Tài liệu Nghiên cứu chọn tạo dòng cà phê vối có khả năng kháng đối với loài tuyến trùng gây hại chính dùng làm gốc ghép cho các giống cà phê thương mại: VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
NGHIÊN CỨU CHỌN TẠO DÒNG CÀ PHÊ VỐI
CÓ KHẢ NĂNG KHÁNG ĐỐI VỚI LOÀI TUYẾN TRÙNG GÂY HẠI CHÍNH
DÙNG LÀM GỐC GHÉP CHO CÁC GIỐNG CÀ PHÊ THƯƠNG MẠI
Lê Ngọc Báu, Đinh Thị Tiếu Oanh,
Lê Đăng Khoa và ctv.
Viện KHKT Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên
SUMMARY
Studying on selection of the coffee varieties for resistance and tolerance
to coffee parasitic nematodes - implication for those being the rootstocks
of the trading coffee varieties
With an annual production of 1.3 million tons of Robustageen coffee beans per year, the coffee is
now a key exporter of the agricultural products in Vietnam. But a loss of the coffee yields caused by
coffee nematodes is extremmely high. It is due to coffee nematodes attack the coffee root system and
reducing its mechanical and physiological function. In this study, we have been selecting some coffee
varieties for resistance and tolerance to coffee parasitic nematodes since 2009. The findings of our study
...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 231 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu chọn tạo dòng cà phê vối có khả năng kháng đối với loài tuyến trùng gây hại chính dùng làm gốc ghép cho các giống cà phê thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
NGHIÊN CỨU CHỌN TẠO DÒNG CÀ PHÊ VỐI
CÓ KHẢ NĂNG KHÁNG ĐỐI VỚI LOÀI TUYẾN TRÙNG GÂY HẠI CHÍNH
DÙNG LÀM GỐC GHÉP CHO CÁC GIỐNG CÀ PHÊ THƯƠNG MẠI
Lê Ngọc Báu, Đinh Thị Tiếu Oanh,
Lê Đăng Khoa và ctv.
Viện KHKT Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên
SUMMARY
Studying on selection of the coffee varieties for resistance and tolerance
to coffee parasitic nematodes - implication for those being the rootstocks
of the trading coffee varieties
With an annual production of 1.3 million tons of Robustageen coffee beans per year, the coffee is
now a key exporter of the agricultural products in Vietnam. But a loss of the coffee yields caused by
coffee nematodes is extremmely high. It is due to coffee nematodes attack the coffee root system and
reducing its mechanical and physiological function. In this study, we have been selecting some coffee
varieties for resistance and tolerance to coffee parasitic nematodes since 2009. The findings of our study
showed that the P.coffeae was delineated as a key parasite nematode on coffee root system in Central
Highland. By taking up the serial buds of the well -gowing coffee trees in some regions really infected by
coffee nematodes, there were 148 coffee clones collected and planted in the WASI mother garden. 75 of
those clones have been evaluating of their ability in nematode resistance and tolerance in conditions of
the net - house. There were 6 clones (34/2, 10/24, N.Tren, R2D1/42, DuocC2 and HienC1)gowing very
well in the infectedgound. The clones named 34/2 and 10/24 were defined as P. coffeae tolerance
sources because theygew fantastically even if inoculated with 3.000 - 4.000 P.coffeae/pot.
Keywords: Coffee nematode, tolerance, Pratylenchus coffeae.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ*
Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê đứng thứ
hai trên thế giới, với sản lượng cà phê vối hàng
năm khoảng 1,3 triệu tấn. Tuy nhiên, bệnh vàng
lá thối rễ cà phê hiện nay đang là mối quan tâm
của Ngành Cà phê Việt Nam. Đặc biệt ở nước ta
hiện nay khi diện tích tái canh cây cà phê ngày
càng tăng thì tình hình bệnh vàng lá thối rễ càng
trở nên nghiêm trọng hơn và gây những thiệt hại
to lớn về kinh tế cho người trồng cà phê. Một số
kết quả nghiên cứu cho thấy: Nguyên nhân gây ra
bệnh là do có sự phối hợp giữa tuyến trùng ký
sinh Pratylenchus coffeae (P. coffeae) và một số
loại nấm Fusarium sp. Tuyến trùng tấn công gây
tổn thương rễ làm cho nấm xâm nhập gây ra triệu
chứng thối rễ (Phan Quốc Sủng và cộng sự,
2001). Có nhiều biện pháp phòng trừ bệnh vàng
lá, thối rễ cà phê, tuy nhiên biện pháp phòng trừ
tổng hợp (IPM - Integrated Pest Management)
vẫn được xem là hiệu quả cao và ít gây ảnh
hưởng tới môi trường sống xung quanh. Một
trong những biện pháp tác động của IPM là dùng
Người phản biện: TS. Đào Thị Lan Hoa.
các giống có khả năng chống chịu hoặc kháng
được bệnh. Biện pháp này đã được áp dụng ở
nhiều nước trên thế giới và cho hiệu quả tốt. Mặc
dù cần nhiều thời gian, nguồn lực và kinh phí
nhưng là giải pháp mang tính bền vững, có hiệu
quả cao về mặt kinh tế, xã hội và môi trường với
mục tiêu:
- Chọn lọc được một số vật liệu cà phê làm
gốc ghép có khả năng kháng với loài tuyến trùng
gây hại chính nhằm phục vụ cho việc tái canh tác
cà phê ở Tây Nguyên, góp phần đảm bảo cho
Ngành Cà phê Việt Nam phát triển ổn định và
bền vững.
- Chọn được 1 - 2 vật liệu giống cà phê có khả
năng kháng với tuyến trùng gây hại chính dùng
làm gốc ghép cho các giống cà phê thương mại.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu
- Các vật liệu giống (chồi) được thu thập trên
đồng ruộng tại các vùng cà phê bị bệnh, gồm 148
vật liệu, được giâm cành để đánh giá tính kháng
tuyến trùng. Hai vật liệu 34/2 và 10/24 được kế
634
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ nhất
thừa từ kết quả của đề tài “Điều tra nghiên cứu
hội chứng vàng lá cà phê và biện pháp phòng
trừ” năm 2001 do Viện KHKT Nông Lâm nghiệp
Tây Nguyên thực hiện.
- Nguồn đất nhiễm tuyến trùng được thu thập
từ các vùng trồng cà phê tại huyện Cư Kuin -
Đắk Lắk. Sau đó cho trồng cà phê trên đất bệnh
trong nhà lưới. Nguồn tuyến trùng P. coffeae
được ly trích từ rễ cây cà phê bị bệnh và được
nuôi cấy trên môi trường đĩa cà rốt trong điều
kiện phòng thí nghiệm.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp định danh tuyến trùng
Pratylenchus coffeae gây hại cà phê
* Phương pháp định danh tuyến trùng
P. coffeae bằng hình thái
Những quần thể tuyến trùng ký sinh vùng rễ có
tần suất xuất hiện trong các mẫu rễ cà phê nhiều
nhất (chiếm khoảng 75 - 82 %) được được phân lập
từ 4 tỉnh Tây Nguyên. Các quần thể tuyến trùng này
được nhân nuôi trên môi trường mô sẹo cà rốt. Sau
đó 20 cá thể đực và cái của mỗi quần thể được cố
định và làm tiêu bản (dựa theo phương pháp của De
Grisse, 1969) để theo dõi. Các mẫu tuyến trùng
được cố định, quan sát dưới kính hiển vi điện tử và
được định danh theo khóa phân loại của hai tác giả
Castillo và Volvlas (2007).
* Phương pháp định danh tuyến trùng bằng
sinh học phân tử:
Tách chiết DNA của các quần thể tuyến
trùng này được thực hiện theo mô tả của tác giả
Waeyenberge và cộng sự (2000). Trình tự của hai
vùng ITS của ribosomal DNA được sử dụng với
cặp mồi TW81 (5′ - GTTTCCGTAGGT
GAACCTGC - 3′) và cặp mồi AB28 (5′ -
ATATGCTTAAGTTCAGCGGGT - 3′). Trình tự
của mỗi vùng được hoàn thiện với chương trình
Chromas 2.00 và BioEdit 7.0.4.1 (Hall, 1999).
Để thiết lập mối quan hệ của các quần thể
P. coffeae với vùng ITS các trình tự khác sẵn có
trên genbank của các loài gần gũi thuộc giống
Pratylenchus, hai loài Belonolaimus euthychilus
and Belonolaimus longicaudatus được sử dụng
làm outgroup theo Subbotin và cộng sự (2008).
Chương trình Clustal X 1.64 được sử dụng cho
việc bắt cặp các trình tự. Các trình tự được so
sánh theo phương pháp phân tích Bayesian (BI).
BI được phân tích bằng chương trình MrBayes
3.1.2. Cây tiến hóa được sử dụng với chương
trình Treeview 1.6.6.
2.2.2. Đánh giá nhanh khả năng kháng tuyến
trùng của các thực liệu giống trên nền đất bệnh
trong điều kiện nhà lưới
* Phương pháp đánh giá nhanh khả năng
kháng của vật liệu giống trên nền đất nhiễm bệnh
Nguồn đất nhiễm tuyến trùng được thu thập
từ các vùng trồng cà phê trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk. Vật liệu giống được giâm cành đạt 3 - 4 cặp
lá và được trồng dày trên đất nhiễm tuyến trùng.
Thí nghiệm được bố trí theo kiểu khối ngẫu nhiên,
mỗi vật liệu là một công thức, mỗi công thức 7
cây, 5 lần lặp lại. Theo dõi các chỉ tiêu: Sinh
trưởng; mật độ tuyến trùng trước và sau khi trồng
3, 6, 9 và 12 tháng; tỷ lệ cây chết. Mức độ nhiễm
bệnh: phân cấp bệnh theo Theiler R. (1998): Cấp
1: Cây rất khỏe, sinh trưởng mạnh, lá xanh thẫm;
Cấp 2: Cây khỏe, sinh trưởng ít mạnh so với cấp 1,
lá xanh vàng; Cấp 3: Cây xấu, sinh trưởng chậm
hoặc không sinh trưởng, lá vàng xanh; Cấp 4: Cây
đang héo, lá rũ màu vàng; Cấp 5: Cây chết.
Mức độ nhiễm bệnh được tính theo công thức:
CSB (%) = a b 100 N T
Trong đó: ∑ (a b): Tổng của tích số cây nhiễm bệnh với cấp bệnh
tương ứng.
N: Tổng số cây được điều tra.
T: Cấp bệnh rụng quả cao nhất.
* Phương pháp lây nhiễm tuyến trùng nhân
tạo trong điều kiện nhà lưới:
Cây cà phê con giâm cành trong bầu đất (15
25cm), khi cây đạt 3 - 4 cặp lá sẽ được lây
nhiễm tuyến trùng. Nguồn tuyến trùng được ly
trích từ các đĩa cà rốt nuôi cấy. Sau hai tháng lây
nhiễm, cây con sẽ được cấy chuyển sang chậu đất
sạch bệnh để tiếp tục theo dõi. Thí nghiệm bố trí
theo khối ngẫu nhiên, 3 công thức (CT), mỗi
công thức 30 cây tương ứng 3 lần lặp lại. CT1:
Vật liệu được lây nhiễm tuyến trùng; CT2: Vật
liệu không lây nhiễm tuyến trùng; CT3: Cà phê
635
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
chè mẫn cảm với tuyến trùng. Mật độ tuyến trùng
lây nhiễm/bầu cây con từ 3.000 - 4.000
(con/bầu), lây nhiễm 2, mỗi lần cách nhau 10
ngày. Các chỉ tiêu theo dõi: Sinh trưởng của cây
con sau khi lây nhiễm 5, 8, 12 và 14 tuần; trọng
lượng rễ tơ; mật độ tuyến trùng P. coffeae trong
rễ (con/5g rễ), trong đất (con/100g đất); tỷ lệ cây
có biểu hiện triệu chứng vàng lá thối rễ (%).
2.2.3. Đánh giá lại trên đồng ruộng các vật liệu
kháng tuyến trùng dùng làm gốc ghép cho các
giống cà phê vối thương mại
Thí nghiệm được bố trí tại huyện Cư Kuin
và huyện Cư M’gar - Đắk Lắk. Hai vật liệu làm
gốc ghép là 34/2 và 10/24, ghép cho 2 giống cà
phê vối thương mại là TR4 và TR9, giống làm
đối chứng TR9 (giâm cành) và giống sản xuất
đại trà. Thí nghiệm bố trí theo kiểu khối đầy đủ
ngẫu nhiên, 3 lần lặp lại, mỗi công thức 45 cây
và mỗi ô cơ sở 15 cây. Theo dõi các chỉ tiêu
sinh trưởng; mật độ tuyến trùng trong đất và rễ,
tỷ lệ cây vàng lá, chết.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Định danh tuyến trùng Pratylenchus
coffeae gây hại chính trên cà phê
Đặc điểm hình thái P. coffeae (Hình 1) của 5
quần thể đã được kiểm tra cho thấy sự phù hợp
với mô tả gốc và những nghiên cứu trước đó về
loài P. coffeae (Inserra và cộng sự, 2007). Kết
quả quan sát và mô tả đặc điểm hình thái của 5
quần thể tuyến trùng Pratylenchus coffeae đã chỉ
ra rằng: Hình dạng đuôi và mút đuôi của các
quần thể P. coffeae là rất đa dạng. Sự phân tách
của các loài về mặt hình thái được dựa chủ yếu
trên vùng môi (Inserra và cộng sự 2001). Có một
số đặc điểm phân loại rất dễ nhầm lẫn giữa các
loài như: Đuôi nửa bán cầu với mút đuôi nhẵn, số
lượng vòng đầu, chiều dài thực quản... Trên thực
tế, có rất ít sự khác nhau về hình thái giữa các
loài P. coffeae, P. jaehni và P. pseudocoffeae.
Điều này dễ dẫn đến phân loại nhầm nếu có số
lượng ít mẫu được giám định. Để kết quả định
danh được chuẩn xác, tiếp tục tiến hành phân tích
đặc trưng phân tử và quan hệ di truyền vùng ITS
- rDNA của 5 quần thể tuyến trùng P. coffeae.
3.1.1. Hình thái của quần thể Pratylenchus coffeae
Hình 1. Cấu trúc hiển vi của loài P. coffeae thuộc
5 quần thể được kiểm tra
A: Vùng thực quản của con cái; B, C: Phần đuôi của con cái;
D: Phần thực quản của con đực;
E, F: Vùng bên ở giữa cơ thể; G, K: Đuôi con đực; H: Hệ sinh
sản con cái; L - N: Đuôi con cái (phổ biến).
Thước đo = 20 µm (A, H, I, J); Thước đo = 10 µm (B - G; K -
N).
3.1.2. Đặc trưng phân tử và quan hệ di truyền
vùng ITS - rDNA
Kết quả phân tích DNA cho thấy: Sản phẩm
chuỗi đơn DNA của 5 quần thể dài từ 750 - 780
bp. Kết quả giải trình tự đoạn gen 28SrDNA cho
thấy: Mức độ khác nhau giữa các quần thể
Pratylenchus coffeae được kiểm tra là rất thấp từ
0 đến 1,1%.
Hình 2. Sản phẩm PCR vùng 28S rDNA của 5 quần thể tuyến trùng P. coffeae
636
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ nhất
Bảng 1. Mức độ tương đồng của 5 quần thể Pratylenchus coffeae
dựa trên trình tự của đoạn gene 28S rDNA
Quần thể Đắk Lắk 1 Đắk Lắk 2 Gia Lai Đắk Nông Lâm Đồng
Đắk Lắk 1 100
Đắk Lắk 2 100 100
Gia Lai 99.7 99.7 100
Đắk Nông 99.7 99.7 99.4 100
Lâm Đồng 99.2 99.2 98.9 98.9 100
Mối liên quan của 5 quần thể tuyến trùng
P. coffeae với các loài tuyến trùng khác được
đánh giá thông qua việc phân tích BI (Hình 3).
Có thể thấy rằng: P. coffeae được phân tách rõ rệt
với quần thể của các loài P. hippeastri, P. loosi,
P. gutierrezi và P. pseudocoffeae. Nhánh của
P. coffeae được phân ra với 3 nhánh phụ. Năm
quần thể tuyến trùng P. coffeae được kiểm tra là
cùng nhóm với các quần thể P. coffeae đã được
công bố bởi Duncan và cộng sự (1999) và một
quần thể (EU130844) được công bố bởi Subbotin
và cộng sự (2008).
Hình 3. Tính đồng nhất (50 %) của cây phả hệ được dựa trên trình tự đoạn gen 28S rDNA của các
quần thể P. coffeae với một vài loài tuyến trùng Pratylenchus với là Belonolaimusgacilis and
B. longicaudatus. Phân tích Bayesian dựa trên mô hình GTR + I + G. Xác suất của mỗi nhánh được
đưa ra trên mỗi nhánh. Chữ được in đậm là các mẫu được kiểm tra
Bên cạnh đó, cây phả hệ dựa trên vùng
28S-rDNA chỉ ra rằng các loài P. coffeae là
paraphyletic bởi lẽ những loài P. coffeae có 3
vòng đầu cùng nằm trong nhánh của những loài
P. coffeae có 2 vòng đầu. Dựa trên các đặc điểm
hình thái và đặc trưng phân tử của các mẫu được
kiểm tra, có thể kết luận rằng các quần thể tuyến
trùng Pratylenchus được phân lập từ Tây Nguyên
(bao gồm Đắk Lắk 1, Đắk Lắk 2, Gia Lai, Lâm
Đồng và Đắk Nông) là loài P. coffeae.
637
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
3.2. Đánh giá nhanh khả năng kháng tuyến
trùng của các thực liệu giống trên nền đất
bệnh trong điều kiện nhà lưới
3.2.1. Kết quả đánh giá nhanh khả năng kháng
của các ký hiệu giống trên nền đất nhiễm tuyến
trùng trong nhà lưới
3.2.1.1. Thí nghiệm đánh giá 3 vật liệu trồng
năm 2010
Kết quả định danh tuyến trùng cho thấy rằng:
Quần thể tuyến trùng tại vùng Tây Nguyên chiếm
hầu hết là loài P. coffeae, do đó việc đánh giá
tính kháng tuyến trùng của các vật liệu thu thập
đều tập trung chủ yếu vào loài P. coffeae.
Kết quả đánh giá mức độ nhiễm bệnh của 3
vật liệu trên nền đất bệnh trong nhà lưới (bảng 2)
cho thấy: Vật liệu 34/2 và 10/24 có mức nhiễm
bệnh khá thấp, rõ nhất sau 12 tháng trồng ở 2 vật
liệu này có tỷ lệ nhiễm từ 13,3 - 16,5% và không
tăng hơn so với thời điểm sau 9 tháng trồng.
Trong khi đó, vật liệu LK29/6 bị nhiễm nặng và
tỷ lệ nhiễm bệnh sau 12 tháng tăng 62,3%.
Bảng 2. Mức độ nhiễm bệnh (%) của các vật liệu giống (trồng tháng 3/2010)
Vật liệu giống Sau 3 tháng Sau 6 tháng Sau 9 tháng Sau 12 tháng
H34/2 3,0 10,1 12,0 13,3
S10/24 5,1 9,5 16,0 16,5
LK29/6 19,0 34,2 45,0 62,3
Bảng 3. Mật độ tuyến trùng và tỷ lệ cây chết của các vật liệu giống (trồng 3/2010)
Sau 3 tháng Sau 6 tháng Sau 9 tháng Sau 12 tháng
KHG TLC
(%)
MĐTT
(con/5g rễ)
TLC
(%)
MĐTT
(con/5g rễ)
TLC
(%)
MĐTT
(con/5g rễ)
TLC
(%)
MĐTT
(con/5g rễ)
H34/2 0,0 32 8,0 64 13,3 64 13,3 96
S10/24 0,0 56 6,7 24 13,3 72 20,0 112
LK29/6 0,0 104 20,0 400 53,3 1.072 80,0 686
Ghi chú: TLC: Tỷ lệ cây chết; MĐTT: Mật độ tuyến trùng.
Theo dõi mật độ tuyến trùng trong rễ của
các vật liệu qua các tháng cho thấy: Khi mức
độ nhiễm bệnh gia tăng thì mật độ tuyến trùng
trong rễ cũng gia tăng và làm cho tỷ lệ cây chết
cao hơn. Ghi nhận qua các tháng theo dõi đều
cho kết luận về vật liệu LK29/6 là khá mẫn
cảm với tuyến trùng, tỷ lệ cây chết sau 12
tháng chiếm 80,0 %. Trong khi đó 2 vật liệu
34/2 và 10/24 có tỷ lệ cây chết thấp hơn nhiều
và chỉ chiếm 13,3 - 20,0 % trong cùng điều
kiện thí nghiệm. Hình 4. Đánh giá các vật liệu giống trên nền đất
bệnh trong điều kiện nhà lưới
3.2.1.2. Thí nghiệm đánh giá các vật liệu trồng năm 2011
Bảng 4. Mức độ nhiễm bệnh (%) của 4/19 vật liệu giống (trồng 6/2011)
Vật liệu giống Sau 3 tháng Sau 6 tháng Sau 9 tháng Sau 12 tháng
N.trên 10,3 14,5 26,0 28,0
R2D1/42 12,0 19,5 23,1 26,0
Được C2 7,1 22,0 27,0 29,1
Hiên C1 18,2 20,3 24,1 28,2
638
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ nhất
Tiếp tục đánh giá tính kháng của các vật
liệu thu thập từ vùng đất bệnh ngoài đồng
ruộng. Năm 2011 đã triển khai đánh giá nhanh
19 vật liệu và 53 vật liệu được tiếp tục đánh giá
năm 2012 (hiện 53 vật liệu chưa có kết quả).
Thí nghiệm trên 19 vật liệu giống trồng trên
nền đất bệnh năm 2011 cho thấy: Mức độ
nhiễm bệnh biến thiên khá lớn giữa các vật
liệu, tỷ lệ nhiễm tăng cao từ tháng thứ 6 sau
trồng và đạt từ 14,5 - 59,0%. Đến thời điểm sau
12 tháng trồng, có 15/19 vật liệu có tỷ lệ nhiễm
> 70% và biến thiên từ 70,4 - 94,0%. Riêng có
4 vật liệu có tỷ lệ nhiễm thấp < 30% là N.Trên,
R2D1/42, Được C2 và Hiên C1 (bảng 5) với
mức nhiễm từ 26,0 - 29,1%. Kết quả này cho
thấy 4 vật liệu trên bước đầu có sự khác biệt về
mức độ chống chịu tuyến trùng so với các vật
liệu cùng thí nghiệm.
Bảng 5. Mật độ tuyến trùng và tỷ lệ cây chết của 4/19 vật liệu triển vọng (trồng 6/2011)
Sau 3 tháng Sau 6 tháng Sau 9 tháng Sau 12 tháng
Vật liệu giống TLC
(%)
MĐTT
(con/5g rễ)
TLC
(%)
MĐTT
(con/5g rễ)
TLC
(%)
MĐTT
(con/5g rễ)
TLC
(%)
MĐTT
(con/5g rễ)
N. Trên 0,0 72 6,7 174 20,0 320 26,7 1.120
R2D1/42 0,0 56 13,3 120 20,0 168 20,0 1.752
Được C2 0,0 72 6,7 104 20,0 320 26,4 264
Hiên C1 0,0 112 20,0 96 26,7 424 26,7 960
Theo dõi mật độ tuyến trùng và tỷ lệ cây chết
sau 3 đến 12 tháng trồng (bảng 5) cho thấy, mật độ
tuyến trùng từ tháng thứ 9 - 12 có chiều hướng
tăng cao. Tuy nhiên 4 vật liệu trên có tỷ lệ cây
vàng lá, chết ổn định và thấp hơn rất nhiều so với
15 vật liệu còn lại. Bốn vật liệu có tỷ lệ cây chết
sau 12 tháng trồng dao động từ 20,0 - 26,7%,
trong khi đó các vật liệu khác có tỷ lệ cây chết lên
đến 73,3 - 86,7%. Ngoài ra, vật liệu N. Trên và
R2D1/42 còn tỏ ra chống chịu tốt và chịu được áp
lực bệnh cao trên nền đất có mật độ tuyến trùng từ
1.120 - 1.752 con/5g rễ sau 12 tháng trồng.
3.2.2. Kết quả lây nhiễm tuyến trùng trên 2 vật
liệu giống trong điều kiện nhà lưới
Từ kết quả đánh giá tính kháng trên nền đất
bệnh năm 2010, 2 vật liệu có khả năng chống
chịu tuyến trùng là 34/2 và 10/24 tiếp tục được
đưa vào thí nghiệm lây nhiễm tuyến trùng nhân
tạo trong điều kiện nhà lưới để đánh giá mức độ
kháng tuyến trùng. Đây là thí nghiệm đánh giá
khả năng chống chịu của vật liệu giống trong
điều kiện đất trồng có mật độ tuyến trùng
P. coffeae cao.
Bảng 6. Mật độ tuyến trùng P. coffeae trong đất và trong rễ sau khi lây nhiễm
Mật độ tuyến trùng trong rễ
(con/5g rễ) Mật độ tuyến trùng trong đất (con/100g đất) Vật liệu
giống
Công
thức
4 tuần 8 tuần 12 tuần 14 tuần 4 tuần 8 tuần 12 tuần 14 tuần
CT1 32 16 8 56 720 328 994 752
CT2 0 0 0 0 0 0 0 0 34/2
CT3 896 104 56 1.008 976 792 1.016 912
CT1 112 96 853 1.147 232 104 120 214
CT2 0 0 0 0 0 0 0 0 10/24
CT3 440 568 1.024 * 456 120 96 0
Ghi chú: CT1: Được lây nhiễm tuyến trùng; CT2: Không lây nhiễm tuyến trùng; CT3: Cà phê chè mẫn cảm với
tuyến trùng gây hại; dấu * thể hiện không có dữ liệu).
Kết quả kiểm tra sau khi lây nhiễm (bảng 6)
thấy rằng tuyến trùng trong đất và trong rễ cây cà
phê được lây nhiễm luôn biến động ở mật độ khá
cao qua các thời điểm theo dõi. Số lượng tuyến
trùng P. coffeae trong rễ cà phê 34/2, 10/24 và rễ
cà phê chè được ghi nhận khá lớn trong các thời
điểm theo dõi thí nghiệm. Dấu hiệu này cho thấy
khả năng tấn công gây hại của tuyến trùng
639
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
P. coffeae là rõ rệt. Mật độ tuyến trùng P. coffeae
ghi nhận trong rễ cà phê 34/2 và 10/24 luôn thấp
hơn so với rễ cà phê chè mẫn cảm ở các thời
điểm đánh giá khác nhau. Ở thí nghiệm trên vật
liệu 34/2, sau 14 tuần lây nhiễm mật độ tuyến
trùng trên rễ cà phê chè đạt rất cao (1.008 con/5g
rễ); Thí nghiệm trên vật liệu 10/24 thì chỉ sau 12
tuần lây nhiễm mật độ tuyến trùng trong rễ cà
phê chè đã được ghi nhật rất cao (1.024 con/5g
rễ). Điều này là nguyên nhân gây thối rễ, vàng lá
hàng loạt toàn bộ số cây cà phê chè trong thí
nghiệm (tỷ lệ vàng lá từ 86,7 - 100,0%).
Đối với vật liệu 10/24 được lây nhiễm tuyến
trùng P. coffeae cũng nhận thấy có mật độ tuyến
trùng rất cao trong rễ (1.147 con/5g rễ), tuy
nhiên không thấy sự khác biệt rõ rệt về hiện
tượng vàng lá thối rễ so với công thức không
được lây nhiễm tuyến trùng. Tỷ lệ vàng lá do
nhiễm bệnh ở vật liệu 34/2 và 10/24 có lây
nhiễm tuyến trùng là khá thấp (13,3 - 16,7%)
sau 14 tuần theo dõi. Cùng thời điểm này, số
cây cà phê chè trong thí nghiệm hầu hết đã bị
chết hoàn toàn.
Bảng 7. Tỷ lệ cây bị vàng lá sau khi lây nhiễm tuyến trùng của các vật liệu cà phê
Tỷ lệ vàng lá (%) tại các thời điểm theo dõi Vật liệu
giống Công thức 4 tuần 8 tuần 12 tuần 14 tuần
CT1 0,0 0,0 7,4 13,3
CT2 0,0 0,0 0,0 0,0 34/2
CT3 8,9 13,9 62,9 86,7
CT1 0,0 0,0 11,1 16,7
CT2 0,0 0,0 0,0 0,0 10/24
CT3 6,7 16,7 100,0 *
Ghi chú: CT1: Được lây nhiễm tuyến trùng; CT2: Không lây nhiễm tuyến trùng; CT3: Cà phê chè mẫn cảm với
tuyến trùng gây hại, dấu * thể hiện không có dữ liệu.
3.3. Đánh giá lại trên đồng ruộng các vật liệu có khả năng kháng tuyến trùng dùng làm gốc ghép
cho các giống cà phê vối thương mại
Bảng 8. Mật độ tuyến trùng trong đất, rễ thí nghiệm (trước trồng) tại Cư M’gar, Cư Kuin (năm 2012)
Mật độ tuyến trùng trong đất (con/100g đất) Mật độ tuyến trùng trong rễ (con/5g rễ) Địa điểm
Pra. Mel. Hoại sinh Pra. Mel. Hoại sinh
Cư M’gar 24 504 96 616 3.184 16
Cư Kuin 336 280 72 264 112 120
Hình 5. Đánh giá lại các vật liệu giống làm gốc ghép trên đồng ruộng
640
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ nhất
Kết quả khảo sát mật độ tuyến trùng trong
đất, rễ trước khi trồng bảng 8 cho thấy: vùng
đất tại Cư M’gar và Cư Kuin trước khi bố trí
thí nghiệm có mật độ tuyến trùng trong đất và
rễ cà phê cũ khá cao. Tại Cư M’gar, mật độ
trung bình trong đất thấp chỉ 24 con/100g đất
nhưng trong rễ rất cao, trung bình 616 con/5g
rễ. Cho thấy cây cà phê cũ trồng trên vùng đất
này đã bị nhiễm tuyến trùng P. coffeae. Vùng
đất tại Cư Kuin có mật độ tuyến trùng P.
coffeae trong rễ thấp hơn chỉ 264 con/5g rễ, tuy
nhiên mật độ tuyến trùng trong đất lại cao hơn
so với vùng Cư M’gar, như vậy tính tổng mật
độ tuyến trùng ban đầu trên vùng đất bệnh tại
Cư Kuin cũng khá cao (tổng số tuyến trùng trên
600 con).
Bảng 9. Mật độ tuyến trùng trong đất và rễ thí nghiệm trồng tại Cư M’gar và Cư Kuin
(sau 12 tháng trồng, n = 5)
Mật độ tuyến trùng
trong đất (con/100g đất)
Mật độ tuyến trùng
trong rễ (con/5g rễ) Địa điểm Vật liệu giống
Pra. Mel. Hoại sinh Pra. Mel. Hoại sinh
10/24 58 88 0,0 33 210 0
34/2 20 122 0,0 14 214 0
Đối chứng (TR9) 24 501 0,0 232 51 0
Huyện
Cư M’gar
Cà phê cũ 28 12 0,0 1.400 48 0
10/24 3 94 50 86 226 0
34/2 0 43 48 87 333 0
Đối chứng (TR9) 0 64 120 137 245 0
Huyện
Cư Kuin
Cà phê cũ 45 16 533 245 104 0
Bảng 10. Tỷ lệ cây vàng lá và chết của vật liệu thí nghiệm trồng tại Cư M’gar và Cư Kuin
(sau 12 tháng trồng)
Địa điểm Vật liệu giống Tỷ lệ cây vàng lá và chết (%)
10/24 11,1
34/2 12,5 Huyện Cư M’gar
Đối chứng 38,6
10/24 14,8
34/2 6,6 Huyện Cư Kuin
Đối chứng 22,7
Mật độ tuyến trùng ban đầu trên nền đất
bệnh tại Cư M’gar khá cao, mật độ tuyến trùng
này vẫn duy trì trong rễ cà phê cũ lên đến 1.400
con/5g rễ sau 12 tháng trồng. Thí nghiệm tại Cư
Kuin có mật độ tuyến trùng trong rễ cà phê cũ
thấp hơn ở Cư M’gar nhưng vẫn cao hơn khá
nhiều so với các vật liệu trong thí nghiệm. Hai
vật liệu làm gốc ghép ở cả 2 vùng thí nghiệm cho
thấy có mật độ tuyến trùng trong rễ thấp (trung
bình 14 - 87 con/5g rễ), trong khi đó giống đối
chứng đều có mật độ tuyến trùng cao hơn ở cả 2
vùng thí nghiệm (trung bình 137 - 232 con/5g rễ).
Tỷ lệ cây vàng lá, chết ở giống đối chứng cũng
được ghi nhận cao hơn 2 vật liệu 34/2 và 10/24
sau 12 tháng trồng. Như vậy, bước đầu cho thấy
rằng 2 vật liệu 34/2 và 10/24 làm gốc ghép có
nhiều triển vọng hơn so với giống đối chứng
trong cùng điều kiện thí nghiệm.
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
- Kết quả định danh các mẫu tuyến trùng gây
hại trên cà phê bằng biện pháp sinh học phân tử
chỉ ra rằng các quần thể tuyến trùng Pratylenchus
gây hại chính được phân lập từ vùng Tây Nguyên
là loài Pratylenchus coffeae.
- Bốn vật liệu giống (N. Trên, R2D 1/42,
Được C2 và Hiên C1) có khả năng chống chịu
khá tốt trên nền đất nhiễm tuyến trùng so với các
vật liệu khác trong cùng điều kiện thí nghiệm, tỷ
641
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
lệ cây chết sau 12 tháng trồng ổn định từ 20,0 -
26,7%. Trong khi các vật liệu khác có tủ lệ cây
chết trên 70%.
- Hai vật liệu giống 34/2 và 10/24 sau 14
tuần lây nhiễm tuyến trùng (3.000 - 4.000 con P.
coffeae/bầu) có khả năng chống chịu tốt, sinh
trưởng không khác biệt so với đối chứng không
lây nhiễm trong điều kiện nhà lưới.
- Đánh giá 2 vật liệu giống 34/2 và 10/24
dùng làm gốc ghép trên đồng ruộng bước đầu cho
thấy có sự sai khác về tỷ lệ cây vàng lá và chết so
với giống đối chứng.
4.2. Đề nghị
- Tiếp tục thực hiện các thí nghiệm lây
nhiễm tuyến trùng nhân tạo cho 4 vật liệu giống
đã đánh giá nhanh trên nền đất bệnh trong điều
kiện nhà lưới (N. Trên, R2D1/42, Được C2 và
Hiên C1). Đồng thời tiếp tục đánh giá nhanh các
vật liệu hiện đang được trồng trên nền đất bệnh
trong điều kiện nhà lưới.
- Tiếp tục theo dõi thí nghiệm đánh giá lại
vật liệu có khả năng kháng tuyến trùng dùng làm
gốc ghép trên đồng ruộng để có kết luận chính
xác về tính chống chịu của hai vật liệu 34/2 và
10/24.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Quốc Sủng và cộng sự (2001). Điều tra nghiên
cứu hội chứng vàng lá cà phê và biện pháp phòng
trừ. Báo cáo tổng kết - Đề tài độc lập cấp Nhà nước
(1997 - 2001) Bộ Khoa học Công nghệ và Môi
trường.
2. Castillo P. & Volvlas N. (2007). Pratylenchus
(Nematoda, Pratylenchidea): Diagnosis, biology,
phathogenicity and management. Nematology
Monogaphs and Perspective 6.
3. De Grisse A. T. (1969). Rédescription ou
modification de quelques techniques utilisées dans
l’étude des nématodes phytoparasitaires.
Mededelingen - Rijksfakulteit Landbouwetens-
chappen Gent 34: 351 - 369.
4. Duncan, L. W., Inserra, R. N., Thomas, W. K.,
Dunn, D., Mustika, I., Frisse, L. M., Mendes, M. L.,
Morris, K. and Kaplan, D. T. (1999). Molecular and
morphological analysis of isolates of Pratylenchus
coffeae and closely related species. Nematropica 29:
61 - 80.
5. Hall, T. A. (1999). BioEdit: a user - friendly
biological sequence alignment editor and analysis
program for Windows 95/98/NT. Nucleic Acids
Symposium Serial 41, 95 - 98.
6. Inserra, R. N., Trocoli, A., Gozel, U., Bernard, E. C.,
Dunn, D. and Duncan, L. W. (2007). Pratylenchus
hippeastri n. sp. (Nematoda: Pratylenchidae) from
amaryllis in Florida with notes on P. scribneri and
P. hexincisus. Nematology 9, 25 - 42.
7. Inserra, R. N., Duncan, L. W., Troccoli A., Dunn,
D., Maia dos Santos J., Kaplan, D. and Vovlas, N.
(2001). Pratylenchus jaehni sp. n. from citrus in
Brazil and its relationship with P. coffeae and P.
loosi (Nematode: Pratylenchidae). Nematology 3:
653 - 665.
8. Subbotin, S. A., Ragsdale, E. J., Mullens, T.,
Roberts, P. A., Mundo - Ocampo, M., and Baldwin,
J. G. (2008). A phylogenetic framework for root
lesion nematodes of the genus Pratylenchus
(Nematoda): Evidence from 18S and D2 - D3
expansion segments of 28S ribosomal RNA genes
and morphological characters. Molecular
Phylogenetics and Evolution 48, 491 - 505.
9. Waeyenberge, L., Ryss A. Y., and Moens M.
(2000). Molecular characterisation of 18
Pratylenchus species using rDNA Restriction
Fragment Length Polymorphism. Nematology 2,
135 - 142.
642
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_viet_199_918_2130517.pdf