Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và khảo sát nguyên nhân của các triệu chứngđường tiết niệu dưới

Tài liệu Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và khảo sát nguyên nhân của các triệu chứngđường tiết niệu dưới: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận – Niệu 159 NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ KHẢO SÁT NGUYÊN NHÂN CỦA CÁC TRIỆU CHỨNG ĐƯỜNG TIẾT NIỆU DƯỚI Nguyễn Khoa Hùng*, Nguyễn Vĩnh Lạc*, Lê Đình Khánh*, Lê Đình Đạm*, Nguyễn Xuân Mỹ* TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và khảo sát nguyên nhân của các triệu chứng đường tiết niệu dưới. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng gồm 102 bệnh nhân có biểu hiện của LUTS (theo định nghĩa ICS) đến khám tại phòng khám ngoại tiết niệu bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế từ 08/2017 đến 04/2018. Nghiên cứu cắt ngang mô tả không đối chứng. Kết quả: Tuổi trung bình là 64,8 ± 16,6 (15-92). Nhóm tuổi từ 60 trở lên gặp nhiều nhất (76,5%). 72,5% bệnh nhân có biểu hiện ở cả 3 nhóm triệu chứng chính. Các triệu chứng tỉ lệ cao: Cảm giác tiểu không hết (82,4%), dòng tiểu yếu (79,4%), tiểu đêm (75,5%). 92,1% số bệnh nhân có IPSS mức độ vừa và...

pdf7 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 13/07/2023 | Lượt xem: 140 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và khảo sát nguyên nhân của các triệu chứngđường tiết niệu dưới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận – Niệu 159 NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ KHẢO SÁT NGUYÊN NHÂN CỦA CÁC TRIỆU CHỨNG ĐƯỜNG TIẾT NIỆU DƯỚI Nguyễn Khoa Hùng*, Nguyễn Vĩnh Lạc*, Lê Đình Khánh*, Lê Đình Đạm*, Nguyễn Xuân Mỹ* TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và khảo sát nguyên nhân của các triệu chứng đường tiết niệu dưới. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng gồm 102 bệnh nhân có biểu hiện của LUTS (theo định nghĩa ICS) đến khám tại phòng khám ngoại tiết niệu bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế từ 08/2017 đến 04/2018. Nghiên cứu cắt ngang mô tả không đối chứng. Kết quả: Tuổi trung bình là 64,8 ± 16,6 (15-92). Nhóm tuổi từ 60 trở lên gặp nhiều nhất (76,5%). 72,5% bệnh nhân có biểu hiện ở cả 3 nhóm triệu chứng chính. Các triệu chứng tỉ lệ cao: Cảm giác tiểu không hết (82,4%), dòng tiểu yếu (79,4%), tiểu đêm (75,5%). 92,1% số bệnh nhân có IPSS mức độ vừa và nặng, 71,6% đánh giá QoL từ 3-4. Nguyên nhân hàng đầu gây LUTS bao gồm tăng sinh lành tính tiền liệt tuyến (79,4%) và nhiễm khuẩn đường tiết niệu (7,8%). Kết luận: LUTS hiện diện khá phổ biến trên bệnh nhân cao tuổi. Triệu chứng phổ biến nhất là cảm giác tiểu không hết (82,4%). Nguyên nhân gây LUTS thường gặp nhất là tăng sinh lành tính tiền liệt tuyến (79,4%). Bệnh nhân đến khám khi các triệu chứng của LUTS đã trở nên nặng nề và gây ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống. Từ khóa: triệu chứng đường tiết niệu dưới, LUTS. ABSTRACT CLINICAL, LABORATORY FEATURES AND CAUSES OF LOWER URINARY TRACT SYMPTOMS Nguyen Khoa Hung, Nguyen Vinh Lac, Le Dinh Khanh, Le Dinh Dam, Nguyen Xuan My. * Ho Chi Minh City Journal Of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 4- 2018: 157 – 163. Objectives: To study the clinical features and evaluate causes of lower urinary tract symptoms. Materials and methods: This study included 102 patients of LUTS (ICS definition) attended the clinic of Urology in Hue University Hospital from 08/2017 to 04/2017. Descriptive cross-sectional study. Results: Average age was 64.8 ± 16.6 (15-92). The age group with most patients (76.5%) was from 60 years and above. 72.5% of the patients had symptoms of 3 main groups at the same time. Most prevalent symptoms: Incomplete emptying (82.4%), slow stream (79.4%) and nocturia (75.5%). 92.1% of the patients had moderate and severe IPSS, 71.6% evaluated QoL from 3-4. Top causes of LUTS were Benign prostatic hyperplasia (79.4%) and urinary tract infection (7.8%). Conclusion: LUTS were frequent in aged people. The most prevelent symptoms was imcomplete emptying (82.4%). Top cause of LUTS: Benign prostatic hyperplasia (79.4%). Patients attended the clinic when they had had severe LUTS and that had been affecting their health negatively. Keywords: lower urinary tract symptoms, LUTS. ĐẶT VẤN ĐỀ Thuật ngữ các triệu chứng đường tiết niệu dưới (Lower Urinary Tract Symptoms - LUTS) được giới thiệu đầu tiên vào năm 1994(2), để phân biệt các triệu chứng tiết niệu ở những bệnh nhân * Trường Đại học Y Dược Huế Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Khoa Hùng, Điện thoại: 0914019218 Email: ngkhhung@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Chuyên Đề Thận – Niệu 160 nam với những bệnh cảnh cụ thể khác, như là bệnh lý tiền liệt tuyến (Tăng sinh lành tính tiền liệt tuyến là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra các triệu chứng đường tiểu dưới ở nam giới. Nó phổ biến đến mức trước đây người ta gọi LUTS bằng thuật ngữ “hội chứng tiền liệt tuyến” (“prostatism”)(4,5). Sau đó thuật ngữ này được mở rộng ra, không giới hạn về giới tính hay cơ quan cụ thể, đôi khi liên quan đến tuổi và có tính chất tiến triển(7).Năm 2002, Hiệp hội Tiểu không tự chủ thế giới (International Continence Society - ICS) cập nhật định nghĩa mới nhất về LUTS(3), kể từ đó, nhiều nghiên cứu sử dụng các định nghĩa này theo ICS như một chuẩn mực để báo cáo trên toàn thế giới. LUTS xuất hiện chung trên cả nam lẫn nữ, đặc biệt ở người già. LUTS ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng sức khỏe cuộc sống của bệnh nhân và gây tốn kém trong điều trị(5). Dự đoán đến năm 2018, sẽ có khoảng 2,3 tỉ người trên thế giới mắc ít nhất 1 triệu chứng của LUTS. Hiện nay, LUTS là một trong những lí do đến khám phổ biến tại phòng khám ngoại tiết niệu bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế. Tuy nhiên, tại đây chưa có nghiên cứu tổng thể về tỉ lệ các nhóm triệu chứng và từ đó góp phần định hướng chẩn đoán nguyên nhân của LUTS. Báo cáo này đề cập khái quát đến tình trạng biểu hiện LUTS trên lâm sàng và khảo sát nguyên nhân gây LUTS trên những bệnh nhân đến khám tại đây. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu 102 bệnh nhân đến khám tại phòng khám ngoại tiết niệu bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế từ tháng 8 năm 2017 đến tháng 4 năm 2018. Bệnh nhân có ít nhất 1 biểu hiện của LUTS phù hợp với định nghĩa của ICS năm 2002(3), các triệu chứng xuất hiện đầu tiên, xuyên suốt ít nhất 1 tháng trước ngày khám. Loại trừ bệnh nhân không có năng lực nhận thức và hành vi. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang, mô tả lâm sàng không đối chứng. Nội dung nghiên cứu Đặc điểm chung của đối tượng Bao gồm các đặc điểm về tuổi, giới. Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng Theo ICS, LUTS được chia thành 3 nhóm: nhóm triệu chứng liên quan đến lưu trữ nước tiểu (storage symptoms), nhóm triệu chứng tắc nghẽn (voiding symptoms) và nhóm triệu chứng sau đi tiểu (post-micturition symptoms)(3,5,15). Trong nghiên cứu này chúng tôi kí hiệu các nhóm như sau: Nhóm 1 (Nhóm triệu chứng liên quan đến lưu trữ nước tiểu): Tiểu nhiều lần; tiểu đêm; tiểu gấp; tiểu không tự chủ (bao gồm tiểu không tự chủ do gắng sức, tiểu không tự chủ kèm tiểu gấp, tiểu không tự chủ hỗn hợp, đái dầm, tiểu không tự chủ liên tục và các loại tiểu không tự chủ khác). Nhóm 2 (Nhóm triệu chứng tắc nghẽn): Dòng tiểu yếu, dòng tiểu bị chia tách, tiểu ngắt quãng, khó khi bắt đầu tiểu, phải rặn khi đi tiểu, nước tiểu nhỏ giọt vào cuối pha đi tiểu. Nhóm 3 (Nhóm triệu chứng sau đi tiểu): Cảm giác tiểu không hết, són nước tiểu sau khi vừa tiểu xong. Sử dụng thang điểm IPSS đánh giá mức độ của triệu chứng đường tiểu dưới, được công nhận và khuyến cáo cho các bệnh nhân có biểu hiện LUTS, kể cả bệnh nhân là nữ giới(5,14). Khám lâm sàng: Khám cầu bàng quang, khám cơ quan sinh dục, khám trực tràng. Chỉ định cận lâm sàng Tùy theo tình trạng bệnh nhân và hướng chẩn đoán của bác sĩ mà đưa ra những chỉ định cận lâm sàng thích hợp, trong khuôn khổ nghiên cứu này, chúng tôi đưa vào các kết quả cận lâm sàng để báo cáo bao gồm xét nghiệm nước tiểu, siêu âm bụng, niệu dòng đồ, thể tích nước tiểu tồn dư sau tiểu. Đối với niệu dòng đồ, chúng tôi khảo sát các thông số bao gồm tốc độ dòng chảy tối đa (Qmax), tốc độ dòng chảy trung bình (Qave) và các dạng niệu dòng đồ (có thể được chia thành 5 dạng(8) là dạng 1: niệu dòng đồ bình Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận – Niệu 161 thường, có dạng hình chuông; dạng 2: niệu dòng đồ tuyến tiền liệt, đồ thị biểu hiện một sự tắc nghẽn kéo dài do tuyến tiền liệt với giảm Qmax, giảm Qave; dạng 3: niệu dòng đồ biến động, đồ thị biểu hiện sự tắc nghẽn nặng mà nguyên nhân có thể là do sự lồi quá mức của thuỳ giữa tuyến tiền liệt vào lòng bàng quang, hẹp niệu đạo hoặc hẹp nặng miệng sáo; dạng 4: niệu dòng đồ gián đoạn, đồ thị này điển hình ở người bị rối loạn cơ vòng bàng quang do chấn thương tuỷ, sự lên xuống của đồ thị cho thấy sự co hay giãn của cơ thắt vân trên nền sự co cơ bàng quang; dạng 5: niệu dòng đồ cao nguyên, đồ thị chỉ ra có 1 sự tắc nghẽn liên tục, nó thể hiện tình trạng hẹp của niệu đạo). Khảo sát nguyên nhân gây LUTS. Sau khi thu thập số liệu, các nội dung phân tích của chúng tôi bao gồm: Đặc điểm chung của đối tượng: Các tỉ lệ về tuổi, giới. Đặc điểm lâm sàng: Tỉ lệ 3 nhóm triệu chứng chính, tỉ lệ các triệu chứng riêng lẻ, tỉ lệ các mức độ IPSS, QoL được đánh giá, các tỉ lệ bất thường trên thăm khám lâm sàng. Đặc điểm cận lâm sàng: Các kết quả bình thường, bất thường trên cận lâm sàng. Khảo sát các nguyên nhân gây LUTS: Thống kê các nguyên nhân gây LUTS trong nghiên cứu này và tỉ lệ các nguyên nhân đó. So sánh số liệu của nghiên cứu này với các nghiên cứu về LUTS trước đó. KẾT QUẢ Đặc điểm chung của đối tượng 102 bệnh nhân bao gồm 89 nam (87,3%) và 13 nữ (12,7%). Tuổi trung bình 64,8 ± 16,6. Bệnh nhân tuổi cao nhất 92 tuổi, bệnh nhân thấp tuổi nhất 15 tuổi. Nhóm tuổi từ 60 tuổi trở lên chiếm tỉ lệ xuất hiện triệu chứng cao nhất (76,5%). Tỉ lệ xuất hiện LUTS ở thành phố là 37,3%, ngoại thành là 62,7%. Đặc điểm lâm sàng Tổng quan 3 nhóm triệu chứng chính Các nhóm triệu chứng chính ít xuất hiện đơn độc mà xuất hiện phối hợp nhau, tỉ lệ lớn bệnh nhân có LUTS ở cả 3 nhóm triệu chứng chính (72,5%). Không có bệnh nhân nào có triệu chứng thuộc nhóm triệu chứng sau tiểu biểu hiện đơn độc (0%). Bảng 1. Tỉ lệ phân bố trên các nhóm triệu chứng chính Triệu chứng xuất hiện ở Số bệnh nhân Tỉ lệ % Chỉ N1 3 2,9 Chỉ N2 2 2 Chỉ N3 0 0 Chỉ N1 và N2 11 10,8 Chỉ N1 và N3 7 6,9 Chỉ N2 và N3 5 4,9 Cả N1, N2 và N3 74 72,5 Bất kì có N1 95 93,1 Bất kì có N2 92 90,2 Bất kì có N3 86 84,3 Trong nhóm các triệu chứng liên quan đến quá trình tồn trữ nước tiểu: Tiểu đêm có tỉ lệ cao nhất (75,5%), tiếp đến là tiểu nhiều lần (57,8%), tiểu gấp (29,4%), thấp nhất là tiểu không tự chủ (21,6%). Bảng 2. Các triệu chứng liên quan tiểu không tự chủ Triệu chứng Số bệnh nhân Tỉ lệ % Tiểu không tự chủ gắng sức 18 17,6 Tiểu không tự chủ kèm tiểu gấp 8 7,8 Tiểu không tự chủ hỗn hợp 4 3,9 Đái dầm 2 2 Tiểu không tự chủ liên tục 5 4,9 Tỉ lệ tiểu không tự chủ gắng sức cao nhất (17,6%), đái dầm có tỉ lệ thấp nhất (2%). Trong nhóm các triệu chứng tắc nghẽn: 79,4% bệnh nhân có dòng tiểu yếu, chiếm tỉ lệ cao nhất.t Nước tiểu nhỏ giọt vào cuối pha đi tiểu thấp nhất, chiếm tỉ lệ 36,3%. Trong nhóm các triệu chứng sau đi tiểu: Chủ yếu bệnh nhân có cảm giác tiểu không hết chiếm 82,4%, chỉ có 22,5% bệnh nhân són nước tiểu ngay sau đi tiểu. Đánh giá mức độ nặng của triệu chứng bằng thang điểm IPSS-QoL: Điểm IPSS tập trung chủ yếu ở mức độ vừa (49%) và mức độ nặng (43,1%). IPSS mức độ nhẹ chiếm 7,9%. IPSS trung bình 18,1 ± 7,7, biên độ 3 - 34. Điểm QoL: Các tỉ lệ cao nhất là khó khăn (4 điểm) 41,2%, tạm được (3 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Chuyên Đề Thận – Niệu 162 điểm) 30,4%. QoL trung bình 3,3 ± 1,0, biên độ 1 - 6. Bảng 3. Tỉ lệ các triệu chứng tắc nghẽn Triệu chứng Số bệnh nhân Tỉ lệ % Dòng tiểu yếu 81 79,4 Dòng tiểu bị chia tách 43 42,2 Tiểu ngắt quãng 48 47,1 Khó khi bắt đầu tiểu 52 51 Phải rặn khi đi tiểu 70 68,6 Nước tiểu nhỏ giọt vào cuối pha đi tiểu 37 36,3 Đặc điểm cận lâm sàng Xét nghiệm nước tiểu 34 bệnh nhân, bình thường 23,5%, bất thường liên quan đến sự thay đổi các chỉ số LEU và/hoặc NIT 58,8%, bất thường không liên quan đến LEU hay NIT 17,6%. Siêu âm bụng 45 bệnh nhân, 100% nữ giới không phát hiện bất thường. Ở nam giới: Thể tích tiền liệt tuyến trung bình là 29,9 ± 10,8 ml (biên độ 15 - 58 ml). Niệu dòng đồ 67 bệnh nhân, 65,7% có thể tích nước tiểu ≥ 150 ml. Qmax = 17,7 ± 7,8 ml/s (5,7 - 48,4), Qave = 7,9 ± 3,2 ml/s (3,1 - 16,3), niệu dòng đồ chủ yếu ở dạng 2 (40,9%) và dạng 4 (36,4%). Thể tích nước tiểu tồn dư sau tiểu trung bình là 88,8 ± 82,8 ml (biên độ 0 - 360 ml). Khảo sát các nguyên nhân gây LUTS Bảng 4. Tỉ lệ các nguyên nhân gây LUTS Nguyên nhân Số bệnh nhân Tỉ lệ % Tăng sinh lành tính tiền liệt tuyến 81 79,4 Nhiễm khuẩn đường tiết niệu 8 7,8 Không rõ nguyên nhân 7 6,9 Nhiễm khuẩn đường tiết niệu / Hẹp niệu đạo 2 2 Ung thư tiền liệt tuyến 1 1 Viêm bàng quang 1 1 Tăng sinh lành tính tiền liệt tuyến / Hẹp niệu đạo 1 1 Ung thư dương vật 1 1 Tổng 102 100 Nguyên nhân đơn độc phổ biến nhất là tăng sinh lành tính tiền liệt tuyến (79,4%), thứ hai là Nhiễm khuẩn đường tiết niệu (7,8%). Kết quả còn ghi nhận thêm 3 trường hợp (2,9%) chẩn đoán LUTS do nguyên nhân phối hợp. BÀN LUẬN Về đặc điểm chung của đối tượng Nghiên cứu của chúng tôi có tuổi trung bình là 64,8 ± 16,6 (15-92). Tỉ lệ xuất hiện triệu chứng tăng dần theo nhóm tuổi, cao nhất ở nhóm tuổi ≥60 (76,5%). Theo Nguyễn Khoa Hùng(11), 72,79% những bệnh nhân rối loạn tiểu tiện có độ tuổi từ 50 trở lên, tuổi trung bình là 59,18 ± 17,68 tuổi. Theo Irwin(9), độ phổ biến của LUTS tăng đáng kể theo độ tuổi, tỉ lệ LUTS cao đặc biệt ở độ tuổi ≥ 60. Chúng tôi thấy có sự tương đồng giữa các nghiên cứu. Về giới tính, trong nghiên cứ của chúng tôi tỉ lệ nam/nữ là 6,8/1. Theo Nguyễn Khoa Hùng(11), tỉ lệ nam/nữ là 4.9/1. Chúng tôi thấy điểm chung nam cao gấp nhiều lần nữ, có thể do sự tương đồng khi chọn lấy mẫu ở phòng khám ngoại tiết niệu. Về đặc điểm lâm sang Trong nghiên cứu của chúng tôi, đối với ba nhóm triệu chứng chính, bệnh nhân không biểu hiện LUTS đơn độc (tỉ lệ này chỉ có 4,9%) mà phối hợp các nhóm với nhau, đáng chú ý một tỉ lệ cao là 72,5% số bệnh nhân có biểu hiện LUTS ở cả ba nhóm triệu chứng chính. Các triệu chứng liên quan đến quá trình lưu trữ nước tiểu: Nghiên cứu của chúng tôi đưa ra kết quả: Tiểu đêm có tỉ lệ cao nhất (75,5%), tiếp đến là tiểu nhiều lần (57,8%). Theo Nguyễn Khoa Hùng(11), tỉ lệ tiểu đêm là 60,16%, tiểu nhiều lần 60,98%. Theo Chapple(6): Tiểu đêm có tỉ lệ cao nhất 36%. Tiểu nhiều lần 28%. Tiểu gấp 20%. Tiểu không tự chủ 14%. Chúng tôi nhận thấy có sự tương đương rằng trong nhóm các triệu chứng liên quan đến lưu trữ nước tiểu thì tiểu đêm là một triệu chứng phổ biến, có tỉ lệ cao. Xếp sau đó là tiểu nhiều, tiểu gấp và tiểu không tự chủ có tần suất xuất hiện giảm dần tương ứng. Các triệu chứng tắc nghẽn: Trong nghiên cứu của chúng tôi các triệu chứng tắc nghẽn xuất hiện với tần suất giảm dần như sau: dòng tiểu Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận – Niệu 163 yếu 79,4%, phải rặn khi tiểu 68,6%, khó khi bắt đầu tiểu 51%, tiểu ngắt quãng 47,1% dòng tiểu bị chia tách 42,2% và nước tiểu nhỏ giọt vào cuối pha đi tiểu 36,3%. Theo Nguyễn Khoa Hùng(11), ở bệnh nhân đến khám lần đầu, tiểu yếu có tỉ lệ 57,72%; ở bệnh nhân tái khám, tiểu yếu chiếm tỉ lệ 58,33%. Theo Nguyễn Trường An(12), tiểu ngắt quãng chiếm tỉ lệ 86,1%. Theo Chapple(6): Dòng tiểu yếu chiếm tỉ lệ 22%, dòng tiểu bị chia tách 22%, tiểu ngắt quãng 21%, khó khi bắt đầu tiểu 18%, phải rặn khi tiểu 18% và nước tiểu nhỏ giọt cuối pha chiếm 26%. Ở nhóm triệu chứng tắc nghẽn này, ngoài một số triệu chứng có tỉ lệ tương đương nhau, chúng tôi chưa nhận thấy một sự tương đồng nào trong các nghiên cứu. Các triệu chứng sau tiểu: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi: Cảm giác tiểu không hết chiếm 82,4%, són nước tiểu sau đi tiểu chiếm tỉ lệ 22,5%. Theo Nguyễn Trường An(12), cảm giác tiểu không hết chiếm 88,9%. Theo Chapple(6), có 26% cảm giác tiểu không hết và 7% són nước tiểu sau tiểu. Chúng tôi nhận thấy rằng cảm giác tiểu không hết là một triệu chứng có tỉ lệ cao, gấp nhiều lần so với són nước tiểu sau tiểu. Đa số các nghiên cứu trên cũng báo cáo kết quả phù hợp với kết quả của chúng tôi. Tổng kết ở cả ba nhóm triệu chứng chính, chúng tôi đưa ra kết quả các triệu chứng có tỉ lệ phổ biến nhất giảm dần như sau: Cảm giác tiểu không hết (82,4%), dòng tiểu yếu (79,4%), tiểu đêm (75,5%), phải rặn khi tiểu (68,6%) và tiểu nhiều lần (57,8%). So sánh với nghiên cứu của Irwin(9), tiểu đêm là triệu chứng phổ biến nhất. Theo Chapple(6), các triệu chứng phổ biến nhất bao gồm tiểu đêm, tiểu nhiều lần, cảm giác tiểu không hết và nước tiểu nhỏ giọt cuối pha. Chúng tôi thấy có những sự tương đồng. Đánh giá mức độ nặng của triệu chứng bằng thang điểm IPSS-QoL: Chúng tôi có nhận xét rằng trong nghiên cứu của chúng tôi điểm IPSS tập trung hầu như ở mức vừa và nặng, điểm QoL tập trung chủ yếu ở điểm 4 và 3, điều này có thể lí giải rằng bệnh nhân chịu đựng trong một thời gian, chỉ chấp nhận đi khám lúc triệu chứng đã tiến triển nặng nề. So sánh với nghiên cứu của Rao(13), chúng tôi thấy được sự tương đồng qua thang điểm IPSS với mức độ nhẹ chiếm tỉ lệ thấp, dao dộng từ 5,1% - 14,2% ở các nhóm tuổi, tỉ lệ này ở nghiên cứu của chúng tôi là 7,9%. Về đặc điểm cận lâm sàng Xét nghiệm nước tiểu Kết hợp với triệu chứng lâm sàng, các kết quả xét nghiệm nước tiểu hỗ trợ cho chúng tôi chẩn đoán nguyên nhân gây LUTS, chủ yếu là Nhiễm khuẩn đường tiết niệu. Chúng tôi khảo sát thể tích tiền liệt tuyến của 37 bệnh nhân nam thu được kết quả thể tích bình thường (< 30 ml) chiếm 56,7%. Trên lâm sàng những bệnh nhân này vẫn có biểu hiện của LUTS, đây có thể là kết quả của tuyến tiền liệt tăng sinh vào vùng trung tâm hoặc lấn vào vùng quanh niệu đạo tuyến làm các triệu chứng xuất hiện rõ và trầm trọng hơn. Kết quả của chúng tôi: Thể tích tiền liệt tuyến trung bình là 29,9 ± 10,8 ml (15-58ml). So sánh với nghiên cứu của Nguyễn Đặng Đình Thi(10), thể tích tiền liệt tuyến trước mổ trung bình là 47,2 ± 18,1 ml (17 ml - 102 ml). Dễ nhận thấy kết quả của chúng tôi có giá trị nhỏ hơn khá nhiều, chủ yếu là do đối tượng trong nghiên cứu của Nguyễn Đặng Đình Thi là những bệnh nhân được chỉ định mổ cắt tiền liệt tuyến nội soi qua niệu đạo, Qmax < 12 ml/s, IPSS > 12, QoL > 3; đó là những bệnh nhân có triệu chứng nặng nề. Niệu dòng đồ 44/67 bệnh nhân (65,7%) có thể tích nước tiểu ≥ 150 ml và 23/67 (34,3%) có thể tích nước tiểu < 150 ml. Theo Nguyễn Khoa Hùng(11), có 71,43% bệnh nhân được chỉ định đo niệu dòng đồ có thể tích nước tiểu tiểu được khi đo ≥ 150ml. Kết quả trên có thể là do nhiều bệnh nhân không thể nhịn tiểu được hay bệnh nhân có tắc nghẽn nặng với thể tích nước tiểu tồn lưu cao. Ngoài ra việc không sử dụng thuốc an thần, thuốc steroid ba ngày trước khi làm niệu Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Chuyên Đề Thận – Niệu 164 dòng đồ vẫn chưa được kiểm soát chặt chẽ. Theo yêu cầu của phép đo niệu dòng đồ, thể tích nước tiểu phải 150 ml thì phép đo mới có giá trị. Do đó chúng tôi chỉ đánh giá những kết quả có thể tích nước tiểu ≥ 150 ml. Trong nghiên cứu của chúng tôi, trung bình Qmax có giá trị 17,7 ± 7,8 ml/s, đây là giá trị nằm giữa được xem không có tắc nghẽn và nghi ngờ có tắc nghẽn. Giá trị trung bình Qave bằng 7,9 ± 3,2 ml/s. Theo Nguyễn Trường An trung bình Qave sau mổ là 9,42 ± 1,85 ml/s(12). Kết quả của chúng tôi thấp hơn, có lẽ là do đối tượng nghiên cứu của chúng tôi gồm những đối tượng đến khám lần đầu và những đối tượng đang điều trị nội khoa, trong khi đối tượng nghiên cứu của Nguyễn Trường An đều là những bệnh đã phẫu thuật. Thể tích nước tiểu tồn dư sau tiểu Ở nghiên cứu của chúng tôi, có 9/29 bệnh nhân (31%) có lượng thể tích < 50 ml, 20/29 (69%) có lượng thể tích ≥ 50 ml. Như vậy thấy được số bệnh nhân nguy cơ cao triệu chứng tiến triển xấu chiếm đa số, với tỉ lệ hơn 2/3. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi trung bình là 88,8 ± 82,8 (ml) (0-360 ml). Theo Nguyễn Trường An(12), chỉ số PVR của bệnh nhân trước mổ có giá trị trung bình là 53,59 ± 38,56 (ml) (10 ml - 250 ml). Chúng tôi nhận thấy có sự chênh lệch rất lớn. Để giải thích cho điều này thứ nhất là sự khác nhau về đối tượng nghiên cứu, các đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là các bệnh nhân thuộc hai giới có LUTS đến khám, còn nghiên cứu của Nguyễn Trường An có đối tượng là các bệnh nhân tăng sinh lành tính tiền liệt tuyến có biến chứng. Thứ hai là kỹ thuật đo, chỉ số PVR ở các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi được đo sau khi bệnh nhân tiểu khi đo niệu dòng đồ, một số bệnh nhân báo cáo rằng không thể tiểu hết vì cảm thấy không thoải mái do có bác sĩ giám sát lúc tiểu, dẫn đến lượng nước tiểu tồn dư nhiều. Về các nguyên nhân gây LUTS Trong nghiên cứu này của chúng tôi, các nguyên nhân được chẩn đoán với tỉ lệ cao nhất là: Tăng sinh lành tính tiền liệt tuyến (79,4%), Nhiễm khuẩn đường tiết niệu (7,8%), nguyên nhân không rõ (6,9%). Chúng tôi nhận thấy trong 3 trường hợp chẩn đoán nguyên nhân phối hợp thì cả 3 trường hợp đều có bệnh kèm là hẹp niệu đạo (3,9%). Về nguyên nhân tăng sinh lành tính tiền liệt tuyến, nếu tính thêm 1 trường hợp phối hợp thì có tỉ lệ 80,4% trong tổng số 102 bệnh nhân và chiếm đến 92,1% nếu tính riêng trên tổng số 89 bệnh nhân nam. Theo Rao và cs.(13), trong 1329 bệnh nhân nam đến phòng khám vì LUTS, có 480 bệnh nhân (36%) được xác định nguyên nhân cụ thể, trong đó bao gồm: hẹp niệu đạo 43%, tăng sinh lành tính tiền liệt tuyến 40%, bệnh lí bàng quang thần kinh 8,8%, các bệnh lí khác 8,2%. 849 bệnh nhân còn lại không tìm ra nguyên nhân. Có nhiều nguyên nhân có thể gây nên LUTS như bất thường về cấu trúc hay chức năng của tiền liệt tuyến (nam giới), niệu đạo, bàng quang hoặc cơ vòng. Ở nam giới, nguyên nhân phổ biến nhất là tăng sinh lành tính tiền liệt tuyến. Các nguyên nhân khác có thể là bàng quang tăng hoạt, Nhiễm khuẩn đường tiết niệu, viêm tiền liệt tuyến, ung thư tiền liệt tuyến, u bàng quang, các bệnh lí thần kinh, yếu cơ hoạt cơ tăng hoạt động(8,1). Ở phụ nữ từ tuổi trung niên, nguyên nhân gây LUTS còn có liên quan đến độ tuổi, thai nghén, sinh nở, sa sinh dục, bệnh lý thần kinh, và mãn kinh (sự suy giảm estrogen)(14). Có thể chia các nguyên nhân gây LUTS thành hai nhóm, nhóm nguyên nhân gây triệu chứng lưu trữ (storage symptoms) và nhóm nguyên nhân gây triệu chứng tắc nghẽn (voiding symptoms). KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 102 bệnh nhân có các biểu hiện của các triệu chứng đường tiết niệu dưới phù hợp với định nghĩa của ICS 2002 đến khám tại phòng khám ngoại tiết niệu bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế từ tháng 8/2017 đến tháng 4/2018, chúng tôi thấy rằng: Tỉ lệ xuất hiện triệu chứng tăng dần theo nhóm tuổi, cao nhất ở nhóm tuổi ≥ 60 (76,5%). Tỉ lệ nam cao gấp gần 7 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận – Niệu 165 lần nữ. Biểu hiện chủ yếu của LUTS là phối hợp các nhóm với nhau, phổ biến nhất là ở cả ba nhóm (72,5%). Triệu chứng có tỉ lệ phổ biến nhất là cảm giác tiểu không hết (82,4%). Bệnh nhân đến khám khi các triệu chứng của LUTS đã trở nên nặng nề và gây ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống. Nguyên nhân hàng đầu của LUTS là tăng sinh lành tính tiền liệt tuyến (79,4%). Có đến gần 7% không xác định được nguyên nhân. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. “Lower urinary tract symptoms in men: management”, NICE guideline. https://www.nice.org.uk/guidance. 2. Abrams P (1994), “New words for old: lower urinary tract symptoms for “prostatism””, BMJ, vol. 308, 9 April 1994. 3. Abrams P et al. (2002), “The standardisation of terminology in lower urinary tract function: Report from the standardisation sub-committee of the International Continence Society”, Neurourol.Urodyn, 21(2):167-178 (2002 Wiley) Urology, 61: 37-49, (2003 Elsevier). 4. Berman David M, Rodriguez R, Veltri RW (2012), “Development, Molecular Biology, and Physiology of the Prostate”, Campbell Walsh urolog, pp. 2535-2568. 5. Chapple C and Abrams P (2012), “Male Lower Urinary Tract Symptoms (LUTS)”, Société Internationale d’Urologie (SIU). https://www.siu-urology.org/themes/web/assets/files/ICUD/pdf. 6. Chapple C et al. (2017), “Prevalence of Lower Urinary Tract Symptoms in China, Taiwan, and South Korea: Results from a Cross-Sectional, Population-Based Study”, Adv Ther, 34:1953- 1965. 7. Chapple CR, Wein AJ, Abrams P et al. (2008), “Lower Urinary Tract Symptoms Revisited: A Broader Clinical Perspective”, European Association of Urology, 54(3):563-9, doi:10.1016/.eururo.2008.03.109. 8. Gravas S et al. (2014), “Guidelines on the Management of Non- Neurogenic Male Lower Urinary Tract Symptoms (LUTS), incl. Benign Prostatic Obstruction (BPO)”, European Association of Urology, https://pdfs.semanticscholar.org/3835/7a068f6994f622f88f411d99 8211b44c12ec.pdf 9. Irwin DE. et al. (2006), “Population-Based Survey of Urinary Incontinence, Overactive Bladder, and Other Lower Urinary Tract Symptoms in Five Countries: Results of the EPIC Study”, European Association of Urology, 50(6):1306-14 10. Nguyễn Đặng Đình Thi, Nguyễn Trường An, Lê Đình Khánh, Hoàng Văn Tùng và cs. (2011), "Khảo sát mối tương quan giữa khối lượng mô tuyến cắt được và kết quả điều trị phì đại lành tính tuyến tiền liệt bằng nội soi qua niệu đạo thông qua IPSS, QoL, Uroflowmetry", Tạp chí Y học thực hành - Số 769+770, tr. 196-205. 11. Nguyễn Khoa Hùng, Lê Đình Khánh, Võ Minh Nhật (2015), "Nghiên cứu chỉ định và kết quả đo niệu dòng đồ tại phòng khám ngoại tiết niệu", Y học thành phố Hồ Chí Minh, tập 19, số 4, tr. 302-308, 2015. 12. Nguyễn Trường An (2008), “Đánh giá kết quả phẫu thuật cắt u lành tính tuyến tiền liệt bằng nội soi qua niệu đạo”, Y học TP. Hồ Chí Minh, 12(4), tr.187-189. 13. Rao CN, Singh MK, Shekhar T, Venugopal K, Prasad MR, Saleem KL, Satyanarayana U (2004), “Causes of lower urinary tract symptoms (LUTS) in adult Indian males”, Indian J Urol, 20:95-100. 14. Takahashi S et al. (2016), “Clinical Guideline for Female Lower Urinary Tract Symptoms”, LUTS, 8, 5-29. 15. Yamanishi T (2004), “Lower Urinary Tract Symptoms (LUTS) in Middle-Aged and Elderly Men”, JMAJ, 47(12): 543–548. Ngày nhận bài báo: 10/05/2017 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/06/2018 Ngày bài báo được đăng: 20/07/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_dac_diem_lam_sang_can_lam_sang_va_khao_sat_nguyen.pdf