Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và một số yếu tố nguy cơ của trẻ sơ sinh đẻ non tại Bệnh viện Đại học Y dược Huế

Tài liệu Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và một số yếu tố nguy cơ của trẻ sơ sinh đẻ non tại Bệnh viện Đại học Y dược Huế: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học 215 NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA TRẺ SƠ SINH ĐẺ NON TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC HUẾ Nguyễn Thị Thanh Bình*, Trương Thị Hồng*, Phạm Thị Ny* TÓM TẮT Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và một số yếu tố nguy cơ của trẻ sơ sinh đẻ non. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Cỡ mẫu thuận tiện gồm 89 trẻ sơ sinh có tuổi thai dưới 37 tuần sinh ra và được theo dõi tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế từ tháng 5/2016 đến tháng 3/2017. Kết quả: Tỷ lệ nam/nữ 1,28/1, 70,8% trẻ từ 34-<37 tuần. 44,9% có cơn ngưng thở, 61,8% trẻ có vàng da tăng bilirubin gián tiếp, 92,1% trẻ đi tiểu và 74,2% trẻ đi cầu phân su trong 24 giờ đầu sau sinh. Nhiễm trùng sơ sinh và vàng da tăng bilirubin gián tiếp là hai bệnh lý thường gặp nhất. 37,0% trẻ đẻ non không rõ nguyên nhân. Một số yếu tố nguy cơ đẻ non từ phía mẹ là ối vỡ non 44,9%, mẹ sốt trước, trong hoặc sau sinh 3 ngày 23,6%...

pdf7 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 05/07/2023 | Lượt xem: 352 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và một số yếu tố nguy cơ của trẻ sơ sinh đẻ non tại Bệnh viện Đại học Y dược Huế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học 215 NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA TRẺ SƠ SINH ĐẺ NON TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC HUẾ Nguyễn Thị Thanh Bình*, Trương Thị Hồng*, Phạm Thị Ny* TÓM TẮT Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và một số yếu tố nguy cơ của trẻ sơ sinh đẻ non. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Cỡ mẫu thuận tiện gồm 89 trẻ sơ sinh có tuổi thai dưới 37 tuần sinh ra và được theo dõi tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế từ tháng 5/2016 đến tháng 3/2017. Kết quả: Tỷ lệ nam/nữ 1,28/1, 70,8% trẻ từ 34-<37 tuần. 44,9% có cơn ngưng thở, 61,8% trẻ có vàng da tăng bilirubin gián tiếp, 92,1% trẻ đi tiểu và 74,2% trẻ đi cầu phân su trong 24 giờ đầu sau sinh. Nhiễm trùng sơ sinh và vàng da tăng bilirubin gián tiếp là hai bệnh lý thường gặp nhất. 37,0% trẻ đẻ non không rõ nguyên nhân. Một số yếu tố nguy cơ đẻ non từ phía mẹ là ối vỡ non 44,9%, mẹ sốt trước, trong hoặc sau sinh 3 ngày 23,6% , mẹ trên 35 tuổi 15,7%, mẹ bị tiền sản giật 12,4%. Yếu tố nguy cơ đẻ non từ phía thai là đa thai 20,2% và suy thai 5,6%. Kết luận: Đa số trẻ đẻ non có tuổi thai từ 34-<37 tuần. Yếu tố nguy cơ của đẻ non thường gặp nhất là ối vỡ non, mẹ có sốt trước, trong hoặc sau sinh 3 ngày, đa thai. Tuy nhiên, có khoảng 1/3 số trẻ đẻ non không rõ nguyên nhân. Từ khóa: Sơ sinh, đẻ non, yếu tố nguy cơ của đẻ non. ABSTRACT CHARACTERISTICS AND SOME RISK FACTORS OF PRETERM INFANTS IN HUE UNIVERSITY HOSPITAL Nguyen Thi Thanh Binh, Truong Thi Hong, Pham Thi Ny . * Ho Chi Minh City Journal of Medicine *Vol. 22 - No 4- 2018: 215 – 221 Objectives: Describe clinical characteristics and some risk factors of preterm infants. Methods: A descriptive study. A convenient sample of 89 preterm were born in Hue University Hospital, Hue, Viet Nam from 5/2016-3/2017. Results: Male/female was 1.28 /1; 70.8% preterm were 34- 37 weeks. 44.9% had apnea, 61.8% had hyperbilirubinemia, 92.2% had urinary excretion and 74.2% had meconium smears in the first 24 hours. Early neonatal infection and hyperbilirubinemia are the two most common pathologies. 37.0% of premature were unexplained. Some risk factors for preterm birth were 44.9% premature rupture of membranes, 23.6% of fever in mother, 35.7% of mothers older than 35 years old, pre-eclampsia 12.4%. Risk factors for fetal preterm birth were multiple gestation (20.2%) and fetal distress (5.6%). Conclusions: Most premature babies have a gestational age from 34 to 37 weeks. The most common risk factors for prematurity include premature rupture of membranes, fever in their mother, multiple pregnancies. However, the exact cause of one-thirds of premature haven’t just known. * Trường Đại Học Y Dược Huế. Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Thị Thanh Bình ĐT:0977196820 Email: nguyenbinh292@gmail.com. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 4 * 2018 216 Key words: Neonate, premature, preterm, risk factor of preterm infant. ĐẶT VẤN ĐỀ Sơ sinh đẻ non là những trẻ sơ sinh sống sinh ra trước 37 tuần thai (WHO). Năm 2010, trên toàn thế giới có khoảng 11,1% trẻ đẻ non tương ứng với 15 triệu trẻ đẻ non mỗi năm(2). Tới năm 2015, tỷ lệ trẻ đẻ non dao động từ 5% đến 18%. Trẻ đẻ non có tỷ lệ tử vong và tỷ lệ mắc bệnh cao hơn những trẻ sơ sinh đủ tháng vì các cơ quan của trẻ chưa đủ trưởng thành để thích nghi với cuộc sống bên ngoài tử cung, thời gian nằm viện kéo dài và các thủ thuật can thiệp trên trẻ cũng nhiều hơn. Về lâu dài, các di chứng của đẻ non sẽ ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống của trẻ và cũng là gánh nặng cho gia đình và xã hội. Biến chứng nguy hiểm nhất của đẻ non là tử vong sơ sinh. Theo WHO, năm 2015, tỷ lệ tử vong sơ sinh chiếm 46% trong các nguyên nhân tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi, trong đó tử vong do đẻ non là nguyên nhân hàng đầu, chiếm 16%. 3/4 số trẻ đẻ non được cứu sống bằng các can thiệp hiệu quả nhưng nhiều trẻ vẫn phải đối mặt với các di chứng nặng nề về sau, bao gồm các di chứng về tinh thần, vận động, các di chứng ở thính lực, thị lực, bệnh phổi mạn tính. Việc tìm hiểu về các yếu tố nguy cơ của đẻ non cũng như những đặc điểm của trẻ sau sinh sẽ giúp cho việc phòng ngừa đẻ non và chăm sóc trẻ đẻ non được tốt hơn, giảm tỷ lệ mắc bệnh và di chứng cho trẻ. Mục tiêu nghiên cứu Mô tả đặc điểm lâm sàng và một số yếu tố nguy cơ của trẻ sơ sinh đẻ non. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng Gồm 89 trẻ sơ sinh có tuổi thai dưới 37 tuần sinh ra tại Bệnh viện Đại học Y Dược Huế từ tháng 05/2016 đến 03/2017 với các tiêu chuẩn sau: Tiêu chuẩn chọn bệnh Trẻ đẻ non dưới 37 tuần được sinh ra và theo dõi tại Bệnh viện Đại học Y Dược Huế. Người nhà đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại trừ Trẻ được chuyển lên tuyến trên ngay sau sinh. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Cỡ mẫu thuận tiện. Các bước thực hiện: Những trẻ đủ tiêu chuẩn tham gia vào nghiên cứu sẽ được hỏi về tiền sử, bệnh sử của mẹ, các bệnh lý của mẹ, thăm khám và theo dõi các triệu chứng của trẻ và ghi vào phiếu nghiên cứu. Xử lý số liệu Sử dụng phần mềm SPSS 16.0 để thực hiện thống kê mô tả và phân tích. KẾT QUẢ Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu Trong 89 trẻ sơ sinh đẻ non (SSĐN) được nghiên cứu, có 50 trẻ nam chiếm 56,2% và 39 trẻ nữ chiếm 43,8%. Tỷ lệ nam/nữ là 1,28/1. Phân loại sơ sinh theo tuổi thai 70,8% trẻ đẻ non có tuổi thai từ 34-<37 tuần, không có trẻ nào dưới 28 tuần (bảng 1). Bảng 1. Phân loại sơ sinh theo tuổi thai Tuổi thai < 28 tuần 28-< 32 tuần 32-< 34 tuần 34-< 37 tuần Tổng Số trẻ (n) 0 2 24 63 89 Tỷ lệ (%) 0,0 2,2 27,0 70,8 100 Chỉ số cân nặng lúc sinh, chiều dài, vòng đầu của nhóm nghiên cứu Tuổi thai càng lớn thì cân nặng, chiều dài và vòng đầu của trẻ càng lớn (bảng 2). Một số đặc điểm lâm sàng của nhóm nghiên cứu Các đặc điểm lâm sàng của nhóm nghiên cứu Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học 217 Đa số trẻ có thân nhiệt bình thường, tần số tim khoảng 140 lần/phút, 23,6% trường hợp có thở nhanh, 44,9% có cơn ngưng thở. 92,1% trẻ đi tiểu và 74,2% trẻ đi cầu phân su lần đầu trong 24 giờ đầu. 61,8% trẻ có vàng da (Bảng 3). Bảng 2. Chỉ số cân nặng lúc sinh, chiều dài, vòng đầu của nhóm nghiên cứu Giá trị trung bình ( ±SD) Nhóm tuổi thai <34 tuần (n=26) 34-<37 tuần (n=63) Cân nặng lúc sinh (gram) 1765,4 ± 220,8 2101,6 ± 286,5 Chiều dài (cm) 41,15 ± 1,43 44,57 ± 2,69 Vòng đầu (cm) 29,42 ± 1,10 30,71 ± 1,35 Bảng 3. Các đặc điểm lâm sàng của nhóm nghiên cứu Đặc điểm lâm sàng N=89 % Hạ thân nhiệt 1 1,1 Thân nhiệt bình thường 88 98,9 Tần số tim trung bình (lần/phút) 140,0 ± 11,35 Thở nhanh >60 lần/phút 21 23,6 Có cơn ngưng thở 40 44,9 Đi phân su trong 24 giờ đầu sau sinh 66 74,2 Đi tiểu lần đầu trong 24 giờ sau sinh 82 92,1 Số trẻ có vàng da trong thời gian theo dõi 55 61,8 Thời gian bắt đầu xuất hiện vàng da 48,3 ± 20,74 giờ Các bệnh lý mắc phải của nhóm nghiên cứu Bảng 4. Các bệnh lý của nhóm nghiên cứu Bệnh lý < 34 tuần 34 - < 37 tuần N1=26 % N2=63 % Nhiễm khuẩn sơ sinh sớm 20 76,9 47 74,6 Nhiễm khuẩn sơ sinh mắc phải 1 3,8 2 3,2 Vàng da tăng bilirubin gián tiếp 22 84,6 33 52,4 Suy hô hấp sơ sinh 10 42,3 18 28,6 Hạ thân nhiệt 0 0,0 1 1,6 Hạ glucose máu 3 11,5 15 23,8 Thiếu máu 1 3,8 3 4,8 Nhận xét: Hai bệnh lý thường gặp nhất ở nhóm nghiên cứu là nhiễm khuẩn sơ sinh sớm và vàng da tăng bilirubin gián tiếp. Một số yếu tố nguy cơ của đẻ non Trong 89 trẻ, có 56 trẻ (63,0%) ghi nhận được yếu tố nguy cơ đẻ non từ phía mẹ hoặc thai, 33 trường hợp chưa rõ nguyên nhân chiếm 37,0%. Một số yếu tố nguy cơ dẫn đến đẻ non từ phía mẹ Bảng 5. Yếu tố nguy cơ đẻ non từ phía mẹ Yếu tố nguy cơ N=89 % Yếu tố thể trạng, bệnh lý và kinh tế xã hội Tuổi mẹ > 35 tuổi 14 15,7 Tiền sử sẩy thai 10 8,9 Tiền sử đẻ non 3 3,3 Đái tháo đường thai kỳ 1 1,1 Nhiễm trùng đường tiểu trong 3 tháng cuối 3 3,3 Mẹ bị viêm âm hộ, âm đạo 5 5,6 Mẹ bị tiêu chảy trong những ngày trước sinh 3 3,3 Mẹ sốt trước, trong hoặc 3 ngày sau sinh 21 23,6 Yếu tố sản phụ khoa Tiền sản giật 11 12,4 Ối vỡ non 40 44,9 Nhiễm trùng ối 2 2,2 Nhau bong non 1 1,1 Nhận xét: ối vỡ non (44,9%), mẹ sốt trước, trong hoặc sau sinh 3 ngày (23,6%), mẹ lớn tuổi trên 35 tuổi (15,7%) , tiền sản giật (12,4%) là các yếu tố nguy cơ gây đẻ non có tỷ lệ cao hơn các nguyên nhân khác. Một số yếu tố nguy cơ dẫn đến đẻ non từ phía thai nhi Bảng 6. Một số yếu tố nguy cơ đẻ non từ phía thai nhi Yếu tố về thai N = 89 % Đa thai 18 20,2 Suy thai 5 5,6 Nhận xét: Yếu tố nguy cơ đẻ non từ phía thai nhi chỉ ghi nhận được đa thai và suy thai. BÀN LUẬN Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu Giới tính Trong nghiên cứu này, tỷ lệ trẻ nam: nữ là 1,28:1. Tỷ lệ này tương tự với một số nghiên cứu khác. Theo Trương Thị Như Huyền (2013) tỷ lệ nam/nữ là 53,8%/46,2%(14). Nguyễn Thị Hồng Hương (2014), trẻ nam chiếm 56,5%(9). Nghiên cứu của Kunle-Olowu (2014) tỷ lệ nam/nữ là 1,1/1(5). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 4 * 2018 218 Theo Zeitlin, tỷ lệ trẻ nam sinh non cao hơn nữ có thể do nhiều cơ chế: thai nhi nam có trọng lượng lớn hơn nên dễ gây chuyển dạ sớm, thai nhi nam nhạy cảm với những bệnh lý liên quan đến sinh non như tăng huyết áp thai kỳ hoặc nhiễm khuẩn, sự khác biệt giữa nam và nữ về những quá trình sinh lý có liên quan giới tính như chuyển dạ - một quá trình được tác động bởi estrogen sinh ra từ tiền chất androgen(17). Tuổi thai Nghiên cứu của chúng tôi có 70,8% trẻ đẻ non từ 34-<37 tuần, nhưng không có trẻ sơ sinh dưới 28 tuần vì những trẻ SSĐN < 28 tuần và một số trẻ từ 28-<32 tuần có dấu hiệu nặng được chuyển ngay lên tuyến trên từ phòng sinh hoặc phòng mổ. Kết quả này cũng tương tự nghiên cứu của Trương Thị Như Huyền (2013), SSĐN 33-37 tuần chiếm tỷ lệ cao nhất (77,8%), 28-32 tuần chiếm 18,7%, <28 tuần chiếm 3,5%(14). Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Hương (2014), 80,0% trẻ đẻ non có tuổi thai từ 33-<37 tuần, 20% trẻ có tuổi thai 28-32 tuần, không có trẻ cực non dưới 28 tuần(9) Theo số liệu thống kê từ 184 quốc gia trên thế giới, Blencowe (2012) đã ghi nhận tỷ lệ trẻ đẻ non theo tuổi thai lần lượt là 5,2 % trẻ <28 tuần, 10,4% trẻ từ 28-32 tuần và 84,3% trẻ 33-37 tuần(2). Chỉ số cân nặng, chiều dài, vòng đầu của trẻ sơ sinh đẻ non Kết quả ở bảng 2. cho thấy cân nặng, chiều dài và vòng đầu của trẻ sơ sinh có tuổi thai từ 34-<37 tuần đều cao hơn nhóm trẻ <34 tuần. Theo Nguyễn Thị Kim Phương (2007), các chỉ số nhân trắc của trẻ sơ sinh tăng dần có ý nghĩa thống kê theo tuổi thai (p <0,001)(10). Theo Cunningham, chiều dài, cận nặng tăng theo tuổi thai, thai 28 tuần có chiều dài đầu mông và cân nặng là 250 mm, 1000g, trong khi ở thai 34 tuần là 300 mm, 2100g(3). Như vậy, kết quả này cũng phù hợp với sự phát triển bình thường của thai nhi ở trong tử cung. Đặc điểm lâm sàng của nhóm nghiên cứu Thân nhiệt Trong nghiên cứu này, hạ thân nhiệt chỉ chiếm 1,1%. Theo nghiên cứu của Lê Minh Trác (2012), tỷ lệ hạ thân nhiệt ở trẻ sơ sinh đẻ non chiếm tỷ lệ thấp (0,7%)(6). Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Hương (2014), tỷ lệ hạ thân nhiệt chiếm tới 34,1% và chủ yếu ở tuổi thai 33- <37 tuần(9). Sự khác nhau này có thể lý giải do địa điểm và thời điểm nghiên cứu khác nhau. Tần số tim Tần số tim trung bình là 140,0 ± 11,35 lần/phút, tần số này nằm trong giới hạn bình thường của trẻ sơ sinh. Thông thường tần số tim ở trẻ sơ sinh từ 120- 160 lần/ phút(18). Nhịp thở Theo bảng 5, tỷ lệ ngưng thở chung của nhóm là 44,9% (40 trẻ). Trong đó, 19/26 trẻ đẻ non <34 tuần và 21/63 trẻ 34-<37 tuần. Như vậy, tỷ lệ ngưng thở ở nhóm trẻ < 34 tuần cao hơn nhóm trẻ 34-<37 tuần (73,1% so với 33,3%). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Ngưng thở có thể xảy ra ở 70% trẻ <34 tuần, tuổi thai càng non, nguy cơ ngưng thở càng cao. Theo Zhao Jing (2011), tỷ lệ ngưng thở bệnh lý có tương quan nghịch với tuổi thai: 7% ở tuổi thai 34- 35 tuần, 15% ở 32- 33 tuần, 54% ở 30- 31 tuần và gần như tất cả trẻ sơ sinh <29 tuần hoặc <1000 gram(18). Kết quả này cao hơn nghiên cứu của chúng tôi. Sự khác biệt này có thể giải thích do sự khác nhau về cỡ mẫu, cách chọn bệnh và địa dư nghiên cứu. Thời điểm đi cầu phân su và đi tiểu lần đầu tiên Trong nghiên cứu này, 92,1% trẻ đi tiểu lần đầu nhưng chỉ có 74,2% trẻ đi phân su lần đầu trong 24 giờ sau sinh. Nghiên cứu của Bekkali ở 198 trẻ sơ sinh từ 25-42 tuần còn cho thấy, tuổi thai càng nhỏ, thời điểm đi cầu phân su lần đầu càng trễ (p< 0,001), với tỷ lệ đi cầu phân su trong 24 giờ đầu sau sinh như sau: nhóm ≥37 tuần: 79%, 35-36 tuần là 73%, 31-34 tuần là 68%, ≤30 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học 219 tuần là 44%. Tỷ lệ trẻ đi cầu trong 48 giờ lần lượt là 83%, 76%, 84, 75%(7). Sự chậm đi cầu phân su ở trẻ sơ sinh đẻ non có thể do vận động của đường tiêu hoá chưa trưởng thành, nhu động ruột yếu(1). Theo Okoro (2013), trẻ sơ sinh bình thường có thể đi cầu phân su sau 24 giờ, nên xem xét làm các xét nghiệm kiểm tra ở trẻ chậm đi cầu phân su sau 48 giờ(12). Vàng da tăng bilirubin gián tiếp Tỷ lệ vàng da ở trẻ sơ sinh đẻ non trong nghiên cứu của chúng tôi chiếm 61,8%. Tuy nhiên tỷ lệ vàng da trong các nghiên cứu khác thấp hơn: nghiên cứu của Lê Minh Trác là 30%(6), Nguyễn Thị Hồng Hương là 31,8%(9), Võ Hữu Đức là 25,6%(15). Sự khác biệt này là do đối tượng nghiên cứu khác với nghiên cứu của chúng tôi. Thời điểm xuất hiện vàng da chủ yếu là 24-72 giờ, trung bình là: 48,3 ± 20,74 giờ. Nguyễn Thị Mai (2012) nghiên cứu tại bệnh viện Đa khoa Trung Ương Thái Nguyên, 38,7% trẻ vàng da xuất hiện ở thời điểm 49-72 giờ, vàng da xuất hiện trước 24 giờ chỉ chiếm 3,2%(11). Các bệnh lý thường gặp ở trẻ sơ sinh đẻ non Theo kết quả ở bảng 6, bệnh lý chiếm tỷ lệ cao nhất ở trẻ là nhiễm khuẩn sơ sinh sớm (NTSSS), tiếp đến là vàng da tăng bilirubin gián tiếp. Theo Trương Thị Như Huyền (2013) ở nhóm trẻ đẻ non 28-32 tuần, NTSSS (49,1%) và suy hô hấp không do nhiễm khuẩn (35,2%) là 2 bệnh lý thường gặp nhất. Ở nhóm 33-37 tuần, bệnh lý phổ biến là NTSSS (57,2%) và vàng da tăng bilirubin gián tiếp (10,3%), tiếp đến là suy hô hấp không do nhiễm trùng (6,5%)(14). Kết quả này gần tương tự nghiên cứu của chúng tôi, nhưng tỷ lệ thấp hơn. Khác với nghiên cứu này, Nguyễn Thị Hồng Hương (2014) ghi nhận tỷ lệ vàng da tăng bilirubin gián tiếp ở nhóm 33-<37 tuần cao hơn nhóm <33 tuần, sự khác nhau giữa các nhóm tuổi thai có ý nghĩa thống kê (p<0,05)(9). Nhưng tỷ lệ hạ glucose máu ở nhóm 33-<37 tuần cũng cao hơn nhóm < 33 tuần như nghiên cứu của chúng tôi(10). Một số yếu tố nguy cơ của đẻ non Một số yếu tố nguy cơ của đẻ non từ phía mẹ Theo nhiều tài liệu, tuổi mẹ <16 tuổi hoặc >35 tuổi là yếu tố nguy cơ của đẻ non. Nghiên cứu của López và Bréart (2013) tại Chile, tuổi mẹ 38 tuổi là yếu tố nguy cơ của đẻ non (p<0,001)(7). Kết quả nghiên cứu của Martius (1998): tuổi mẹ >35 tuổi là yếu tố nguy cơ của sinh non < 37 tuần và sinh rất non < 32 tuần với tỷ suất chênh (OR) lần lượt là 1,4 và 1,8; tuổi mẹ <18 tuổi là yếu tố nguy cơ với OR 2 và 3,4(8). Nhưng nghiên cứu của Prunet (2017) cho biết so với năm 1995 thì năm 2010 tuổi mẹ ≥ 35 tuổi không còn là yếu tố nguy cơ của sinh non (13). Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận 8,9% bà mẹ có tiền sử sẩy thai và 3,3% bà mẹ có tiền sử sinh non. Nhiều nghiên cứu cho thấy tiền sử sinh non là một yếu tố nguy cơ của sinh non như các nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Hương với OR = 7,538(10) nghiên cứu của Kunle Olowu (2014)(5), Prunet (2017)(13). Trong khi đó, Martius (1998) ghi nhận tiền sử sinh non của mẹ là yếu tố nguy cơ của sinh non nhưng tiền sử sẩy thai không phải là yếu tố nguy cơ của sinh non, thiếu máu là yếu tố nguy cơ của sinh non nhưng không phải là yếu tố nguy cơ của sinh rất non(8). Theo Nguyễn Thị Hồng Hương (2014) mẹ có triệu chứng ngứa âm hộ, âm đạo là một yếu tố nguy cơ của sinh non với p 1, nhưng mẹ sốt trước sinh không phải là yếu tố nguy cơ của sinh non(10). Theo Martius (1998) nhiễm khuẩn đường tiểu không phải là yếu tố nguy cơ của sinh non và sinh rất non(8). Có những sự khác biệt này có thể do cỡ mẫu của các nghiên cứu khác nhau và một số bà mẹ đã được điều trị trước khi trẻ sinh ra. Các yếu tố sản phụ khoa có nguy cơ gây đẻ non Trong nghiên cứu này, ối vỡ non chiếm tỷ lệ Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 4 * 2018 220 cao nhất 44,9%. Ối vỡ non dẫn đến chuyển dạ trong một thời gian ngắn vì nó làm cho buồng ối hở, tăng thêm nguy cơ nhiễm trùng. Nghiên cứu của Martius (1998) cho thấy ối vỡ non là yếu tố nguy cơ của sinh non và sinh rất non với OR lần lượt là 2,8 và 1,6(8). Nghiên cứu của Kornacki (2009) ghi nhận những mẹ có ối vỡ non thì hầu hết các biến chứng sơ sinh kể cả nhiễm khuẩn sơ sinh cao hơn đáng kể ở những trẻ < 31 tuần so với trẻ >31 tuần thai(4). Tỷ lệ tiền sản giật trong nghiên cứu này là 12,4%. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Hương (2014), tăng huyết áp thai kì chưa phải là yếu tố nguy cơ của sinh non(9), trái lại nghiên cứu của Kunle Olowu (2014) cho thấy tăng huyết áp thai kì là yếu tố nguy cơ của sinh non chiếm 23,9%(5). Nghiên cứu của Martius (1998) cho thấy tiền sản giật là yếu tố nguy cơ của sinh non và sinh rất non với OR lần lượt là 2,7 và 4,0(8). Nhiều nghiên cứu cho thấy viêm màng ối là yếu tố nguy cơ của sinh non như nghiên cứu của Martius, Kunle Olowu(5,8) . Một số yếu tố nguy cơ của đẻ non từ phía thai nhi Đa thai là yếu tố nguy cơ của sinh non tương tự nghiên cứu của Kunle- Olowu(5), nhưng chưa tìm thấy nghiên cứu về liên quan giữa đa thai và các mức đẻ non. Suy thai cũng là yếu tố nguy cơ của sinh non. Tuy nhiên vì số lượng trẻ suy thai trong mẫu nghiên cứu quá thấp nên không kiểm định được mối liên quan. KẾT LUẬN Có 89 trường hợp đẻ non có tỷ lệ nam/nữ là 1,28/1, 70,8% trẻ có tuổi thai từ 34-<37 tuần. Đặc điểm lâm sàng 1,1% hạ thân nhiệt, 23,6% thở nhanh, 44,9% có cơn ngưng thở và 27,0% trẻ có nôn. 92,1% trẻ đi tiểu và 74,2% trẻ đi cầu phân su lần đầu trong 24 giờ sau sinh. 61,8% trẻ có vàng da tăng bilirubin gián tiếp trong tuần đầu sau sinh. Nhiễm khuẩn sơ sinh sớm và vàng da tăng bilirubin gián tiếp là hai vấn đề thường gặp nhất. Yếu tố nguy cơ của đẻ non Trong 89 trẻ, có 33 trẻ (37,0%) đẻ non không rõ nguyên nhân. Yếu tố nguy cơ từ mẹ: Ối vỡ non 44,9%, mẹ sốt trước, trong hoặc sau sinh 3 ngày (23,6%), mẹ lớn tuổi trên 35 tuổi (15,7%) , tiền sản giật (12,4%) là các yếu tố nguy cơ gây đẻ non có tỷ lệ cao hơn các nguyên nhân khác. Yếu tố nguy cơ từ thai: chỉ ghi nhận được hai yếu tố nguy cơ là đa thai 20,2% và suy thai 5,6%. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bekkali N (2008), "Duration of meconium passage in preterm and term infants", Arch Dis Child Fetal Neonatal Ed, 93(5), p. F376-9. 2. Blencowe H (2012), "National, regional, and worldwide estimates of preterm birth rates in the year 2010 with time trends since 1990 for selected countries: a systematic analysis and implications", The Lancet, 379 (9832), pp. 2162-2172. 3. Cunningham FG (2010), "Fetal growth and development", Williams Obstetrics, Mc Graw Hill, p. 78-106. 4. Kornacki J (2009), "The influence of preterm premature rupture of membranes on maternal and neonatal outcome", Arch Med Sci, 5(2), p. 222-28. 5. Kunle-Olowu OE, Peterside O, Adeyemi OO (2014), "Prevalence and outcome of preterm admissions at the neonatal unit of a tertiary health centre in Southern Nigeria", Open Journal of Pediatrics., 4, p.67-75 6. Lê Minh Trác, Phan Thị Thu Nga, Lê Anh Tuấn (2012), "Thực trạng trẻ sơ sinh thấp cân, non tháng đẻ tại Bệnh Viện Phụ Sản Trung Ương", Tạp Chí Phụ Sản, 10(2), tr. 98-103. 7. López PO, Bréart G (2013), "Sociodemographic characteristics of mother’s population and risk of preterm birth in Chile", Reproductive health, 10(1), p. 26. 8. Martius JA (1998), "Risk factors associated with preterm (<37+0 weeks) and early preterm birth (<32+0 weeks): univariate and multivariate analysis of 106 345 singleton births from the 1994 statewide perinatal survey of Bavaria", Eur J Obstet Gynecol Reprod Biol, 80(2), pp. 183-9. 9. Nguyễn Thị Hồng Hương (2014), Nghiên cứu đặc điểm bệnh lý và các yếu tố liên quan từ mẹ của loại sơ sinh đẻ non giai đoạn sơ sinh sớm tại Bệnh viện Trường Đại học Y dược Huế, Luận văn thạc sĩ của bác sĩ nội trú, Chuyên ngành Nhi, Trường Đại học Y Dược Huế, tr.37. 10. Nguyễn Thị Kim Phương (2007), Nghiên cứu một số chỉ số sinh học trẻ sơ sinh tại khoa Phụ Sản Bệnh viện Trung ương Huế, Luận văn tốt nghiệp bác sĩ đa khoa, Trường Đại học Y Dược Huế, tr.32. 11. Nguyễn Thị Mai (2013), "Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng vàng da trẻ sơ sinh non tháng tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên", Tạp chí y học thực hành, 9(879), tr. 60-65. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học 221 12. Okoro PE, Enyindah CE (2013), "Time of passage of first stool in newborns in a tertiary health facility in Southern Nigeria", Nigerian Journal of Surgery, 19(1), pp. 20-22. 13. Prunet C (2017), "Risk factors of preterm birth in France in 2010 and changes since 1995: Results from the French National Perinatal surveys", Journal of Gynecology Obstetrics and Human Reproduction, 46(1), pp. 19-28. 14. Trương Thị Như Huyền (2013), Nghiên cứu mô hình bệnh tật và tử vong của trẻ sơ sinh đẻ non điều trị tại khoa Nhi – Bệnh viện Phụ Sản Nhi Đà Nẵng, Luận văn chuyên khoa II, Chuyên ngành Nhi, Trường Đại Học Y Dược Huế, tr.41. 15. Võ Hữu Đức, Trương Công Đầy (2009), "Đặc điểm bệnh lý vàng da sơ sinh tại khoa Nhi Bệnh viện trung tâm Tiền Giang", Tạp chí y học thực hành, tr. 547-553. 16. Weaver L, Lucas A (1993), "Development of bowel habit in preterm infants", Archives of disease in childhood, 68(3 Spec No), pp. 317-320. 17. Zeitlin J (2002), "Fetal sex and preterm birth: are males at greater risk?" Human Reproduction, 17(10), pp. 2762-2768. 18. Zhao J, Gonzalez F, Mu D (2011), "Apnea of prematurity: from cause to treatment", European journal of pediatrics, 170(9), pp. 1097-1105. Ngày nhận bài báo: 13/03/2018 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 15/05/2018 Ngày bài báo được đăng: 30/06/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_dac_diem_lam_sang_va_mot_so_yeu_to_nguy_co_cua_tr.pdf
Tài liệu liên quan