4. Amélioration de la compétence de la compréhension écrite de l’anglais
de spécialité dans les académies militaires et universités des forces armées.; 5. Réflexions sur la méthode d’enseignement
de la grammaire chinoise au niveau élémentaire aux étudiants vietnamiens; 6. Enseignement du français selon l’approche
par compétence dans les universités vietnamiennes; 7. Analyse des erreures fréquentes des mots de l’embrayage en chinois
modern chez les étudiants vietnamiens; 8. Le développement de l’art narratif dans la composition de Dư Hoa du point de
vue des relations familiales; 9. Discussions sur les 5 caractéristiques artistiqnes des romans de Kim Dung; 10. Quelques
méthodes de traductions des mots à charge culturelle vietnamiens en chinois; 11. Le moyens de formation des acronymes
en terminologie militaire vietnamien; 12. Quelques traits caractéristiques de la méthode “La grammaire vietnamienne”
destinée aux étudiants militaires étrangères de Vietnamologie à l’Académie des Sciences Militaires; 13. Renforcement de
l’organisation des activités parascolaires en langues étrangères dans les académies et universités militaires; 14. Etat de lieu et
problèmes de l’enseignement de l’anglais de spécialité de l’université des officers de politique.
СОДЕРЖАНИЕ
1. Изучение лингвистических характеристик преувеличенной риторики в некоторых французских и вьетнамских
литературных произведениях; 2. Сравнительный анализ “给我” и “мне (в нейтральном стиле)/мне (в
фамильярном стиле)” в повелительных предложениях китайского и вьетнамского языков; 3. Эффективность
применения языковых игр с целью улучшения усвоения военной терминологии в английском языке; 4. Развитие
навыков чтения профессиональных документов английского языка в военных вузах вооружённых сил; 5. О методе
преподавания грамматики китайского языка элементарного этапа для вьетнамских студентов; 6. Преподавание
французского языка в направлении развития навыков во вьетнамских вузах; 7. Анализ распространенных
ошибок в употреблении слова “ly hợp” в современном китайском языке вьетнамских студентов; 8. Развитие
нарративного искусства в произведении Зы Хоа с точки зрения семейных отношений; 9. О пяти уникальных
особенностях романов Ким Зунга; 10. Некоторые методы перевода вьетнамских культурных слов на китайский
язык; 11. Некоторые спaсобы формирования аббревиатур, обoзначающих военные термины во вьетнамском
языке; 12. Об учебном пособии «Вьетнамская грамматика» для иностранных военных курсантов-бакалавров,
подготовленных по программе вьетнамистики; 13. Усиление внеучебных мероприятий в программе преподавания
иностранных языков в военных вузах; 14. Современное состояние и проблемы преподавания английского языка
в Политическом училище Вьетнамской Народной Армии.
目录
1. 法越文学作品中夸张手法特点的比较研究; 2. 汉越祈使句中“给我”与“cho tôi/cho tao”对比分析; 3. 语
言游戏在英语军事术语学习过程中所起的作用; 4. 论如何提高武装力量院校专业英语阅读能力; 5. 试论对越南
学生进行的初级汉语语法教学的方法; 6. 在越南高等院校里以发展语言技能为主的教学方法; 7. 越南学生现代
汉语离合词常见的偏误分析; 8. 余华创作中的家庭关系叙述手法; 9. 论金庸武侠小说之五大艺术魅力; 10. 越南
语文化词语的汉译门路; 11. 越南语军事术语的若干缩略方式; 12. 军事科学学院对外越语教材《越语语法》的
简介; 13. 增加军事院校的外语课外活动; 14. 政治军官学校专业英语教学的现状与问题。
3KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v
NGUYỄN THỊ THU THỦY*
*Đại học Ngoại ngữ - ĐH Đà Nẵng, ✉ ntththuy@ufl.udn.vn
Ngày nhận bài: 13/11/2017; ngày sửa chữa: 27/11/2017; ngày duyệt đăng: 30/12/2017
1. INTRODUCTION
La littérature française est un domaine dont nous,
enseignants et étudiants de français, avons toujours
soif de connaissance pour pouvoir, dans une certaine
mesure, admirer la beauté du langage littéraire.
Une des figures de style très courantes qui fait
obstacle à la compréhension est l’hyperbole qui
“exprime au-delà de la vérité pour ramener l’esprit
à la mieux connaître” (Pougeoise M., 2004) Dans
la littérature, l’hyperbole est considérée comme un
phénomène naturel dans lequel les auteurs taillent
leur langage pour le rendre plus effectif et parfois
pour insister sur la signification qu’ils veulent
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ
CỦA BIỆN PHÁP TU TỪ PHÓNG ĐẠI
TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC
PHÁP VÀ VIỆT NAM
TÓM TẮT
Văn học đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống hằng ngày. Để hiểu rõ và cảm thụ một tác
phẩm văn học đòi hỏi người đọc phải có kiến thức thấu đáo về cách thức diễn đạt cũng như biện
pháp tu từ được sử dụng, trong đó có phóng đại, biện pháp tu từ dùng sự cường điệu quy mô, tính
chất, mức độ,... của đối tượng nhằm mục đích nhấn mạnh vào một bản chất nào đó của đối tượng
được miêu tả. Bài viết trình bày kết quả nghiên cứu đối chiếu đặc điểm ngôn ngữ của biện pháp
tu từ này trong một số tác phẩm văn học Pháp và Việt Nam. Những kết quả thu được cho phép
người dạy - học tiếng Pháp nắm bắt rõ hơn những ý tưởng của tác giả qua sử dụng biện pháp tu từ
phóng đại, từ đó dễ dàng tiếp cận và lĩnh hội ngôn ngữ thơ ca này.
Từ khóa: biện pháp tu từ, phóng đại, đặc điểm ngôn ngữ, ngữ cảnh, đối tượng
transmettre. En réalité, apprendre à interpréter et
exprimer l’hyperbole semble une tâche difficile
pour les apprenants de français. L’hyperbole a une
très grande valeur expressive. En français et aussi
en vietnamien, cette figure de style a des fonctions
variées: décrire, dramatiser ou insister sur une
opinion ou une émotion, insister sur une vérité en
exagérant, créer un effet comique, exprimer une
ironie, etc. Comme le montre Huu Dat, l’hyperbole
est appelé “une surévaluation d’exprimer les faits
de façon ironique, humoristique ou optimiste”
(Hữu Đạt, 1999).
Avec ces fonctions variées, il est indubitable
que l’hyperbole joue un rôle très important parce
4 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
qu’elle peut intervenir dans presque tous les
messages de la communication par le langage.
L’article se concentre sur l’étude de
l’hyperbole en français et en vietnamien sous les
aspects syntaxiques, sémantiques et pragmatiques
pour avoir une perception précise de l’hyperbole.
Pour cela, un grand nombre d’expressions
hyperboliques ont été collectées et traitées de
manière différente. Nous les avons repérées dans
les ouvrages littéraires français comme Mes amis
Mes amours (Marc Levy), Notre-Dame de Paris,
Les Misérables I (Victor Hugo), et dans les
ouvrages littéraires vietnamiens tels que Nằm
vạ (Bùi Hiển), Tuyển tập truyện ngắn (Nguyễn
Minh Châu), Tuyển chọn những truyện ngắn hay –
Truyện ngắn chọn lọc (Nguyễn Công Hoan)...
Nous avons choisi la démarche descriptive
et l’analyse contrastive comme méthodologie
générale de notre étude.
2. RÉSULTATS DE RECHERCHE
2.1. Caractéristiques syntaxiques de
l’hyperbole en français et en vietnamien
Les caractéristiques syntaxiques de l’hyperbole
en français et en vietnamien faisant partie de notre
corpus sont exprimées par des structures ci-dessous.
2.1.1. Caractéristiques syntaxiques de
l’hyperbole en français
Syntagme nominal (SN)
a. SN = Dét (Déterminant) + Adj (Adjectif) +
N (Nom)
(1) Les cris, les rires, le trépignement de ces
mille pieds faisaient un grand bruit et une grande
clameur. (Victor Hugo, 1967, p.39)
b. SN = Dét + N + SP (Syntagme prépositionnel)
(2) - Au moins, pensa-t-il, j’y aurai peut-être
un tison du feu de joie pour me réchauffer,...
(Victor Hugo, 1967, p.85)
c. SN = Dét. + Adj. + N + SP
(3) De là mille illusions d’optique, mille
aberrations de jugement, mille écarts où
divaguait sa pensée, tantôt folle, tantôt idiote.
(Victor Hugo, 1967, p.173)
Syntagme adjectival (SA)
a. SA = Adj + SP (+ et + SP)
(4) Il va être fou de joie, alors même s’il reste
une échelle et deux pots d’enduit par-ci, par-là, ce
n’est pas très grave. (Victor Hugo,1967, p.24)
(5) A peine Gringoire avait-il approché ses
lèvres de cette coupe enivrante de joie et de
triomphe, qu’une goutte d’amertume vint s’y
mêler. (Victor Hugo, 1967, p.55)
b. SA = Modificateur (Modif) + Adj + SP
(6) Je viens de te dire que j’étais fou amoureux
d’elle. (Marc Levy, 2006, p.10)
Syntagme verbal (SV)
a. SV = V (Verbe) + SN
(7) et chaque fois qu’en tournoyant sa
rayonnante figure passait devant vous, ses grands
yeux noirs vous jetaient un éclair. (Victor Hugo,
1967, p.88)
b. SV = V + SP (Prép + SN)
(8) La tête me bourdonne comme un clocher.
(Victor Hugo, 1967, p.300)
c. SV = V + SP (Prép + N)
(9) Et il mourait d’envie de la rencontrer
(Marc Levy, 2006, p.255)
Structures de comparaison
a. Superlatif de supériorité SA = Adv.Sup. +
Adj. + N + SP
5KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v
(10) Du fond de la cour de récréation, une
petite fille lui offrait le plus beau sourire du
monde (Marc Levy, 2006, p.30)
b. Comparatif de supériorité SA = Adv.Degré
+ Adj. + SN
(11) De beaux chantres, reprit l’autre, et qui
ont la voix encore plus pointue que leur bonnet.
(Victor Hugo, 1967, p.44)
2.1.2. Caractéristiques syntaxiques de
l’hyperbole en vietnamien
Dans le cadre de la présente étude, nous
nous limiterons à une présentation succinte des
principales notions utilisées dans l’analyse des
caractéristiques syntaxiques de l’hyperbole en
vietnamien. Pour ce faire, nous avons suivi les
points de vue de Nguyễn Lân Trung (2006) et Diệp
Quang Ban (2003).
Le syntagme nominal est un syntagme dont le
noyau est un nom. Celui-ci est souvent entouré des
éléments appelés “déterminants|” par Nguyễn Lân
Trung (2006). En vietnamien, les “déterminants”
peuvent se répartir avant et après le nom noyau
dans un syntagme nominal. On distingue donc les
prédéterminants des postdéterminants.
Syntagme nominal
a. Nom + Ø
(12) Nó mà đã chạy, trời không ghìm nỗi nó
lại. (Nguyễn Công Hoan, 2005, p.486)
b. Prédéterminants + Nom
(13) Hàng trăm nỗi mừng nở thành nụ cười
trên miệng ông. (Nguyễn Công Hoan, 2005, p.6)
c. Nom + Postdéterminants
(14) Tóc chị Đỏ rối bù, khăn xổ xuống che
một mắt, chị đã tự soạn cho mình bộ mặt thảm
thương không tả xiết. (Bùi Hiển, 1994, p.16)
d. Prédéterminants + Nom + Postdéterminants
(15) Chàng đá vung lên, và muôn vạn giọt
nước li ti văng tung tóe. (Bùi Hiển, 1994, p.65)
Syntagme verbal
Selon Diệp Quang Ban (2003), un
syntagme comprend trois éléments principaux:
prémodificateur, noyau, postmodificateur
dans lequel le noyau est obligatoire et les
prémodificateurs et les postmodificateurs sont
optionnels. Le syntagme verbal est un ensemble
de mots libres au début duquel il n’existe pas de
mot connecté.
a. Verbe + Ø
(16) Tim chàng muốn vỡ ra, nếu nắng mới
không tới rọi vừa đúng lúc để đánh đuổi cơn tê độn
trong đó chàng đương sa lầy. (Bùi Hiển, 1994, p.65)
b. Prémodificateurs + Verbe
(17) Hễ cố ngồi dậy là đầu con sẽ vỡ tung (Bùi
Hiển, 1994, p.103)
c. Verbe + Postmodificateurs
(18) Nếu biết trước rằng cảnh ly biệt xé tan nát
gan ruột như thế này, thà cứ chịu đựng ở nhà dạy
học còn hơn. (Nguyễn Công Hoan, 2005, p.86)
d. Prémodificateurs + Verbe +
Postmodificateurs
(19) Của chìm của nổi đã không còn gì, nhịn
cơm từ sáng nhường con đã lả cả dạ dày. (Nguyễn
Công Hoan, 2005, p.35)
Structures de comparaison
a. Comparatif de supériorité
(20) Hoàng đã yêu nàng hơn tình yêu của tất
cả đàn ông trên thế gian này gộp lại. (Bùi Hiển,
1994, p.239)
6 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
b. Comparatif d’égalité
(21) Con chó ẳng lên một tiếng, rồi nhanh như chớp, nó vật được kẻ thù xuống đất, (Nguyễn Công
Hoan, 2005, p.23)
Proposition subordonnée de conséquence
(22) Nàng đẹp đến mức nữ hoàng Cléopâtre sống lại cũng phải ghen tỵ với nhan sắc của nàng.
(Nhiều tác giả, 2005, p.14)
Pour une vue globale des résultats de la réalisation syntaxique des hyperboles en français et en
vietnamien, nous aimerions présenter ce tableau 1 ci-dessous.
Tableau 1: Tableau récapitulatif des caractéristiques syntaxiques des hyperboles en français et en
vietnamien
Français Vietnamien
Syntagme
nominal
Dét. + Adj. + N Nom + Ø
Dét. + N + SP Prédéterminants + Nom
Dét. +Adj. + N + SP Nom + Postdéterminants
Prédéterminants + Nom + Postdéterminants
Syntagme
adjectival
Adj. + SP (+ et + SP)
Modif. + Adj. + SP
Syntagme verbal
V + SN Verbe + Ø
V + SP (Prép. + SN) Prémodificateurs + Verbe
V + SP (Prép. + N) Verbe + Postmodificateurs
Prémodificateurs + Verbe +
Postmodificateurs
Structures de
comparaison
Superlatif de supériorité Comparatif de supériorité
Comparatif de supériorité Comparatif d’égalité
Proposition subordonnée de conséquence
2.2. Caractéristiques sémantiques de l’hyperbole en français et en vietnamien
Après l’étude de deux cents éléments hyperboliques tirés des ouvrages littéraires français et
vietnamiens, nous les avons classés en champs sémantiques, organisés autour des idées telles que la
beauté, la joie, l’amour, la peur, la laideur, la tristesse ou la quantité.
2.2.1. Caractéristiques sémantiques de l’hyperbole en français
Une évaluation positive, qui traduit l’approbation, l’admiration ou la louange, comprend les champs
sémantiques suivants:
7KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v
Idée de la beauté
(23) Du fond de la cour de récréation, une
petite fille lui offrait le plus beau sourire du
monde (Marc Levy, 2006, p.30)
Idée de la joie/du bonheur
(24) Je suis fou de bonheur! (Marc Levy,
2006, p.97)
Idée de l’amour
(25) Audrey avait une folle envie de le voir
(Marc Levy, 2006, p.251)
Idée de la peur
Si les champs sémantiques relevant de la
rubrique d’évaluation positive sont variés, ceux
concernant l’évaluation négative ne le sont pas
moins. Ce sont les expressions hyperboliques de la
peur, de la laideur et de la tristesse ou de la douleur.
(26) Cette pensée lui fit jaillir la sueur de tous
les pores. (Victor Hugo, 1967, p.373)
Idée de la laideur
(27) La face humaine de Javert consistait en
un nez camard, avec deux profondes narines vers
lesquelles montaient sur ses deux joues d’énormes
favoris. On se sentait mal à l’aise la première fois
qu’on voyait ces deux forêts et ces deux cavernes.
(Victor Hugo, 1967, p.198)
Idée de la tristesse/de la douleur
Dans le domaine d’évaluation négative, la
présence des expressions faisant référence à l’idée
de la tristesse ou de la douleur est remarquable.
(28) Puis elle ajouta avec une expression
impitoyable, et sachant bien qu’elle allait percer
de mille fers rouges le cœur du prêtre. (Victor
Hugo, 1967, p.400)
Idée de la quantité
Dans les exemples suivants, les adjectifs
numéraux “mille”, “cent” dont le sens
mathématique s’efface, prennent une valeur
quantitative rhétorique, et plus précisément une
valeur hyperbolique dans ces contextes.
(29) D’abord, les rues, croisées et brouillées,
faisaient dans le bloc cent figures amusantes.
Autour des Halles, c’était comme une étoile à
mille raies. (Victor Hugo, 1967, p.151)
2.2.2. Caractéristiques sémantiques de
l’hyperbole en vietnamien
Idée de la beauté
(30) Chàng không thấy gì trên sân khấu, bởi tất
cả chú ý đã bị chiếm giữ bởi đôi vai tròn nhỏ của
một cô bé đẹp tuyệt trần ngồi trước mặt chàng.
(Bùi Hiển, 1994, p.63)
[Il ne voyait rien sur la scène, car toute son
attention était centrée sur les petites épaules rondes
d’une jeune fille divinement belle qui était assise
devant lui.]
Idée de la joie/du bonheur
En ce qui concerne le champ sémantique de
l’évaluation positive - joie ou bonheur - il n’est
pas rare qu’une hyperbole aille encore ‘‘plus loin’’
pour exagérer la réalité dans un sens laudatif
jusqu’à l’absurde. Une redondance d’adynatons se
fait voir.
(31) Nếu người quay lại ấy là một người khác
thì thật là một trò cười vỡ bụng cho lũ bạn tôi.
(Bùi Hiển, 1994, p.23)
[Si la personne qui se retournait était une autre,
ça ferait crever de rire mes amis.]
Idée de l’amour
Pour parler de l’amour, un élan physique
ou sentimental, l’auteur doit utiliser toutes les
marques du haut degré.
8 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
(32) Hoàng đã yêu nàng hơn tình yêu của tất
cả đàn ông trên thế gian này gộp lại. (Bùi Hiển,
1994, p.239)
[Hoàng l’a aimée, d’un amour beaucoup
plus fort que l’amour réuni de tous les hommes
du monde entier.]
Idée de la peur
En vietnamien, la langue familière utilise
souvent des hyperboles pour amplifier l’idée de la
peur. Il s’agit des expressions à un degré supérieur
telles que “sợ hết hồn hết vía, sợ bạt vía, hồn vía
bay lên mây, sợ đến chết khiếp,...”.
(33) Thằng nhỏ, con sen bị một mẻ dọa hồn vía
bay lên mây hết. (Nguyễn Công Hoan, 2005, p.5)
[Le petit garçon, la jeune servante ont reçu une
telle menace que leur âme s’envolait au ciel.]
Idée de la laideur
(34) Ai có việc phải đến gần nó cũng cố mau
chóng để tránh xa ra cái hàm răng và cẳng chân
vô cùng ghê tởm của nó. (Nguyễn Công Hoan,
2005, p.487)
[Quiconque devant l’approcher faisait de tout
son mieux pour s’écarter de ses dents et de ses
jambes extrêmement répugnantes.]
Idée de la tristesse/de la douleur
(35) Nghĩ đến tương lai thì phấn chấn trong
lòng, mà nghĩ lại riêng mình cậu khó nhọc, thì
tôi lại buồn chết đi được. (Nguyễn Công Hoan,
2005, p.95)
[Je me sens réconforté en pensant à l’avenir,
mais le fait que vous serez le seul à endosser les
peines me rend triste à mourir.]
Idée de la quantité
À part les catégories d’évaluation positive et
négative, il faut aussi souligner l’importance du
champ sémantique de quantité, ce qui implique
des chiffres et des mots qui sont devenus plus ou
moins standardisés que les unités de mesure.
(36) Bu Ninh giảng đi giảng lại bài toán ấy cả
trăm lượt không biết sốt ruột cho đến khi nó hiểu
thấu đáo. (Bùi Hiển, 1994, p.120)
[Bu Ninh expliquait cent fois ce problème sans
être impatient, jusqu’à ce qu’il le comprenne à fond.]
2.3. Caractéristiques pragmatiques de
l’hyperbole en français et en vietnamien
Pour cet aspect, nous avons découvert que
l’hyperbole est utilisée de façon intentionnelle
dans l’expression des nuances variées de sens. Au
lieu des moyens d’expression normaux, le
locuteur pourrait faire valoir son intention de
communication de manière particulièrement habile
par l’intermédiaire d’une hyperbole.
Ce qui attire notre attention dans cette étude,
c’est que les expressions hyperboliques peuvent
être utilisées pour exprimer toutes
sortes de nuances de sens en fonction des situations
concrètes de communication suivantes:
2.3.1. Caractéristiques pragmatiques de
l’hyperbole en français
Expression d’un compliment
Exprimer un compliment c’est une stratégie
importante au niveau social. En réalité, c’est
les compliments impliqués dans la situation de
communication qui ont embelli la vie. Pour leur
part, les écrivains ont généralement tendance à
recourir à des expressions hyperboliques dans
le discours formel ou écrit, pour souligner des
questions concernant l’amour, la beauté, Par
exemple:
(37) L’enfer où tu seras, c’est mon paradis,
ta vue est plus charmante que celle de Dieu!
(Victor Hugo, 1967, p.347)
9KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v
Le recours à l’expression “plus charmante
que celle de Dieu” reflète ce que le prêtre pensait
de la vue d’Esméralda, celle qui était condamnée
au gibet, avec le colossal Palais de Justice sur la
tête. Une louange semblerait-elle trop exagérée
pour une prisonnière qui n’avait plus une lueur de
jour dans ses yeux?
Expression d’une attitude ironique
Une caractéristique plus importante
et remarquable, c’est que les écrivains français et
vietnamien apprécient beaucoup l’effet ironique des
expressions hyperboliques emphatiques ou
sarcastiques.
(38) - Je pense que tout pourrait être fini dans
trois mois
- Trois mois? Vous comptez démolir cette
cloison avec une cuillère à café? (Marc Levy,
2006, p.74)
Ce que réplique Mathias “avec une cuillère à
café?” à son chef d’agence McKenzie qui demande
de finir le chantier en trois mois, manifeste son
attitude ironique envers celui qui devrait réaliser
l’illusion de son projet (il faut beaucoup de temps
pour les demandes de permis, pour la démolition
d’une cloison, la construction d’une maison,...)
Création d’un effet comique
Rendre le lecteur détendu, joyeux et à l’aise
lors de la lecture d’un certain passage d’écrits
est aussi une des tâches les plus importantes
et significatives de la littérature. Laquelle
fournit non seulement des informations
utiles, mais aussi une forme divertissante de
communication pour provoquer un rire chez
le lecteur. En fait, ce n’est pas une tâche
facile du tout. L’écrivain fait de son mieux
pour assumer ce devoir avec autant d’habileté et
de succès que possible. Pour ce faire, dans ses
écrits, il emploie des phrases hyperboliques afin
que ses descriptions deviennent plus attrayantes,
efficaces et que le lecteur puisse obtenir autant
de plaisir que possible.
(39) La face humaine de Javert consistait en
un nez camard, avec deux profondes narines vers
lesquelles montaient sur ses deux joues d’énormes
favoris. On se sentait mal à l’aise la première fois
qu’on voyait ces deux forêts et ces deux cavernes.
(Victor Hugo, 1967, p.198)
L’officier de paix Javert dont la physionomie
se complique d’un air de bassesse mêlé à un air
d’autorité est considéré comme une des espèces
animales de la création. À cela, s’ajoute sa face
humaine qui produit un effet comique, c’est la
comparaison entre ses deux profondes narines et
deux forêts, ses deux joues, deux cavernes.
Expression d’une forte impression
Lors de la création d’un personnage,
l’écrivain doit avoir dans son esprit certains
sentiments pour ce personnage. Il peut
transmettre ces sentiments aux lecteurs à travers
les expressions hyperboliques. Ce sont des mots et
des phrases qui multiplient le caractère d’un objet
ou un phénomène afin de mettre en évidence la
nature de l’objet mentionné par le biais des
expressions dénotant la joie, la souffrance,...
(40) Cosette ne faisait pas un mouvement qui
ne fit pleuvoir sur sa tête une grêle de châtiments
violents et immérités. (Victor Hugo, 1967, p.184)
Cosette, la petite fille de Fantine, grandit
avec sa misère. Les braves gens Thénardier étant
méchants pour elle, lui donnent des coups et des
injures chaque jour. L’expression hyperbolique
“une grêle de châtiments violents et immérités”
nous produit une forte émotion en imaginant
une pauvre alouette maigre et blême sans cesse
grondée, et battue.
2.3.2. Caractéristiques pragmatiques de
l’hyperbole en vietnamien
Dans la langue vietnamienne, les thèmes tels
que l’amour, la beauté,... sont beaucoup plus
intéressants quand on exagère le caractère du
personnage ou la nature de l’objet mentionné. Pour
10 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
exprimer un compliment, une attitude ironique,
une forte émotion ou créer un effet comique chez le
lecteur, on utilise un grand nombre d’expressions
hyperboliques.
Expression d’un compliment
Il est intéressant de noter que les choses
qui sont de préférence complimentées dans les
différentes cultures ne sont pas toujours les
mêmes. Par exemple, les Vietnamiens préfèrent
les expressions “sắc nước hương trời”, “đẹp
tuyệt trần”, ou bien “nàng tiên sa giáng thế”
pour louer la beauté d’une fille.
(41) Chàng không thấy gì trên sân khấu, bởi tất
cả chú ý đã bị chiếm giữ bởi đôi vai tròn nhỏ của
một cô bé đẹp tuyệt trần ngồi trước mặt chàng.
(Bùi Hiển, 1994, p.63)
[Il ne voyait rien sur la scène, car toute son
attention était centrée sur les petites épaules rondes
d’une jeune fille divinement belle qui était assise
devant lui.]
Expression d’une attitude ironique
Les écrivains impliquent souvent l’opposition
de la signification contextuelle par rapport
au sens dans le dictionnaire pour le sarcasme en
exagérant quelque chose. Ils créent parfois un
jeu intentionnel afin de parvenir à une disparité
frappante dans lequel réside l’effet d’une ironie à
travers des expressions hyperboliques.
(42) Lão quan lại làng tôi của cải nhiều đến
nỗi chúng đè lão thở không được, đi không nỗi,
ăn không tiêu, uống không ngán, nói không ra
hơi và mắt không bao giờ dám khép lại (Nguyễn
Minh Châu, 1999, p.307)
[Le vieux mandarin de mon village est un
homme richissime, ses biens innombrables
l’écrasent à tel point qu’il ne peut plus respirer
ni marcher, ni manger ni boire tout son soûl,
qu’il n’a plus de souffle pour parler, et qu’il
dort les yeux entrouverts.]
Création d’un effet comique
Les écrivains vietnamiens emploient un
assez grand nombre d’expressions hyperboliques
comme un dispositif efficace pour produire des
écrits intéressants et drôles ou pour faire rire le
lecteur.
(43) Nó mà cử động mạnh, cả tòa nhà rung
chuyển. (Nguyễn Công Hoan, 2005, p.120)
[Quand il fait un mouvement fort, le grand
bâtiment s’ébranle.]
Expression d’une forte impression
Les écrivains ont tendance à employer des
mots porteurs de sens d’exagération qui peuvent
représenter l’évaluation subjective et également
décrire l’impact direct pour la psychologie,
l’émotion et les parties du corps.
À titre d’illustration, observez ces exemples
dans lesquels les expressions “rầu gan nát ruột”,
“ngậm hàng ngàn mối sầu” sont utilisées pour
exprimer la tristesse.
(44) Đã hơn tháng nay, cái tiếng rên rĩ của
ông cụ hòa lẫn với tiếng rầu rĩ của siêu thuốc mà
làm anh Tư Bền rầu gan nát ruột (Nguyễn Công
Hoan, 2005, p.159)
[Depuis plus d’un mois, les gémissements du
vieux se mêlant au bruit sinistre de la bouilloire de
plantes médicinales affectent terriblement Tư Bền,
comme si on déchirait ses entrailles.]
2.4. Comparaison de l’hyperbole en français
et en vietnamien
Les études théoriques et les résultats acquis de
l’analyse du corpus nous permettent de formuler
quelques conclusions comme suit:
2.4.1. Ressemblances
Sur le plan syntaxique,
11KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v
- la plupart des hyperboles dans la littérature
française et vietnamienne sont exprimées en
syntagmes, surtout des syntagmes nominaux:
- les expressions hyperboliques identifiées
dans le cadre de notre corpus ont toutes la forme
de phrases déclaratives;
- les deux langues utilisent les structures de
comparaison pour exprimer tout en amplifiant la
réalité et multiplier la nature de l’objet mentionné.
Sur le plan sémantique,
- Les écrivains français et vietnamiens dont les
extraits de certaines œuvres ont été servis de notre
corpus ont tendance à employer des hyperboles
pour les mêmes thèmes: beauté, joie-bonheur,
amour, peur, laideur, tristesse-douleur, quantité;
- Dans la plupart des cas, nous nous rendons
compte d’une caractéristique sémantique
remarquable et récurrente, c’est l’émergence de
l’idée d’absurdité.
Sur le plan pragmatique, dans le cadre de notre
corpus, les hyperboles sont utilisées dans les deux
langues avec les mêmes fins.
2.4.2. Différences
Sur le plan syntaxique, en français, les
expressions hyperboliques constituées de syntagme
adjectival sont à haute fréquence alors que dans la
littérature vietnamienne, aucune hyperbole de ce
type de structure ne se trouve dans notre corpus.
En revanche, les structures de comparatif d’égalité
et les propositions subordonnées de conséquence
sont les plus utilisées par les écrivains vietnamiens,
ce que nous n’avons pas trouvé en français dans le
corpus du présent travail.
Sur le plan sémantique, il y a quelques points
différents entre les écrivains français et vietnamiens
quand on parle de la beauté ou de la laideur.
- Il paraît, chez les écrivains occidentaux,
que la conception de la beauté d’une jeune fille
est influencée par le christianisme, c’est-à-dire le
comparant est Dieu, tandis que l’image d’une fée
apparaît dans les expressions hyperboliques en
vietnamien;
- En ce qui concerne la laideur, les écrivains
vietnamiens, semblent préférer utiliser l’hyperbole
exprimant la laideur peut-être pour un effet
comique, un jugement de désapprobation. Par
conséquent, les expressions hyperboliques de la
laideur sont nombreuses tandis qu’elles le sont
moins dans notre corpus en français.
Sur le plan pragmatique, dans notre corpus en
français, on emploie un grand nombre d’hyperboles
pour exprimer un compliment et une attitude
ironique. Par contre, en vietnamien, les expressions
hyperboliques qui créent un effet comique et
une forte impression sont les plus utilisées.
3. CONCLUSION
Ce travail offre aux enseignants et aux
apprenants de français un aperçu général sur
l’hyperbole en français et en vietnamien. Ce sera
une bonne référence pour eux dans l’appréhension
de l’hyperbole de façon systématique. Il les aidera
à reconnaître l’hyperbole dans le langage courant,
afin de comprendre l’intention du locuteur, donc
d’améliorer leur compétence communicative.
Soulignant les ressemblances et les différences
de l’hyperbole dans les deux langues, l’étude sera
peut-être utile aux Vietnamiens francophones ainsi
qu’aux francophones apprenant le vietnamien dans
la compréhension et l’utilisation de l’hyperbole.
Durant le travail d’analyse de notre corpus
recueilli, nous avons constaté qu’il y a des pistes
de recherche, dans le même domaine, qui pourront
être ultérieurement entreprises en deux directions:
- Une étude sur l’accumulation, une figure qui
va créer l’amplification par une énumération de
mots, de groupes de mots ou de phrases;
- Une étude sur l’emploi des hyperboles dans
les textes publicitaires.
12 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
A STUDY OF LINGUISTIC FEATURES OF HYPERBOLE IN LITERARY WORKS
WRITTEN IN FRENCH AND VIETNAMESE
NGUYEN THI THU THUY
Abstract: Literature plays an important role in our daily life. Understanding and perceiving a literary
work thoroughly requires profound knowledge of expressive techniques as well as rhetorical devices
including hyperbole – a widely used device in literature. Hyperbole is employed to exaggerate the
qualities or characteristics of a character, an event, or an object to create emphasis or effect. This
article presents the result of a contrastive study of language characteristics of hyperbole in literary
works in French and Vietnamese. The result is intended to enable teachers and learners of French
language to easily comprehend the message conveyed by the authors with the use of hyperbole. This
is then hoped to facilitate their approach and acquisition of this kind of poetic language.
Keywords: rhetorical devices, hyperbole, linguistic features, contexts, subject
Received: 13/11/2017; Revised: 27/11/2017; Accepted for publication: 30/12/2017
Bibliographie:
1. Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (2003),
Ngữ pháp tiếng Việt, tập 1,2, NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Hữu Đạt (1999), Phong cách học tiếng Việt
hiện đại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Nguyễn Lân Trung (2006), Một số vấn đề về
Ngôn ngữ học đối chiếu Việt-Pháp, NXB Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
4. Pougeoise M. (2004), Dictionnaire de
rhétorique, Armand Colin, Paris.
Idem:
5. Nguyễn Minh Châu (1999), Tuyển tập truyện
ngắn, NXB Văn học, TP Hồ Chí Minh.
6. Bùi Hiển (1994), Nằm vạ, NXB Văn nghệ,
TP Hồ Chí Minh.
7. Nguyễn Công Hoan (2005), Tuyển chọn
những truyện ngắn hay - Truyện ngắn chọn lọc,
NXB Văn học, TP Hồ Chí Minh.
8. Nhiều tác giả (2005), Truyện ngắn tình yêu
năm 2000, NXB Văn học, TP Hồ Chí Minh.
9. Hugo V. (1967), Les Misérables I, Garnier
Flammarion, Paris.
10. Hugo V. (1967), Notre-Dame de Paris,
Flammarion, Paris.
11. Levy M. (2006), Mes amis Mes amours,
Robert Laffont, S.A Paris.
13KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v
PHÂN TÍCH ĐỐI CHIẾU “给我”
VÀ “CHO TÔI/CHO TAO”
TRONG CÂU CẦU KHIẾN TIẾNG HÁN
VÀ TIẾNG VIỆT
TÓM TẮT
“给我” trong câu cầu khiến tiếng Hán dùng để biểu đạt ý chí, mong muốn của người nói, dùng
để nhấn mạnh ngữ khí mệnh lệnh, ngữ nghĩa mang tính khá đặc biệt. “给我” trong câu cầu khiến
tiếng Hán dịch sang tiếng Việt là “cho tôi/cho tao”, nhưng đôi khi cách dùng và ngữ nghĩa của
“给我” và “cho tôi/cho tao” không giống nhau. Do vậy, bài báo lấy câu cầu khiến tiếng Hán có
dùng “给我” tiến hành phân tích đối chiếu với hình thức tương đương trong tiếng Việt để tìm ra
điểm giống và khác nhau giữa “给我” và “cho tôi/cho tao”.
Từ khóa: câu cầu khiến, “cho tôi/cho tao”, “给我”, tiếng Hán, tiếng Việt
一、引言
汉语祈使句中“给我”表示加强命令
语气、唤起听话人的注意、表示说话人的
意志。例如:“你给我出去!”“你给我
闭嘴!”“给我吐出来!”等等。我们对
《红楼梦》、《丰乳肥臀》、《雷雨》及
其越南语译版“Hồng Lâu Mộng”、“Báu
vật của đời”、“Lôi Vũ”等作品进行了考
察,并发现汉语祈使句中的“给我”译成
越南语时大多数都采用 “cho tôi/cho tao” 的
对应表达形式,但有时译文中并没有出现
这种对应表达形式,即零形式。例如:
(1)明天,都给我把这些东西脱下来!
(莫言《丰乳肥臀》)
越南语: Ngày mai phải cởi hết những thứ ấy ra!
例(1)中的“都给我把这些东西脱下
来”译成越南语时没出现对应形式“cho tôi/
cho tao” 。相反,有时越南祈使句中没出
现“cho tôi/cho tao” 形式但翻译成汉语祈使句
时都可以采用“给我”形式。例如:
(2) Đừng có giả vờ!/别给我装糊涂。(Tạp
chí Văn nghệ quân đội, 1993(03)) (句子里没有
“cho tôi/cho tao” 形式)
VŨ THỊ HUYỀN TRANG*
*Đại học Thái Nguyên, ✉wuxuanzhuang@qq.com
Ngày nhận bài: 27/10/2017; ngày sửa chữa: 01/12/2017; ngày duyệt đăng: 30/12/2017
14 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
还有一种情况,越南语祈使句中出
现“cho tôi/cho tao” 形式,但汉语祈使句没有
“给我” 形式。对译的例子如如下:
(3)紫鹃,把你们的好茶倒碗我吃。/
Mang thứ trà ngon của nhà chị ra đây pha cho tôi
uống.(曹雪芹《红楼梦》)
虽然越南语“cho tôi/cho tao”(给我)可
以用于祈使句中,但单它的用法与汉语“给
我”不是完全一致。本文尝试对两者的语法性
质和语用功能进行对比分析找出异同点,希望
对越南的汉语学习者及研究中越语言的学者有
所帮助。
二、汉语祈使句中“给我”的语法性质及
语用功能
汉语祈使句中“给我”的用法比较特殊,
吕叔湘在《现代汉语八百词》① 认为“给我”
加动词,用于命令句,有两种可能的意思,要
根据上下文区别:
a) 同‘为我’、‘替我’。
b) 加强命令语气,表示说话的人的意志
第一种意思叫做“给我 a”。例如:(4)
我的帽子不知哪儿去了,你给我找一找。(吕
叔湘《现代汉语八百词》。另一种意思是加命
令语气,表示说话的人的意志,叫做“给我
b”。例如:(5) 你给我走开!(吕叔湘《现代
汉语八百词》)。我们认为,当“给我”表示
第一种意思时,它是短语,表示第二种意思
时,它是一个词。本文内容主要讨论“给我”
的第二种意思,是 “给我b”。
关于“给我b”的语法性质,前人从不同
的角度对“给我”进行分析描写和解释,提出
不同的观点。韩其峰在《谈“给我”的助词
性质》中认为“给我”在祈使句中是用来加强
语气的附加成分,具有助词的性质。隋长虹②
的观点就是把祈使句中的“给我”看成介宾
短语。倪劲炜则认为祈使句中出现的“给我”
已经虚化为语气副词③。本文比较赞同倪劲炜
作者的观点。倪劲炜指出,从结构上看“给我
b”内部结构相当稳固,不能用其他词替换,
若把“给我”中的任何一个成分替换成别的
词,会引起语义的改变。例如:
(6)你给我下来。
(6a)*你给他下来。
(6b)*你替我下来。
在(6b)我们都可以看到“给”字被替换
后,句意变为:“你代替我下来”而不是“你
下来”的意思了,会改变了原来句子的意思。
(6a)*你给他下来,这个句子说不通,没有
这种用法。
从语义上看,“给我”的词义并不
是“给”和“我”两个词汇的意义相结合,
而是两者成分相互凝合了新的意义:加强命令
语气,表说话的人的意志,那时“给我”的作
用相当于一个语气副词。从语音上看,倪劲
炜认为“给我 b” 具有整体性,在语流中表
现为最小的节拍群, 其中的两个成分必须连在
一起读,不可分开读,而且必须轻读。从句法
上看,洪泼认为“给我”在句中出现的位置都
处于状语位置,在动词或动词短语前,表达说
话人的意愿或说话人的意志④ 。“给我”可以
加强语气、加强语势、唤起听话人的注意,
如:“你给我小心点儿!”;表达说话人强烈
意志并将自己的意志强加于人,如“你给我
走开!”;表达说话人的劝解、责备、嗔怒,
如“你少给我罗嗦,弄点水我洗手!”。
三、越南语祈使句中 “cho tôi/cho tao” 的
语法性质及语用功能
越南语句中表示祈使义的“cho tôi/cho tao”
(给我)的相关研究和文献介绍并不多。笔
者先根据《越南语词典》研究“cho tôi/cho
tao”的词义情况,同时对“cho tôi/cho tao”
的语法性质及语用功能进行分析与解释。对
15KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v
于“cho”这个词,越南语法家有不同的观
点。Lê Biên 在《现代越南语词类》一 文中
认为“cho”是副词。Diệp Quang Ban 在《越
南语语法》又认为“cho”是介词,它源于动
词,兼介词。按照越南语的语法系统“cho”
是结词⑤, 还可以叫做结构词,相当于汉语介
词“给”, 所谓的结词就是虚词的一类,能够
和名词、动词、形容词结合组成结词短语,在
句中充当一个句法部分。按照《越南语词典》
越南语的介词“cho”一共有5个义项: 1. 引进
动作涉及的对象; 2. 引进接受性质状态的对象;
3. 引进动作的要求、目的; 4. 引进动作的结果;
5. 引进动作涉及的结果。但是 Nguyễn Kim
Thản (1981) 在《越南语语法基础》一书中认
为介词“cho” 在表示引进涉及的对象时还可
以分出4个义项: 1. 表示引进服务对象; 2. 表示
引进给予对象; 3. 表示交付、传递的对象; 4. 表
示引进动作的受益者。其中根据“越南语词
典”“cho”用于祈使义会有以下的意义:
(a) 把自己领有东西传递给别人而不是交换
(送给而不是卖)
(b)把客体转到具体地方或位置(例
如:cho than vào lò./把煤放在火炉里)
(c) 用在交际,表示礼貌地要求(转送、
卖,例如:Chị cho tôi một chục phong bì./给我
十个信封。)
越南语“tôi/tao”⑥ 就是称自己,是汉
语“我”的意思。在研究过程中我们发现越南
语祈使句中的“cho tôi/cho tao”形式若用来表
示加强命令语气,表示说话人的意志,一定要
位于动词或动词性短语之后。例如:
(7)你给我走开。(吕叔湘《现代汉语
八百词》)
你 给 我 走 开。
Mày (Anh) cho tao (tôi) đi chỗ khác.
越南语:Mày đi ra chỗ khác cho tao. /Anh đi
ra chỗ khác cho tôi.
(8)快给我滚出去。/Mau cút đi cho tôi
(tao).
在例( 7)、( 8)中,越南语祈使形
式“cho tôi/cho tao”跟汉语祈使句中的“给
我”一样,都表示说话人的意志,要求听
话人“走开”、“滚出去”。我们将此表达
形式记作:“VP + cho tôi/cho tao” 形式。那
时“cho tôi/cho tao” 已虚化为表达语气的副
词短语。但越南祈使句“cho tôi/cho tao”形式
除了表示加强命令语气,表示说话人的意志以
外,它还表示另外几个意义。例如:
(9)Cho tôi một chục phong bì./给我十个
信封。(Hoa học trò, 1996, tr.15)
越南语意义:我要买十个信封。
在例( 9)中,越南语意义是说话人
要听话人卖给他10个信封,他想买10个封
信,“cho tôi”在这个句子就是:我想买、买
的意义。可以看到,例(9)是带祈使义的一
个句子,句子里也出现越南语祈使形式“cho
tôi”但完全没有汉语祈使句中“给我 b”的意
思。
(10)Cho tôi tiễn anh./让我送你。(Nhiều
tác giả, 2009, Truyện ngắn hay, tr.35)
在例(10)中,“cho tôi”等于“让我”
的意思而不是“给我”。
(11) Cho tôi quyển sách này nhé./送我这本
书吧! (Hoa học trò, 1996, tr.15)
在例(11)中,“cho tôi” 就是“送我”
的意思。
越南语“cho tôi/cho tao”形式用于祈使句
都可以表达祈使义,但根据使用情况“cho tôi/
cho tao”的意义不一样。具体如下:
16 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
表1:越南语祈使句中“cho tôi/cho tao” 形式
越南语祈使句中 “cho tôi/cho tao”形式 汉语对应形式
1. Mua (Cho tôi chục cái phong bì) 1. 买(给我十个信封)
2. Cho tôi (Cho tôi tiễn anh) 2. 让(让我送你)
3. Tặng (Cho tôi quyển sách này nhé!) 3. 送(送我这本书吧!)
4. Cho tôi, cho tao (Mày đi ra ngoài cho tao!) 4. 给我(你给我出去!)
在本论文中,我们主要研究 “cho tôi/cho tao” 用来表示加强命令语气,表示说话人的意
志的形式。所以把它记为:“cho tôi/cho tao”(VP+ cho tôi/cho tao)。
从结构上看,“cho tôi/cho tao”(给我)是“cho”(给)加上 “tôi/tao”(我)构成的短
语,越南语“cho tôi/cho tao” 跟汉语 “给我 b” 一样,内部结构很稳固,不能用其他词替
换,若把“cho tôi/cho tao”中的任何一个成分替换成别的词,会引起语义的改变。例如:
(12)Anh đi ra ngoài cho tôi!/你给我出去! (Nhiều tác giả, 1975, Tuyển tập truyện ngắn, tr.58)
(12a)*Anh đi ra ngoài cho anh ấy./你给他出去。
(12b) *Anh đi ra ngoài hộ tôi./你替我出去。
在(12b)我们可以看到“给”字被替换后,句意变为:“你代替我出去”而不是“你出
去”的意思了,会改变了原来句子的意思。(12a)*你给他出去。这个句子说不通,没有这种
用法。
从语义上看,越南语祈使句中 “cho tôi/cho tao” 的词义并不是 “cho” 和 “tôi/tao” 两个词
汇的意义相结合,而是两者成分相互凝合了新的意义:加强命令语气,表说话的人的意志。那
时 “cho tôi/cho tao” 的作用相当于一个语气副词,常用在句尾(Cút đi cho tao! 给我滚!。 Câm
mồm cho tao! 给我闭嘴!)。从语音上看,“cho tôi/cho tao” 不可分开读。从句法上看,“
cho tôi/cho tao” 在句中出现的位置都常于副词位置,在动词或动词短语之后。这个强调式表示
贬义的感情色彩,语气强烈,不客气。 例如:
(13)Chúng mày cút hết đi cho tao! - Bà Lỗ giận điên lên, nói: - Cút hết đi, chết hết đi! Đừng để
tao thấy mặt chúng mày nữa!
汉语:“你们都给我滚!”上官鲁氏怒冲冲地说,“都滚,都去死吧,别让我再看到你们”。
(莫言《丰乳肥臀》)
“cho tôi/cho tao”可以加强语气、加强语势、唤起听话人的注意(例如:Cẩn thận một
chút cho tôi/给我小心点儿!); 表达说话人强烈意志并将自己的意志强加于人 (例如:Cút đi
cho tôi/给我滚!); 表达说话人的劝解、责备、嗔怒( 例如:Ít chuyện cho tôi /少给我啰嗦!) 。
越南语祈使句中“cho tôi/cho tao” 比较特殊,是一种语言现象。
17KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v
四、汉语祈使句“给我 b”和越南语祈使句“cho tôi/cho tao” 形式的比较
从结构看,汉语祈使句“给我 b”是由介词“给”加上人称代词“我”构成语气副词,“给
我”这两个词的词义已经发生了虚化,同时语法功能也发生了变化;“给我”要连一起读,不
能分开读。越南语祈使句的 “cho tôi/cho tao” 形式跟汉语“给我 b”一样,内部结构很稳固,
不能用其他词替换,若把 “cho tôi/cho tao” 中的任何一个成分替换成别的词,会引起语义的改
变。“cho tôi/cho tao”也不能分开读,而要连一起读。
从句法上看,“给我 b”和 “...cho tôi/cho tao”在句中出现的位置不一样。汉语“给我”一
般位于动词或动词性短语之前,如:“你给我住口!”但越南语的“...cho tôi/cho tao” 一般位
于动词或动词性短语之后,如:Anh im miệng đi cho tôi./你给我闭嘴。上面是正常的汉语和越南
语强调式祈使句,在某种特别的情况下,汉语强调式祈使句“给我 b”可以位于动词或动词性
短语之后,两者之间用逗号隔开,但越南语强调式祈使句还保留它原来的形式,没什么改变。
例如:
(14)滚出去,给我!⑦
(15)Anh cút đi cho tôi! *Cho tôi anh cút đi!
越南语的 “cho tôi/cho tao” 如果位于动词或动词短语之前,那时会带有另外一个意义。
从语用上看,“给我”在进入祈使句后,语气强烈,带有使令色彩和说话人的主观色彩,用
于强调说话人的强制命令语,如:
(16)不用多说了,快给我都出去。这里林姑娘身上不大好,还不快去么。
(曹雪芹《红楼梦》)
但越南语的“...cho tôi/cho tao” 还可以用来表示请求意义。例如:
(17) Hãy tha cho tôi!/放了我吧!(Mạc Ngôn, 2007, Báu vật của đời, tr.194 )
(18) Hãy giúp đỡ cho tôi!/请帮我的忙!(Nhiều tác giả, 1975, Tuyển tập truyện ngắn, tr.38)
为了容易发现两者之间的异同点,我们就把汉语祈使句“给我”和越南语祈使句“...cho tôi/
cho tao”的异同点做成下面的表:
表2:汉语祈使句中“给我 b”和越南语祈使句中 “cho tôi/cho tao”比较
功能 汉语祈使句的“给我” 越南语祈使句的 “...cho tôi/cho tao”
结构 副词 副词
句法 “给我”+VP VP + “...cho tôi/cho tao”
语义
“给我” 词义本身就带有命令
意味。
“...cho tôi/cho tao”带有命令意味,有时可以
表示请求意义。
语用 命令句 请求、命令句
18 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
在研究过程中,通过考察一些作品我们还
发现汉语祈使句的“给我”翻译成越南语时除
了采用“cho tôi/cho tao”的表达形式还有零形
式。通过考察,我们找到汉语祈使句中138个
例子使用“给我”形式,它相对应的表达形式
主要是“cho tôi/cho tao”形式,另外还有零形
式。具体结果如下:
表3:汉语祈使句中“给我 b”形式与越
南语相对应的表达形式比例
汉语表达
形式
越南语相对应
的表达形式
比例
给我 Cho tôi/cho tao 112 (81,2%)
给我 零形式 26 (18,8%)
汉语祈使句中“给我”翻译成越南语时常
采用“Cho tôi/cho tao”表达形式占81,2%,采
用零形式很少只占18,8%。
五、结语
汉语祈使句“给我 b”是一个比较特殊
的现象,是一个独特而有意思的形式。“给
我 b”在汉语祈使句中相当于一个语气副词,
整个“给我 b + VP”构式用于表达说话人强
烈感情色彩的命令句,有越南语相应的表达
形式是:“cho tôi/cho tao”。本文对比了
汉语祈使句“给我b”形式与越南语相对应表
达形式“cho tôi/cho tao”,认为汉语祈使
句“给我 b”和越南语祈使句“cho tôi/cho
tao”形式相同之处不多,除了结构形式都是
副词以外,两者的句法、语义、语用都有不同
点。汉语祈使句“给我 b”和越南语“cho
tôi/cho tao”的出现位置不一样,“cho tôi/
cho tao”有时可以用于请求句,表示请求意
义,“给我 b”没找到这种形式。以上所说的
是我们通过分析对比找出两者的异同点,希望
对汉语学习学有所帮助。
注释:
① 吕叔湘(1999),现代汉语八百词,
商务印书馆,北京,第226页。
② 隋长虹(2003),“给我” 动词短语句的
多角度考察,临沂师范学院学报,(4):71 -73。
③ 倪劲炜(2009),祈使句中的语气副
词“给我”,皖西学院学报,(6)。
④ 洪泼(2004),“给”字的语法化,
南开语言学刊,(2)。
⑤ Trung tâm Khoa học và Xã hội Nhân
văn Quốc gia (2002), Ngữ pháp tiếng Việt, NXB
Khoa học xã hội, tr.163 ( 国家科学与人文社会
中心(2002),越南语法,科学社会出版社,
第163页).
⑥ “cho tôi”的“tôi”相当“我”中性人
称代词, “cho tao”的“tao”相当“我”表
示前辈跟晚辈、上级跟下级等的称呼。
⑦ 转引自齐沪杨(2010),现代汉语,
商务印书馆,第429页。
参考文献:
1. Bùi Đức Tịnh (2004), Từ điển tiếng Việt,
NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
2. Diệp Quang Ban (2009), Ngữ pháp Việt
Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr.37.
3. Hoàng Phê (2009), Từ điển tiếng Việt, NXB
Đà Nẵng.
4. Lê Biên (1999), Từ loại tiếng Việt hiện đại,
NXB Giáo dục, Hà Nội, tr.145.
5. Nguyễn Kim Thản (1981), Cơ sở ngữ pháp
tiếng Việt, NXB TP Hồ Chí Minh.
6. 韩其峰(1992),谈“给我”的助词
性质,淮阴师范学院学报(哲学社会科学
版),(1):27-27。
19KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v
A CONTRASTIVE ANALYSIS OF “给我” AND “CHO TÔI/CHO TAO” IN CHINESE
AND VIETNAMESE IMPERATIVES RESPECTIVELY
VU THI HUYEN TRANG
Abstract: The word “给我” in Chinese imperative sentences is used to express the will of
the speaker, and its meaning is special. The Chinese “给我” is translated as “cho tôi/cho tao”
in Vietnam, but “给我” and “cho tôi/cho tao” sometimes carry different meanings. Based on
this, this paper attempts to analyze and contrast the Chinese imperative sentences with “给
我” and the corresponding Vietnamese expression to find out the similarities and differences
between the two.
Keywords: Chinese, Vietnamese, imperative sentence, “给我”, “cho tôi/cho tao”
Received: 30/10/2017; Revised: 06/11/2017; Accepted for publication: 30/12/2017
7. 洪泼(2004),“给”字的语法化,南
开语言学刊,(2)。
8. 吕叔湘(1999),现代汉语八百词,商
务印书馆,北京。
9. 倪劲炜(2009),祈使句中的语气副
词“给我”,皖西学院学报,(6)。
10. 隋长虹(2003),“给我”动词短语
句的多角度考察,临沂师范学院学报,(4):
71-73。
20 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
HIỆU QUẢ CỦA ÁP DỤNG TRÒ CHƠI
NGÔN NGỮ NHẰM THÚC ĐẨY VIỆC LÀM CHỦ
THUẬT NGỮ QUÂN SỰ TIẾNG ANH
TÓM TẮT
Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu tác dụng của trò chơi ngôn ngữ trong việc tăng hứng thú học từ
vựng của người học và thông qua các trò chơi này, người học có thể học và sử dụng tốt các thuật
ngữ quân sự tiếng Anh được giảng dạy hay không. Để tiến hành nghiên cứu, 30 học viên tiếng
Anh hệ quân sự tại Học viện Khoa học Quân sự được lựa chọn ngẫu nhiên tham gia thực nghiệm
trong 9 tuần. Các học viên được chia thành hai nhóm, mỗi nhóm 15 học viên. Ở nhóm 1, nhóm trò
chơi ngôn ngữ, việc học và luyện tập các thuật ngữ quân sự được thực hiện thông qua các trò chơi
ngôn ngữ. Trong khi đó, nhóm 2, nhóm không áp dụng trò chơi ngôn ngữ, giáo viên giới thiệu
và dạy thuật ngữ quân sự tiếng Anh theo phương pháp truyền thống như giới thiệu từ và nghĩa
tương đương trong tiếng Việt, giảng viên đọc từ và học viên nhắc lại nhiều lần. Để thu thập số
liệu phục vụ nghiên cứu, người học tham dự 2 bài kiểm tra từ vựng: một bài được tiến hành ngay
trước khi bắt đầu thực nghiệm và một bài được thực hiện ngay sau khi quá trình thực nghiệm kết
thúc. Ngoài ra, bảng tự đánh giá dưới dạng câu hỏi khảo sát được người học hoàn thành sau khi
kết thúc khóa thực nghiệm này.
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, học viên lớp học áp dụng trò chơi ngôn ngữ có thái độ tích cực
hơn trong học từ vựng quân sự tiếng Anh và vì vậy, quá trình học tập từ vựng quân sự tiếng Anh
hiệu quả hơn. Nghiên cứu tái khẳng định, các trò chơi ngôn ngữ không chỉ giúp tạo không khí sôi
nổi trong giờ học mà còn giúp người học dễ nhớ và tiếp thu kiến thức từ vựng một cách sâu sắc.
Từ khóa: từ vựng, trò chơi ngôn ngữ, tiếng Anh chuyên ngành (ESP), tiếng Anh quân sự
NGUYỄN THU HẠNH*; DƯƠNG THỊ HỒNG HẠNH**
*Học viện Khoa học Quân sự, ✉ nguyenthuhanh09@gmail.com
*Trường sỹ quan Kỹ thuật Quân sự, ✉ hoangloc68@gmail.com
Ngày nhận bài: 20/11/2017; ngày sửa chữa: 25/12/2017; ngày duyệt đăng: 30/12/2017
1. INTRODUCTION
Vocabulary knowledge is an important
consideration especially for those who need to learn
it for specific purposes such as military students
at defense language centers or universities. Li
(2005, p.168) mentions that “a good command
of vocabulary is indispensable in every stage
of English language” and language ability of
learners will be improved overall by vocabulary
improvement. In fact, in addition to affecting
reading performance, vocabulary can make
learners efficiently communicate and participate
fully in both social and academic classroom
routines as well as extend their understanding of
the world around them.
21KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
In communicative approach of English
teaching, playing language games which are used
as an instructional tool to enhance vocabulary
knowledge is one alternative available for the
course involving students in an active interaction
with their fellow classmates. Thornbury (2002)
states that language games bring in relaxation and
fun for students so they will learn and retain new
words easily. Moreover, “people [students] usually
enjoy a task if they play an essential part
in it” (Dornyei, 2001, p. 77). Sharing the same
point, Uberman (1998, p.20) declares that through
language games, students experiment, discover,
and interact with their environment because
games can be considered as an unconscious way
of learning. Therefore, language games give
students the opportunity to practice and promote
vocabulary mastery.
In various versions and views of ESP1 course
plans, vocabulary teaching programs are needed
to expand students’ potential in extracting meaning
and to develop the knowledge of the jargon of
the genre. Since ESP in military courses largely
consists of military terminology and abbreviations,
incorporating these terms is an essential part of ESP
course plans for military students at tertiary level.
Unfortunately, memorizing ESP vocabulary,
particularly military vocabulary, is one of the
most common problems in learning a language
(Scrivener, 2009; Akbari & Tahririan, 2009).
Traditional activities for teaching and learning
vocabulary get students involved in a boring
process of memorization of long vocabulary
lists, derivations, repetition of words, translation,
fill-in-the-blank exercises. Scrivener (2009, p.
241) states that the long list of words and their
translation seems to defy memory and even when
we can recall the word we want, it does not seem
to fit comfortably into our sentences.
Among several important elements which
make military English distinct from general
English, military terminology is a major one. In
addition to general and semi-technical vocabulary
items, military genre contains the specific jargon
to be learnt if the aim is to introduce the concepts
to the students who attend the courses to become
insiders to the genre. One of the effective avenues
that have been found to greatly impact vocabulary
mastery is the students’ interest in learning
vocabulary, particularly specific terms.
Therefore, the present research investigates the
effect of applying language games to get students
of a military English course effectively involved
in the process of learning military terms. The
research aims to find out whether language games
can improve the students’ interest in study military
terms, thus, promote the military vocabulary
mastery.
2. LITERATURE REVIEW
A number of studies related to the effectiveness
of learning vocabulary through language games
have been conducted (Alemi, 2010; Kumar and
Lightner, 2007; Moon, 2000; Uberman, 1998).
Most of the studies appreciate the benefits of
using games in promoting vocabulary mastery.
For example, during her class observation on the
students’ interest in learning new words through
games, Uberman (1998) asserts that games are a
way to help students not only enjoy and amuse
with the language they learn, but also practice it
incidentally. Sharing the same point, Sripramong
(2004) confirms in his research that the students’
retention in learning English vocabulary with
language games is in high level because they are
motivated by playing a game to complete the task,
and with the excitement attained, learning new
words occurs easily and effectively. Adding to
the point, Watts-Taffe and Truscott (2000) claim
that providing rich explanation to elaborate and
contextualize word meanings, using nonverbal cues
such as facial expressions, gestures, illustrations,
and other visuals can support word learning.
Other researchers (Alemi, 2010; Kumar and
Lightner, 2007; Nova Pravita Rus, 2010) also find
out the positive results on implementing language
games in classroom to enhance students’ learning
vocabulary. They all agree that games stimulate
22 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
interactivity and critical thinking which allow
the students to actively process and work with
the taught vocabulary. Furthermore, the students’
hands-on experience and sense of this vocabulary
are integral to critical learning, longer vocabulary
retention and recall.
Research findings so far have demonstrated
that learning language through games is helpful,
meaningful, and effective, which creates the
motivation, relaxation and fun to learners in class.
However, most of these studies were carried out
on teaching and learning general or academic
vocabulary not on ESP vocabulary such as
military one. Therefore, it would be worthwhile
investigating the effectiveness of applying
language games to get students of a military
English course involved and motivated in the
process of learning military terms.
3. METHODOLOGY
This study was conducted to answer the
research question of whether the game-based
method proves to be more effective than the
traditional method in military vocabulary learning
of the English-majored students at Military
Science Academy.
A sample of 30 students was randomly chosen
from 60 senior military students majoring in
English at Military Science Academy. As the senior
military students, they can be expected to have a
certain threshold proficiency in English and they
have learned military English for one semester.
Through the Nelson Test (Fowler & Coe, 1976),
these participants were divided into two groups
of 15 students each: one for teaching vocabulary
with games (game group) and one for teaching
vocabulary without games (non-game group).
The instruments which were utilized to obtain
the data in this research included a pre-test, a
post-test, and a self-reflection form. The pre-test
and post-test were carried out to examine the
effect of using games on the students’ military
vocabulary learning. As a self-reflection form,
a language-learning-attitude questionnaire was
applied to both groups to evaluate the students’
attitudes toward learning military vocabulary. For
the game group, the questionnaire consisted of five
questions which probe the students’ impressions at
learning military vocabulary such as suitability of
the games, benefits of learning vocabulary with
games. For the non-game group, the five-question
questionnaire focused on any problems they
encountered when learning military terms through
drilling and if they could have good retention of
the taught military terms.
For the data collection, both the game and
none-game groups enrolled in an military English
course specific for military students for nine weeks
of experiment (two periods a week), totaling 18
periods. Both groups were instructed by the same
teacher, who was a full time EFL teacher with
experiences in teaching military English and other
various EFL fields. During the whole course, 135
military-related words, 15 words each week, were
chosen to be presented and learnt in class through
methods of activities which were different for each
of the two groups.
The textbook utilized for both groups was
Campaign: English for the Military 2 by Yvonne
Baker De Altamirano and Simon Mellor-Clark.
The vocabulary items for the experiment were
chosen from the book.
Class orientation was given before the
experiment began. The pre-test was conducted on
the first day of the experiment class and the post-
test was done after the experiment finished. Self-
reflection form was provided one day after the
post-test. Then, the data of pre-test and post-test
were coded and statistically analyzed for mean of
scores and standard derivation of the examination
scores. The T-test will be used for comparing
vocabulary learning skills from the result of the
pre-test and post-test.
As for the non-game group the vocabulary
instruction focused on drilling: the teacher was
the sole speaker most of the time, introducing
the new items, providing their pronunciation
23KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
and definitions while the students’ tasks were to
listen, copy the new words and take notes. The
rest of the class time was devoted to the learners’
memorizing the taught military terms in a specific
time limit. Then, the students were offered some
exercises which focused basically on completing
sentences, matching and translating exercises with
the freshly-taught items.
The experiment for the game group involved
teaching the military terms through the use of
various games, namely Pyramid Games, Sparkle,
Crossword Puzzle; Matching Games, etc. In each
period, the military terms were introduced in
contexts so that the students would try to make
contextual guesses and remember them. The rest
of the class time was devoted to manipulating
games to practice and review these terms. Here are
some samples of language games used during the
research.
Pyramid Game
The class is divided into pairs, facing each
other. One student is given the prompts and
describes them to his partner. For each correct
answer the team is given the amount of money
indicated in the pyramid. If the native language
or the name of the item is used to describe it, no
money is awarded and the winning team is the
team that has earned the most money. Time should
be monitored.
Suggested descriptive clues about each of the
words in the pyramid above.
1. MALINGERING: Pretending to be sick in
order to avoid duties.
2. HAZING: Physical abuse of new members
in a unit or newly-qualified personnel.
3. BULLYING: Hurting someone who is
smaller or weaker.
4. INSUBORDINATION: Disobeying an order
or failure to show respect for a superior officer or NCO.
5. DESERTATION: Leaving your unit without
permission and with no intention of returning.
6. COURT MARTIAL: Trial of someone
serving in the armed forces under military law.
Sparkle
All the students line up or stand in a circle in
the front of the room. The teacher says a word in
the target language (Vietnamese). The students are
asked to spell the word’s English equivalent. One
student says one letter until the word is complete.
The next student should say “sparkle” to indicate
that the word is complete. A new word is given and
the spelling starts with the next student.
Crossword Puzzle
To start, as a player the student reads a
numbered clue and completes the boxes with the
same number. The player reads the rest of the clues
and continues to play in the same way until he fills
in all the correct answers, one letter per square,
both across and down, from the given clues.
24 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
ACROSS
2. It accomplishes its missions primarily by sea, but also by air and land. It secures
and protects the oceans around the world to create peace and stability, making the
seas safe for travel and trade. (NAVY)
4. The nation’s source of air and space power. Its primary mission is to fly planes,
helicopters, and satellites. (AIR FORCE)
5. Its mission is primarily with domestic waterways. It does rescues, law enforcement,
drug prevention, and clears waterways. (COAST GUARD)
DOWN
1. It is known as a rapid-reaction force. They are trained to fight by sea and land,
and usually are the first “boots on the ground.” (MARINE CORPS)
3. The dominant land power. It generally moves into an area, secures it, and instills
order and values before it leaves. (ARMY)
Labeling game
Students label the names for gun components with the picture by placing the number in the space
preceding the names provided.
4. FINDINGS AND DISCUSSIONS
After having implemented games to practice military vocabulary, it shows that the students’ knowledge
of military terms and their ability to memorize the new words have been improved considerably.
As Table 1 reveals the pre-test mean scores of the two groups are not much different from each other
25KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
before the experiment. The pre-test mean score of the game group was 12.60; and in the non-game group,
the pre-test mean score was 12.05. However, the post-test mean score indicated a greater difference after
the experiment. The greater post-test mean score belonged to the game group counting for 14.65 while it
was 12.32 for the non-game group, which means there was a significant increase in vocabulary score from
pre-test to post-test, thus the implementation of games was effective in military vocabulary learning. This
outcome proves that using games to learn vocabulary enhances students’ ability to memorize and retain
words better.
Table 1: Representation of pre-test and post-test mean scores
Variable
Pre-test Post-test
Mean Std. Deviation Mean Std. Deviation
Game 12.60 1.72 14.65 1.79
Non-game 12.05 2.16 12.32 2.17
As Table 2 demonstrates, the mean of the score between pre-test and post-test is -1.232, the standard
deviation is 4.60, the t score is -12.703, and the difference is 32, therefore, the findings support the fact
that teaching military vocabulary through games affects the interest and motivation of the students in a
positive way.
Table 2: Comparison of pre-test and post-test scores for effects of using games in learning military
terms
Mean Std. Deviation t Difference
The score between pre-test
and post-test
-1.232 4.60 -12.703 32
From the self-reflection form, all the students from the game group believed that games were effective
tools for military vocabulary learning because they offered the students a constructive classroom
environment where they themself and their learning were central. Their answers to the questionnaire also
confirmed the usefulness of the games in enhancing the retention of military terms. In fact, these students
claimed that they learned the new military items more effectively through friendly competition, active
discovery, analysis, problem-solving, and memory when participating in class games. However, they
asserted that these new terms needed more practice to be better remembered.
For the students from the non-game group, the main obstacle when learning military terms was
to memorize these terms. The students complained that they did not have chance to use the terms in
contexts but only copied the terms and their definitions. Consequently, they became demotivated and less
concentrated on the lesson. They then concluded that they did not learn new words effectively because for
them the action of noting down a list of lexical items made no guarantee that remembering would take place.
5. CONCLUSION
The current study has investigated the usefulness of games in enhancing the mastery of military
vocabulary to the students at Military Science Academy. An experiment was conducted on 30 military
26 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
third-year students of English. A T-test was carried
out to find out the difference between the pre-test
and post-test mean scores of the two experiment
groups: a game group and a non-game group. The
students’ self-reflection form was also used to
support the results of the study.
The research results exhibit that pre-test mean
scores of the two groups were not much different
from each other before the experiment but the post-
test mean score indicated a greater change after
the experiment. This reveals that the students were
aware of the helpful role of games in facilitating
and creating good atmosphere for learning.
Moreover, whatever the difficulties they might
face in the class games, they benefited from them.
Being motivated to play class games can result in
the students’ mastering military vocabulary more
easily. In fact, the students were more willing to
participate actively in class games and the friendly
competition with their classmates helped them to
work and communicate effectively.
After using language games to teach military
terms, it can be stated that teachers can vary their
methods of teaching. Together with drilling, they
should try using language games to increase
students’ involvement and motivation in learning
vocabulary of military English.
In conclusion, the results of the present study
confirm the fact that language games promote
the students’ motivation and interest in learning
military terminology. The analysis of the data also
shows the effectiveness of using games in the class
to improve learners’ military vocabulary learning
and retention./.
Note:
1. English for Specific Purposes
References:
1. Akbari, Z. and Tahririan, M. H. (2009).
“Vocabulary learning strategies in an ESP context:
the case of para/medial English in Iran”. Asian
EFL Journal, 11 (1).
2. Alemi, M. (2010). “Educational games as a
vehicle to teaching vocabulary”. MJAL, 425-438.
3. Baker De Altamirano, Y. and Mellor-Clark,
S. (2005). Campaign: English for the Military 2.
London: Macmillan Education.
4. Beak, Y. (2010). Gaming for classroom-
based learning: Digital role playing as a motivator
of study. United States of America: IGI Global.
5. Dornyei, Z. (2001). Motivational strategies
in language classroom. Cambridge: Cambridge
University Press.
6. Fowler, W. S. & Coe, N. (1976) Nelson
English language tests. Sunbury-on-Thames,
England: Thomas Nelson and Sons Limited.
7. Kumar, R. & Lightner, R. (2007). “Games
as an interactive classroom technique: Perceptions
of corporate trainers, college instructors and
students”. International Journal of Teaching and
Learning in Higher Education, 19(1), 53-63.
8. Li, M. (2005). “Culture and classroom
communication: A case study of Asian students
in New Zealand language schools”. [Electronic
version]. Asian EFL Journal, 6 (1).
9. Moon, J. (2000). Children learning English.
London: Macmillan.
10. Nova Pravita Rus, D. (2010). “The
Advantages and disadvantages of using
games in teaching vocabulary to the third
graders of top school elementary school”.
(Unpublished final project report). Retrieved
on May 22, 2016 from <
ac . id /336 /1 /166750209201011411 .pdf .>
11. Scrivener, J. (1994). Learning teaching:
A guide book for English language teachers. UK:
Macmillan.
12. Thornbury, S. (2002). How to teach
vocabulary. England: Longman.
13. Sripramong, S. (2004). “The Study of
the effect vocabulary games on the retention in
27KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
learning vocabulary of Prathomsuksa five learners
of Assumption College Rayong”. Bangkok
Srinakarinwiroj University – unpublished talk.
14. Uberman, A. (1998, January-march). “The
use of games for vocabulary Presentation and
Revision”, 36 (1), 20. Retrieved on May 26, 2016,
from < collectionpdf/
mccaw.pdf>
15. Watts-Taffe, S., & Truscott, D. M. (2000).
“Using what we know about language and literacy
development for ESL students in the mainstream
classroom language”. Language Arts, 77, 258-265.
THE EFFECTIVENESS OF USING LANGUAGE GAMES IN PROMOTING
THE MASTERY OF MILITARY ENGLISH
NGUYEN THU HANH, DUONG THI HONG HANH
Abstract: The research aims to find out whether games can improve the students’ interest in
studying military vocabulary, and to find out whether games can improve their military vocabulary
mastery. To do so, 30 military learners majoring in English in Military Science Academy were
randomly selected and assigned into two groups through Nelson Test (1976) during a nine week
treatment. In the first group, the researcher applied a game oriented teaching method while in the
second group traditional teaching methods were applied. To collect the data, two vocabulary tests
were administered and a quantitative analysis was conducted on the pretest-posttest vocabulary test
scores. A questionnaire was also given to the learners which assessed their attitudes toward learning
vocabulary. Based on the findings of the research, it revealed that students of the game oriented class
had a fairly effective tendency and positive performance toward vocabulary learning process, greater
than what was observed in the group with traditional teaching methods. Examples and conclusions
were constructed on teaching military terminology to military students at tertiary level.
Keywords: vocabulary language games, English for Specific Purposes (ESP), military English
Received: 20/11/2017; Revised: 25/12/2017; Accepted for publication:30/12/2017
28 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
1. MỞ ĐẦU
Trong xu hướng chung về đào tạo tiếng Anh
như một ngoại ngữ (Teaching English as a Foreign
Language - TEFL), trong đó “rèn luyện kỹ năng
đọc hiểu trong giáo trình tiếng Anh chuyên ngành”
như là một bộ phận không thể tách rời và có vai
trò rất quan trọng trong mục tiêu đào tạo của môn
học. Tiếng Anh chuyên ngành có vị trí quan trọng
đối với học viên của các trường thuộc lực lượng
vũ trang. Chính vì thế, trong chương trình đào tạo
của các học viện, trường trong lực lượng vũ trang
NGUYỄN NGỌC ÂN*; ĐÀO THỊ LÊ MAI**; THIỀU NGỌC HƯNG***
*Trường Đại học Cảnh sát Nhân dân TPHCM, ✉ ngocandhcsnd@gmail.com
** Trường Đại học Cảnh sát Nhân dân TPHCM, ✉ daothilemai2012@gmail.com
*** Trường Đại học Cảnh sát Nhân dân TPHCM, ✉ ngochungthieu@yahoo.com
Ngày nhận bài: 01/11/2017; ngày sửa chữa: 02/01/2018; ngày duyệt đăng: 05/01/2018
NÂNG CAO NĂNG LỰC ĐỌC HIỂU
TÀI LIỆU TIẾNG ANH CHUYÊN NGÀNH
TRONG CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG
THUỘC LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
TÓM TẮT
Quá trình học tiếng Anh chuyên ngành (TACN) những năm gần đây đã được cải thiện đáng kể
nhưng vẫn còn một số hạn chế. Khả năng đọc hiểu tài liệu nghiệp vụ bằng tiếng Anh của đa số
học viên đang học tập tại trường cũng như cán bộ chiến sỹ đã tốt nghiệp các học viện, các trường
thuộc lực lượng vũ trang vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng của lực lượng. Học viên chưa
phát huy năng lực đọc hiểu tài liệu TACN. Bài báo này tập trung vào những vấn đề liên quan đến
năng lực đọc hiểu TACN, thông qua những thuận lợi, khó khăn, những hạn chế, tồn tại và nguyên
nhân của vấn đề, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực đọc hiểu tài
liệu TACN cho học viên trong các học viện và trường thuộc lực lượng vũ trang, đáp ứng nhu cầu
của xã hội và của lực lượng Quân đội, Cảnh sát.
Từ khóa: lực lượng vũ trang, năng lực đọc hiểu, tiếng Anh chuyên ngành
thì môn TACN luôn được chú trọng để đạt được
những mục tiêu đào tạo một cách quy mô và đạt
chuẩn về chất lượng, tạo ra những sản phẩm đào
tạo có chất lượng thật sự nhằm đáp ứng nhu cầu
của công tác bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật
tự an toàn xã hội của lực lượng vũ trang.
2. NĂNG LỰC ĐỌC HIỂU TIẾNG ANH
CHUYÊN NGÀNH
Theo Eskey, năng lực đọc hiểu tài liệu TACN
dựa theo ba mô hình đọc cơ bản bao gồm: (1) Mô
29KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
hình top-down - “đọc để hiểu nghĩa thông qua việc
liên hệ thông tin mới với những gì chúng ta đã
biết” và người đọc giỏi là người biết sử dụng kiến
thức của mình để “đoán được những gì sắp xảy ra
trong bài đọc cũng như biết được mối liên quan
giữa thông tin mới với những thông tin đã biết”.
Mô hình này cho phép người đọc tránh được cách
đọc hiểu theo kiểu hiểu nghĩa từng từ trong bài
đọc; (2) Mô hình đọc bottom-up: đọc để phân biệt
và hiểu các thành phần riêng lẻ như con chữ, từ,
ngữ và câu bằng cách lướt mắt đọc từ trái sang
phải; (3) Mô hình đọc giao tiếp: là sự kết hợp mô
hình top - down với mô hình bottom – up (Eskey,
D., 1988).
Ngoài ra, năng lực đọc hiểu còn dựa theo cách
thức đọc: Căn cứ vào cách thức đọc, đọc được chia
ra thành đọc thành tiếng và đọc thầm. Đọc thành
tiếng có tác dụng luyện ngữ âm và phù hợp với
những người mới bắt đầu học tiếng, khi tốc độ
đọc tốt và lưu loát sẽ ảnh hưởng đến khả năng tiếp
nhận nội dung (Nuttall C.,1996).Đọc thầm là cách
đọc tự nhiên, nhanh và hiệu quả nhất vì đọc tập
trung vào việc hiểu nghĩa của bài đọc.
Dựa trên các mục đích đọc khác nhau,
Broughton và nhóm tác giả chia các năng lực đọc
ở ba cấp độ: ở cấp độ thấp là sử dụng kỹ năng
đọc máy móc, bao gồm: việc nhận dạng con chữ,
nhận dạng các yếu tố ngôn ngữ (hình vị, từ, ngữ,
mệnh đề, câu), nhận dạng âm thanh, chính tả, tốc
độ đọc chậm (Boughton, 1990). Năng lực đọc hiểu
khá (tương đối tốt) là sử dụng kỹ năng đọc hiểu
ở cấp độ cao, bao gồm: hiểu nghĩa đơn thuần (về
từ vựng, ngữ pháp, tu từ), hiểu ý nghĩa (lô-gic,
thái độ/ mục đích của tác giả, bối cảnh văn hoá,
phản ứng của người đọc), đánh giá (về nội dung
và hình thức), tốc độ đọc linh hoạt. Năng lực đọc
hiểu cao là sử dụng kỹ năng đọc hiểu ở cấp độ
siêu nhận thức: đề cập đến nhận thức của người
đọc về việc họ đã nhận ra ý nghĩa và sự thấu hiểu
những văn bản hay tài liệu khi họ đọc. Theo Tei -
Stewart (1985) siêu nhận thức đã được định nghĩa
là “có kiến thức” (nhận thức) và có kiểm soát sự
hiểu biết và vận dụng hợp lý những kiến thức. Do
đó siêu nhận thức liên quan đến cả hai vấn đề nhận
thức ý thức và kiểm soát có ý thức về việc đọc và
học tập của mình. Hyde và Bizar đã viết rằng “quá
trình siêu nhận thức là những quá trình mà trong
đó các cá nhân xem xét những suy nghĩ một cách
cẩn thận trong tình huống giải quyết vấn đề thông
qua các chiến lược: tự - lập kế hoạch, tự - giám sát,
tự - điều chỉnh, tự - đặt câu hỏi, và tự - phản ánh”
(Hyde A.,1989).
Grellet phân chia các năng lực đọc hiểu thông
qua kỹ năng đọc thành ba nhóm: 1- Nhạy cảm hoá:
bao gồm suy luận, hiểu mối quan hệ giữa các câu,
liên kết giữa các câu và ý tưởng; 2- Nâng cao tốc
độ đọc; và 3- Từ hiểu ý chính đến đọc lấy thông tin
chi tiết: kỹ thuật phán đoán, đọc hiểu ý chính đến
đọc lấy thông tin chi tiết (Grellet F., 1990).
3. MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN
NĂNG LỰC ĐỌC HIỂU TIẾNG ANH
CHUYÊN NGÀNH
3.1. Vai trò của giảng viên dạy đọc hiểu tiếng
Anh chuyên ngành
Theo Richard, một giảng viên dạy đọc có hai
vai trò chính “Vai trò đầu tiên là tạo thuận lợi cho
tất cả học viên được tham gia trong lớp học và
tham gia trong quá trình giao tiếp cũng như các
hoạt động khác về các loại tài liệu, văn bản. Vai
trò thứ hai là giảng viên hoạt động như một thành
viên có sự phụ thuộc lẫn nhau trong một nhóm học
tập - giảng dạy” (Richard, 1988).
Theo Hutchinson & Waters, đối với giảng viên
dạy TACN có kiến thức tốt về các chủ đề của tài
liệu TACN là rất quan trọng (Hutchinson, 1987).
Điều đó không có nghĩa là giảng viên TACN phải
chuyên sâu trong lĩnh vực chuyên ngành cụ thể
mà họ phải biết phát hiện nhu cầu học TACN “học
viên quan tâm đến vấn đề nào”. Giảng viên dạy
TACN phải đáp ứng ba yêu cầu sau: có một thái độ
tích cực đối với các nội dung TACN; có kiến thức
nghiệp vụ về các nguyên tắc cơ bản của môn học;
và nhận thức của giảng viên về lượng kiến thức
chuyên ngành đã biết.
30 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
Như vậy, giảng viên là người tổ chức hoạt
động học tập cho học viên; là một người hướng
dẫn trong các tiến trình và các hoạt động trong lớp
học. Giảng viên là một nhà nghiên cứu để cải thiện
các tài liệu giảng dạy, cải tiến kỹ thuật cũng như
phương pháp và là người tiến hành và cố vấn cho
tất cả các hoạt động của học viên.
3.2. Vai trò của tài liệu tiếng Anh chuyên ngành
Trong quá trình dạy kỹ năng đọc hiểu, chúng
ta nhận thấy tài liệu TACN có những vai trò quan
trọng. Thứ nhất, tài liệu cho phép học viên cải
thiện sự lưu loát cũng như độ chính xác trong việc
đạt được các mục tiêu ngôn ngữ. Thông qua các
tài liệu đọc, học viên có thể làm giàu vốn từ vựng
của họ liên quan đến chuyên ngành, cấu trúc của
văn bản.... Thứ hai, tài liệu để đọc giúp học viên có
kiến thức về các lĩnh vực chuyên môn quan trọng.
Hơn nữa, tài liệu còn là nguồn giúp học viên có
được sự sáng tạo, trí tưởng tượng tốt.
Do đó, bên cạnh giáo trình, tài liệu đọc hiểu
TACN có tính xác thực khác cần cung cấp cho
học viên trong quá trình học tập và nghiên cứu và
những tài liệu này luôn gắn với khả năng đọc phù
hợp với từng nội dung khai thác.
3.3. Vai trò của Hồ sơ học tập (Portfolios) và
đọc hiểu tài liệu tiếng Anh chuyên ngành
Dựa trên những khái niệm cốt lõi trong phân
tích thể loại văn bản và những gì mà Frodesen mô
tả thì lập Hồ sơ học tập (HSHT) trong quá trình
học TACN như là một cách tiếp xúc để hướng
dẫn học viên trở thành “những người học TACN
có phong cách học tập và được yêu cầu thảo luận
trong HSHT của họ về những gì họ đã học được
trong quá trình đọc và về các thể loại văn bản khác
nhau có những phương pháp rèn luyện được lựa
chọn của người học (Frodesen J.,1995). HSHT
trong phương pháp sư phạm là học viên phải
hoàn thành một số nhiệm vụ liên quan đến hoạt
động đọc, chẳng hạn như một phân tích chi tiết về
thể loại một số bài viết xuất hiện trên các tạp chí
chuyên ngành trong mục đích rèn luyện của họ kết
hợp sự thu thập và phân tích một số tạp chí khoa
học trong lĩnh vực của họ. Cũng như với sự nghiên
cứu của Hirvela đã yêu cầu học viên tập trung đến
các phát hiện từ việc đọc TACN dựa trên nội dung
bài đọc để sau đó viết bài của mình, như vậy sẽ
tăng cường một mô hình chung với sự liên kết đọc
với các kỹ năng khác (Hirvela A., 1997).
Như vậy, HSHT không chỉ đơn giản là một bản
ghi hữu hình những gì học viên đã làm mà còn là
một bộ sưu tập có mục đích các kết quả học tập, sự
tiến bộ và thành tích của một nguời học theo từng
tiến trình, thời gian rèn luyện kỹ năng ngôn ngữ
nói chung và kỹ năng đọc hiểu nói riêng. Trong
giảng dạy ngoại ngữ, HSHT được sử dụng như
một công cụ linh động, thực chứng để phát triển
kỹ năng và nhận thức cho nguời học qua quá trình
liên tục phản ánh và phân tích việc học của mình.
Một mặt, nguời học có được thông tin và kiến thức
từ các chủ đề trong môn học; mặt khác họ tiếp thu
và phát triển kỹ năng sử dụng ngoại ngữ và kỹ
năng nhận thức, chẳng hạn như giải quyết vấn đề
và tư duy phê phán. Nhờ vào chức năng phản ánh,
HSHT có thể tạo được mối liên kết giữa lý thuyết
ngôn ngữ và kỹ năng thực hành ngôn ngữ. Ðiểm
mấu chốt của bản chất HSHT là các ví dụ về thành
quả học tập được học viên lựa chọn cẩn thận theo
một tiêu chí hoặc giá trị mà học viên nhận ra, phản
ánh và đánh giá. Những phần được lựa chọn trong
HSHT phụ thuộc vào khả năng sáng tạo, ứng dụng
kinh nghiệm cả ở hiện tại và trong quá khứ, chiều
sâu tự phản ánh của học viên và mục đích của
HSHT. Ðiều quan trọng là một HSHT không chỉ là
một tập hợp các mục trong một khóa học, mà còn
thể hiện được sự phản ánh của học viên đối với
những mục này và chứng tỏ khả năng cũng như
tiến trình học tập của học viên. Ðiều này sẽ khuyến
khích học viên có sự chọn lọc và có ý thức tự quản
lý các bằng chứng về sự tiến bộ và kết quả học
tập của mình. HSHT giúp đánh giá và phát huy
tư duy phê phán và khuyến khích học viên chịu
trách nhiệm về việc học của chính mình. Một khía
cạnh quan trọng của HSHT là có thể được xem
như một tiêu điểm cho các cuộc thảo luận giữa học
viên và giảng viên, qua đó giảng viên tạo điều kiện
cho học viên phát triển sự phản ánh và tự đánh
31KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
giá. Thông qua quá trình phản ánh, nguời học có
thể xác định những lỗ hổng trong kiến thức hoặc
kỹ năng của mình, cũng như khẳng định được thế
mạnh, kỹ năng và kiến thức mình đã đạt được.
3.4. Vai trò của người học tiếng Anh chuyên ngành
Theo Strevens cho rằng: “Phương pháp giao
tiếp là lấy người học làm trung tâm”, vai trò của
người học trong một bài học đọc cũng nên được
xem xét (Strevens P., 1988). Nói chung, vai trò của
các học viên có những phương pháp khác nhau,
điều đó có thể nhận ra rằng, học viên trong một
lớp học giao tiếp phải làm công việc của họ một
mình hoặc có rất ít sự trợ giúp của giảng viên. Nói
cách khác, học viên phải đóng góp tham gia nhiều
hơn để học tập lẫn nhau. Thực tế, học viên đóng
một vai trò tích cực trong mỗi bài học ngoại ngữ.
Điều này có nghĩa rằng “vai trò của học viên như
một người đọc”, Nuttall đã viết “Nhu cầu mà học
viên làm cho chính mình là tìm ý nghĩa của văn
bản. Trong bài đọc, học viên phải học cách để đọc”
(Nuttall C., 1996).
Như vậy, giảng viên dạy TACN và các học
viên học TACN có liên quan với nhau trong quá
trình giảng dạy và học. Giảng viên cung cấp các
văn bản, tài liệu phù hợp và xác thực, phân công
nhiệm vụ cho học viên. Học viên là người phải
thực hiện hầu hết các nhiệm vụ của mình để đạt
được các mục tiêu học tập cũng như năng lực đọc
hiểu TACN cho riêng mình.
4. GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG
LỰC ĐỌC HIỂU TÀI LIỆU TIẾNG ANH
CHUYÊN NGÀNH
4.1. Nhóm giải pháp đối với giảng viên
4.1.1. Tìm kiếm tài liệu, biên soạn, xây dựng
hệ thống bài tập đọc hiểu
Mỗi giảng viên cần quan tâm tìm kiếm tài liệu,
xây dựng một hệ thống bài tập bổ trợ (BTBT) kỹ
năng đọc hiểu nên chú trọng những nội dung sau.
- Thứ nhất là các tài liệu TACN, BTBT phải
phục vụ mục đích rèn luyện, tăng cường các kỹ
năng đọc hiểu và sử dụng từ vựng TACN cho lực
lượng vũ trang. Mục tiêu đặt ra là sau khi hoàn
thành hệ thống BTBT, học viên có kỹ năng làm
một số dạng bài đọc hiểu khác nhau để hiểu được ý
chính của bài đọc, hiểu chi tiết của bài đọc, hiểu bố
cục bài đọc, hiểu được và biết cách tóm tắt những
ý chính của bài đọc, cũng như có thể hiểu được
cách sử dụng các thuật ngữ chuyên ngành mà đã
được giới thiệu trong giáo trình chính và các tài
liệu khác.
- Thứ hai là các BTBT phải bám sát mục tiêu,
nội dung chương trình đào tạo. Tài liệu bổ trợ cho
một giáo trình nhất thiết phải tuân theo những nội
dung chủ đề, phương hướng xây dựng chương
trình và giáo trình, phương pháp thực hiện giáo
trình và quan điểm giáo học pháp giảng dạy giáo
trình chính để không đi chệch mục tiêu đào tạo,
mà ngược lại, phải tăng cường cho việc sử dụng
giáo trình có hiệu quả hơn. Điều này có nghĩa là hệ
thống BTBT rèn luyện kỹ năng đọc hiểu cần được
thiết kế cho nhiều nhóm học viên với nhiều chuyên
ngành cụ thể khác nhau.
- Thứ ba là các tài liệu TACN và BTBT bao
gồm các bài tập đọc hiểu và các bài tập từ vựng.
Trong những bài tập khác nhau học viên sẽ được
luyện tập các kỹ năng đọc hiểu khác nhau: đọc
hiểu ý chính, đọc hiểu chi tiết, đọc hiểu bố cục
bài.... Đồng thời, thông qua các bài tập đọc biểu và
bài tập từ vựng, học viên được rèn luyện cách sử
dụng các từ chuyên ngành trong nhiều ngữ cảnh
khác nhau. Các bài tập đọc hiểu có nội dung bài
đọc và bài tập từ vựng cũng cần được kết hợp với
việc rèn luyện các kỹ năng khác: nói, viết, nghe,
ngữ pháp và dịch.
- Thứ tư là các tài liệu TACN và BTBT phải
được xây dựng trên nhu cầu của người học. Thông
qua việc đọc hiểu sinh viên được tăng cường vốn
từ vựng chuyên ngành và khả năng đọc các tài liệu
chuyên ngành trong tương lai.
- Thứ năm là người thiết kế các BTBT cần
chú ý đến các đặc điểm của TACN cho lực lượng
vũ trang. Người thiết kế BTBT có thể chọn được
32 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
những bài đọc có các thành phần câu có cấu trúc
bị động và câu có cấu trúc phức tạp, các động từ,
danh từ, phó từ mang tính chuyên ngành và được
dùng trong các tình huống mang tính nghi thức
cao, các thể loại văn bản đặc biệt như công văn,
hợp đồng, viết các điều luật, qui chế, quy định.
- Cuối cùng là các tài liệu TACN và BTBT nên
được xây dựng từ các nguồn tài liệu cập nhật (trừ
những bài đọc mang tính lịch sử), đa dạng và có
sách hướng dẫn sử dụng. Các vấn đề về nội dung
bài đọc cần được cập nhật, vì ngoài việc đọc hiểu
nội dung bài đọc và rèn luyện kỹ năng đọc sinh
viên còn học được những kiến thức chuyên ngành
theo cách nhìn hiện đại nhất, sử dụng ngôn ngữ
cập nhật nhất và các nội dung chủ đề cũng mới mẻ
hơn, hấp dẫn hơn.
4.1.2. Hướng dẫn học viên lập hồ sơ học tập
Để nâng cao năng lực đọc hiểu tài liệu TACN,
giảng viên nên hướng dẫn học viên lập hồ sơ học
tập để nâng cao năng lực đọc hiểu tài liệu tiếng
Anh chuyên ngành. Phương pháp được tiến hành
như sau:
- Sau mỗi tuần (1 buổi học/tuần), giảng viên có
thể chia lớp thành các nhóm từ 3 đến 4 học viên,
giảng viên yêu cầu học viên tự tìm các bài khóa có
độ dài, nội dung và độ khó phù hợp (ở cấp độ từ A1
đến A2 của CEFR). Học viên có thể tìm trong các
sách, báo, tạp chí và trên Internet. Giảng viên yêu
cầu học viên đọc các bài khóa, tóm tắt nội dung
và tự đặt các câu hỏi phù hợp liên quan đến bài
khóa và có dạng tương tự như trong giáo trình học
(lập danh mục từ mới, trả lời câu hỏi, điền từ, tìm
từ đồng nghĩa, trái nghĩa, chọn câu thích hợp, ...).
- Yêu cầu học viên trích dẫn nguồn gốc rõ ràng
các bài đọc, các tài liệu, ví dụ: trích dẫn tên sách,
tác giả, trình độ, số trang; hoặc tên tờ báo/tạp chí,
tên bài báo, số phát hành; đường dẫn Internet,
ngày truy cập. Từ đó, giảng viên chủ động theo
dõi và kiểm tra việc thực hiện của học viên, đồng
thời đảm bảo rằng, học viên chọn bài báo từ nguồn
gốc phù hợp và đáng tin cậy.
- Hàng tuần, giảng viên có thể yêu cầu các
nhóm trao đổi chéo HSHT để nhận xét, đánh giá và
góp ý. Những góp ý, đánh giá sẽ được gửi lại bằng
email cho giảng viên để giảng viên điều chỉnh hay
can thiệp, giải quyết bất kỳ khó khăn một cách kịp
thời. Giảng viên có thể gợi ý cho học viên những
trang web phù hợp về nội dung và trình độ để định
hướng ngay từ đầu.
- Giảng viên yêu cầu học viên gửi bằng email
cho giảng viên các bài khóa và nội dung kèm theo
(tóm tắt, câu hỏi và trả lời). Sau đó, giảng viên góp
ý trực tiếp bằng email, hoặc tại lớp học vào buổi
tiếp theo.
- Hình thức này nên được tính vào % điểm của
các bài kiểm tra điều kiện (50%) do giảng viên đưa
ra thông báo ngay từ đầu khóa học. Nếu học viên
nào không thực hiện đủ hoặc không làm đúng theo
yêu cầu thì sẽ bị trừ điểm.
Như vậy, nếu thực hiện tốt việc lập HSHT chắc
chắn có thể nhận thấy rõ những tín hiệu tích cực
giúp học viên chủ động hơn trong việc tự tìm tài
liệu rèn luyện kỹ năng đọc hiểu cho bản thân, giúp
học viên quen dần với việc xác định bài đọc hiểu
phù hợp về nội dung và trình độ.
4.1.3. Thay đổi thời điểm đánh giá trình độ
tiếng Anh chuyên ngành
Thay đổi thời điểm đánh giá trình độ tiếng Anh
chuyên ngành và năng lực đọc hiểu tài liệu tiếng
Anh chuyên ngành. Để nâng cao trình độ TACN
nói chung và nâng cao năng lực đọc hiểu tài liệu
TACN nói riêng thì việc đổi mới phương pháp
giảng dạy, cải thiện hệ thống giáo trình, nhưng
công tác tổ chức kiểm tra đánh giá chất lượng,
trình độ học viên cũng là khâu rất quan trọng.
Điều này có thể ảnh hưởng lớn tới chất lượng cũng
như động cơ học tập của học viên đối với môn học
TACN. Trong quá trình nghiên cứu, kết quả cho
thấy hầu hết học viên không chủ động tiếp tục học
tập nghiên cứu, sưu tầm các tài liệu liên quan đến
TACN ngay sau khi học viên kết thúc môn học và
thi kiểm tra, vì học viên nghĩ rằng điều đó đã hoàn
33KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
thành nhiệm vụ. Đây là nguyên nhân dẫn đến học
viên không có sự trao dồi TACN một cách liên tục
trong những năm tiếp theo và hệ quả có thể xảy ra
khi học viên ra trường trình độ tiếng Anh có thể bị
“hao hụt” không đáp ứng được mục tiêu đào tạo
để đáp ứng nhu cầu xã hội, nhu cầu công việc. Để
tránh tình trạng này, lãnh đạo đơn vị và các giảng
viên nên suy nghĩ, tính toán thời điểm hợp lý để
kiểm tra đánh giá. Thay vì kiểm tra đánh giá ngay
sau khi kết thúc môn học trong năm thứ 2, thì hoạt
động tổ chức thi, đánh giá sẽ lùi lại đến thời điểm
học viên chuẩn bị ra trường. Điều này có thể tạo ra
những ảnh hưởng tích cực đến động cơ và thái độ
tự học TACN của học viên hiện nay.
4.2. Nhóm giải pháp đối với học viên
4.2.1. Tạo động cơ và ý thức học tập tiếng
Anh chuyên ngành
Tính cách và thái độ của học viên trên lớp
đóng một vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến hứng
thú và sự tiến bộ của chính mỗi học viên. Thực tế
cho thấy, nếu học viên đến lớp với thái độ sôi nổi,
biết thông cảm, nhiệt tình chắc chắn sẽ thành công
trong học tập hơn những người không có, hoặc
thiếu một trong những đặc điểm này. Những học
viên nhiệt tình trong giờ học có thái độ tích cực đối
với môn học sẽ khiến cho họ trở lên hứng thú trong
giờ học đọc. Một yếu tố tác động nữa ở học viên,
đó là việc tự đánh giá và ghi nhận sự tiến bộ của
chính mình. Học viên không nên mặc cảm so sánh
mình với học viên khác, mà nên tạo ra môi trường
học tập mang tính giúp đỡ lẫn nhau.
Chủ đề và nội dung của tài liệu đọc hiểu đóng
vai trò quan trọng trong việc tạo động cơ học tập
cho học viên. Nếu bài đọc hiểu quá khó so với
trình độ của học viên, sẽ làm cho học viên thiếu tự
tin và nản chí. Hoặc nếu học viên phải đọc những
bài đọc có nội dung không thú vị, nằm ngoài kinh
nghiệm hay hiểu biết thì có thể dẫn đến việc học
viên không tiếp tục đọc nữa. Vì thế, học viên nên
lựa chọn bài đọc hay tài liệu chuyên ngành cần
tham khảo sự gợi ý của giảng viên để có những tài
liệu phù hợp với trình độ và sự yêu thích, quan tâm
đến vấn đề mình cần tìm hiểu, từ đó tạo động cơ
học tập cho riêng mình.
4.2.2. Sử dụng đa dạng các thủ thuật đọc hiểu
Học viên nên sử dụng đa dạng các thủ thuật
đọc hiểu ở cả ba giai đoạn trong bất cứ văn bản tài
liệu TACN. Cụ thể là:
Giai đoạn trước khi đọc (pre-reading): Học
viên có thể sử dụng một số các hoạt động sau đây
nhằm tăng cường hứng thú học đọc như suy nghĩ
khái quát về nội dung của bài đọc thông qua sử
dụng các câu giới thiệu, tranh ảnh, tiêu đề và các
đề mục của bài đọc. Ngoài ra, cố gắng suy nghĩ
trả lời các câu hỏi gợi mở để có ý nghĩa tổng quát
hay những ý chính của bài, chứ không nên tập
trung ngay đến nội dung chi tiết trong bài.
Giai đoạn trong khi đọc (while- reading): Ở giai
đoạn trong khi đọc, học viên chủ động tham gia
một cách tích cực vào bài đọc và khiến cho giờ đọc
hiểu trở thành một quá trình mang tính tương tác.
Giai đoạn sau khi đọc (post-reading): Thủ
thuật đọc hợp lý sử dụng ở giai đoạn sau khi đọc,
đó là mở rộng những kiến thức tiếp thu từ bài đọc
của người học ở giai đoạn trước và trong khi đọc.
Như vậy, học viên tiến hành các hoạt động chẳng
hạn: tóm tắt (summarizing), đánh giá (evaluating),
tổng hợp (sythesizing), bình luận (commenting)
và phản ánh (reflecting). Từ đó sẽ giúp học viên
lĩnh hội kiến thức từ bài đọc và quan trọng nhất là
cách để nhớ lại những gì đã đọc được. Tuy nhiên,
việc tóm tắt nội dung bài đọc hay tài liệu không
chỉ đơn thuần là chỉ là tóm tắt, mà học viên có
thể đưa ra đánh giá, bình luận hoặc phải phản ánh
lại những điều mỗi học viên đã đọc được. Tất cả
những thủ thuật này sẽ giúp cho học viên củng cố
trong bài viết cách hiểu mang tính đánh giá và diễn
giải được những gì họ tiếp thu từ bài đọc.
5. KẾT LUẬN
Để nâng cao năng lực đọc hiểu tài liệu của học
viên các học viện, trường thuộc lực lượng vũ trang,
nội dung bài báo đã đề cập đến một số nội dung
34 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
liên quan với năng lực đọc hiểu tài liệu TACN, từ
đó giảng viên có sự hiểu rõ vấn đề hạn chế. Trên
cơ sở đó xác định những ưu điểm, những hạn chế
để tìm ra những giải pháp phù hợp và đề xuất một
số giải pháp nhằm nâng cao năng lực đọc hiểu tài
liệu TACN trong thời gian tới./.
Tài liệu tham khảo:
1. Boughton G., Brumfit C., Flavell R., Hill P.,
Pincas A. (1990), Teaching English as a foreign
language, Routledge & Kegan Paul Ud, London.
2. Eskey, D. (1988). Interactive approaches to
second language reading. Cambridge University
Press, New York.
3. Frodesen, J. (1995) Negotiating the syllabus:
A learning - centered, interactive approach to ESL
graduate student writing course design. In D.
Belcher and G. Braine (eds.), Academic Writing
in a Second Language: Essays on Research and
Pedagogy. 331 – 50. Norwood, NJ: Ablex.
4. Grellet, F. (1990) Developing Reading Skills
– A practical guide to Reading Comprehension
Exercises. Cambridge University Press, Cambridge
5. Hirvela, A. (1997) “Disciplinary portfolios”
and EAP writing instruction”. English for Specific
Purposes 16: 83 – 100.
6. Hutchinson, T., & Waters, A. (1987).
English for specific purposes: A learning centered
approach. Cambridge University Press, Cambridge
7. Hyde, A. & Bizar, M. (1989). Thinking in
context, White Plains, NY: Longman.
8. Nuttall C. (1996), Teaching reading skills in
a foreign language, Heinemann, London.
9. Richard, J. C. (1988) The case for
commitment to teacher growth: Research on
teacher evaluation. SUNY, New York (p153).
10. Strevens, P. (1988). ESP after twenty years:
A re-appraisal. In M. Tickoo (Ed.), ESP: State
of the Art (pp.1-13). SEAMEO Regional Centre,
Singapore.
11. Tei, E. & Stewart, O.(1985) “Effective
studding from text”. Forum for Reading,V.16,
N.2, 46-55.
ENHANCING READING COMPREHENSION WITH ESP MATERIALS
IN MILITARY INSTITUTES AND UNIVERSITIES
NGUYEN NGOC AN, DAO THI LE MAI, THIEU NGOC HUNG
The process of learning English for Specific Purposes (ESP) in recent years has improved significantly
but there are still some limitations. Reading ability and understanding ESP documents in English of
learners have not met the demand at the Vietnamese Army Force yet, as well as learners do not
develope reading ability with ESP materials. The article focuses on the issues related to ability
of reading comprehension, namely the advantages, disadvantages, limitations, shortcomings and
problems. Then we propose some solutions to improve reading comprehension and reading ability
with ESP materials for learners at military institutes of universities.
Keywords: military, reading ability, English for specific purposes
Received: 01 /11/2017; Revised: 02/01/2018; Accepted for publication: 05/01/2018
35KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngữ pháp là một trong những bình diện quan
trọng bậc nhất giúp cho việc tổ hợp từ ngữ thành
đơn vị giao tiếp mà trước hết là câu trong một
ngôn ngữ phù hợp với quy tắc tư duy của người
bản ngữ, giúp cho người tiếp nhận thông tin hiểu
đúng tinh thần mà người nói và người nghe cần
truyền đạt. Trên cơ sở ngữ âm và từ vựng tích lũy
được, người học cần nắm chắc và sử dụng đúng
các quy tắc ngữ pháp mới có thể phát huy được vai
trò của từ vựng và giúp cho từ vựng tham gia tích
cực nhất vào giao tiếp ngôn ngữ bằng cách tạo ra
nhiều đơn vị câu nhất trong điều kiện cho phép.
Mỗi ngôn ngữ có những quy tắc ngữ pháp riêng,
NGUYỄN THỊ MINH TÂN*
*Học viện Cảnh sát nhân dân, ✉minhxin109@gmail.com
Ngày nhận bài: 31/10/2017; ngày sửa chữa: 08/11/2017; ngày duyệt đăng: 30/12/2017
BÀN VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
NGỮ PHÁP TIẾNG HÁN GIAI ĐOẠN SƠ CẤP
CHO SINH VIÊN VIỆT NAM
TÓM TẮT
Trong dạy học ngoại ngữ, giảng dạy ngữ pháp đóng vai trò vô cùng quan trọng, giúp cho việc tổ
chức từ thành câu cũng như tổ chức câu thành đoạn và thành văn bản đúng quy tắc ngôn ngữ, đạt
được hiệu quả trong quá trình truyền đạt thông tin. Làm thế nào để giờ học ngữ pháp trở nên sinh
động, luôn là mối quan tâm của các nhà nghiên cứu giáo học pháp và giáo viên ngoại ngữ. Trong
khuôn khổ bài viết này, chúng tôi bàn về vấn đề giảng dạy ngữ pháp tiếng Hán cho sinh viên Việt
Nam giai đoạn sơ cấp theo đường hướng giao tiếp, nhằm góp một tài liệu tham khảo cho công tác
dạy học tiếng Hán ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: dạy học, giai đoạn sơ cấp, ngữ pháp, sinh viên Việt Nam, tiếng Hán
thể hiện đặc trưng tư duy của từng dân tộc. Ngữ
pháp trước hết là quy tắc tổ chức sắp xếp các thành
phần câu theo đúng vị trí của chúng để tạo thành
câu đúng. Tuy nhiên, trong thực tế, cũng có những
thành phần câu luôn chiếm vị trí cố định, nhưng
cũng có trường hợp vị trí thành phần câu linh hoạt.
Việc thay đổi vị trí thành phần câu trong điều kiện
quy tắc ngữ pháp cho phép hoặc chọn mẫu câu này
hay mẫu câu khác tương tự cũng có ảnh hưởng đến
sắc thái ý nghĩa và hiệu quả giao tiếp.
Giảng dạy ngữ pháp trước nay thường được coi
là khâu vừa trừu tượng, vừa khô khan so với các
bình diện ngôn ngữ khác. Tuy nhiên, nếu người
dạy quán triệt tinh thần dạy ngữ pháp cũng như
36 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 11 - 01/2018
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
ngữ âm, từ vựng cần đi theo đường hướng giao
tiếp và đa dạng hóa phương thức truyền thụ, sẽ
giúp cho người học không cảm thấy đơn điệu, khô
khan mà cũng trở nên sinh động, hấp dẫn như bất
kỳ một giờ học nào khác. Trong bài viết này, chúng
tôi bàn về giảng dạy ngữ pháp tiếng Hán giai đoạn
sơ cấp theo đường hướng giao tiếp.
2. ĐÔI NÉT VỀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CÓ
LIÊN QUAN
Trước hết, cần xác định khái niệm ngữ pháp
là gì? Theo “Tân hiện đại Hán ngữ từ điển”, “Ngữ
pháp (grammar) là một phân ngành của ngữ pháp
học, nghiên cứu về từ loại, sự thay đổi khuất chiết
của từ hoặc các thủ pháp khác biểu thị quan hệ
tương hỗ, cũng như chức năng và quan hệ của
từ trong câu theo cách dùng xác định.” (王同亿,
1993, tr.2029). Với định nghĩa này, ngữ pháp sẽ
bao gồm khá nhiều phương diện, trong đó nổi lên
là từ loại, chức năng, quan hệ của từ trong câu và
các thủ pháp khác biểu thị quan hệ các tương hỗ
tồn tại trong câu. Ngữ pháp cũng nhằm mục đích
chỉ rõ các điều kiện sử dụng chính xác một ngôn
ngữ kể cả hai hình thức diễn đạt là nói và viết. Nói
cách khác, ngữ pháp là những quy tắc và quy ước
mà người phát ngôn phải tuân theo để tạo ra câu
hoặc phát ngôn có thể chấp nhận được trong một
ngôn ngữ nào đó. Chính vì thế, từ góc độ dạy học
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khnnqs_11_01_2018_7028_2171744.pdf