Tài liệu Nghiên cứu chỉ định mổ nội soi cắt u mô đệm đường tiêu hoá ở dạ dày: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 139
NGHIÊN CỨU CHỈ ĐỊNH MỔ NỘI SOI
CẮT U MÔ ĐỆM ĐƯỜNG TIÊU HOÁ Ở DẠ DÀY
Lê Huy Lưu*, Nguyễn Hồng Sơn**, Phan Thành Nghĩa*, Lý Hữu Tuấn*, Nguyễn Văn Hải*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: U mô đệm đường tiêu hoá là các tổn thương bắt nguồn từ thành của ống tiêu hoá, điều trị triệt
để là phẫu thuật cắt bỏ. Phẫu thuật nội soi cắt các u mô đệm kích thước nhỏ ở dạ dày đã được chấp nhận rộng rãi
nhưng việc chỉ định cho u lớn hơn 5cm vẫn còn tranh cãi. Nghiên cứu này nhằm đánh giá tính khả thi và an toàn
của phẫu thuật nội soi cắt u mô đệm của dạ dày.
Phương pháp: 24 bệnh nhân trải qua phẫu thuật nội soi cắt u mô đệm của dạ dày từ tháng 1/2010 đến
tháng 8/2018 được đưa vào nghiên cứu. Các đặc điểm bệnh nhân, chẩn đoán hình ảnh, tổn thương trong mổ,
phương pháp mổ, diễn tiến sau mổ và kết quả giải phẫu bệnh được ghi nhận.
Kết quả:Phẫu thuật nội soi cắt hình chêm...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 198 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu chỉ định mổ nội soi cắt u mô đệm đường tiêu hoá ở dạ dày, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 139
NGHIÊN CỨU CHỈ ĐỊNH MỔ NỘI SOI
CẮT U MÔ ĐỆM ĐƯỜNG TIÊU HOÁ Ở DẠ DÀY
Lê Huy Lưu*, Nguyễn Hồng Sơn**, Phan Thành Nghĩa*, Lý Hữu Tuấn*, Nguyễn Văn Hải*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: U mô đệm đường tiêu hoá là các tổn thương bắt nguồn từ thành của ống tiêu hoá, điều trị triệt
để là phẫu thuật cắt bỏ. Phẫu thuật nội soi cắt các u mô đệm kích thước nhỏ ở dạ dày đã được chấp nhận rộng rãi
nhưng việc chỉ định cho u lớn hơn 5cm vẫn còn tranh cãi. Nghiên cứu này nhằm đánh giá tính khả thi và an toàn
của phẫu thuật nội soi cắt u mô đệm của dạ dày.
Phương pháp: 24 bệnh nhân trải qua phẫu thuật nội soi cắt u mô đệm của dạ dày từ tháng 1/2010 đến
tháng 8/2018 được đưa vào nghiên cứu. Các đặc điểm bệnh nhân, chẩn đoán hình ảnh, tổn thương trong mổ,
phương pháp mổ, diễn tiến sau mổ và kết quả giải phẫu bệnh được ghi nhận.
Kết quả:Phẫu thuật nội soi cắt hình chêm hoặc khoét u được thực hiện thành công trong 23/24 bệnh nhân.
Tuổi trung bình là 61 tuổi (45 - 83), nam chiếm ưu thế (19/24, 79%). 16 trường hợp có u lớn hơn 5cm. Không có
trường hợp nào bị vỡ u trong mổ, không có biến chứng nào đáng kể và không có tử vong. Thời gian mổ trung
bình là 139 phút (60 - 235). Nằm viện trung bình là 6 ngày (2 - 10). Tất cả đều có diện cắt an toàn.
Kết luận: Phẫu thuật nội soi cắt u mô đệm của dạ dày là phẫu thuật an toàn không chỉ cho u kích thước nhỏ
mà cho những trường hợp u có kích thước trên 5cm.
Từ khoá: U mô đệm đường tiêu hoá; Phẫu thuật nội soi; Cắt hình chêm.
ABSTRACT
STUDY ON THE INDICATION OF LAPAROSCOPIC RESECTION FOR GASTROINTESTINAL
STROMAL TUMORS OF THE STOMACH
Le Huy Luu, Nguyen Hong Son, Phan Thanh Nghia, Ly Huu Tuan, Nguyen Van Hai
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 6- 2018: 139 – 144
Background: Gastrointestinal stromal tumors (GIST) are lesions originated on digestive tract walls, which
are treated by surgical resection. Laparoscopic resection (LR) for small gastric gastrointestinal stromal tumors
(GIST) is now widely accepted, but its application for large (above 5 cm) GISTs remains controversial. This study
aims to evaluate the feasibility and safety of LR for gastric GISTs.
Methods: Between 1/2010 and 8/2018, 24 patients who underwent surgical treatment for primary GIST of
the stomach were enrolled in this study. Patient demographics, imaging studies, operative findings, methods of
laparoscopic resection, postoperative course and pathologic characteristics were examined.
Results: Laparoscopic partial wedge resections or tumor excisions were successfully performed on 23/24
patients.The median age was 61 (range 45 – 83) years and there were 19 males (79%). 16 cases had tumor size
above 5cm. No tumors were ruptured during surgical manipulation and no major morbidity or mortality. Mean
operative time was 139 min (60 - 235 min). Average lenght of hospital stay was 6 days (2 - 10 days). All patients
achieved complete R0 resection.
Conclusion: Laparoscopic GIST resection, not only for small lesions but also for tumors above 5 cm, is safe
technique.
* Đại học Y Dược Tp Hồ Chí Minh. - ** Khoa Ngoại Tiêu Hóa - Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Lê Huy Lưu ĐT: 0903945397 Email: lehuyluu@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 140
Keywords: Gastrointestinal stromal tumors; Laparoscopic resection; Wedge resection.
ĐẶT VẤN ĐỀ
U mô đệm đường tiêu hoá hay thường gọi
là GIST (Gastrointestinal stromal tumor) có thể
gặp ở bất cứ đâu dọc theo ống tiêu hoá, trong
đó dạ dày là vị trí phổ biến nhất (60%)(15). Khi
u khu trú ở dạ dày, phẫu thuật cắt bỏ là lựa
chọn điều trị tối ưu và là cách điều trị triệt để
duy nhất(5). Phẫu thuật cần đảm bảo 2 nguyên
tắc đó là không làm vỡ u và bờ cắt phải an
toàn về vi thể. GIST thường xuất phát từ lớp
dưới niêm và có xu hướng phát triển trồi ra
khỏi thành ống tiêu hoá hơn là dạng thâm
nhiễm. Chúng cũng ít khi di căn hạch cho nên
không cần thiết phải nạo hạch.
Ngày nay, phẫu thuật nội soi đã được áp
dụng rộng rãi, cùng với xu thế đó thì chỉ định
phẫu thuật nội soi cho GIST dạ dày cũng mở
rộng dần. Theo NCCN năm 2004, phẫu thuật nội
soi cắt GIST dạ dày có thể thực hiện an toàn cho
các u nhỏ hơn 5cm với phẫu thuật viên kinh
nghiệm(3). Nhưng đến năm 2010 thì chỉ định
được mở rộng ra cho các u trên 5cm(4), tuỳ theo
vị trí và hình dạng. Các khối u ở mặt trước và bờ
cong lớn dạ dày là các vị trí thuận lợi nhất để
tiếp cận qua nội soi. Tuy nhiên, phẫu thuật nội
soi sẽ gặp khó khăn khi khối u quá lớn và ở
những vị trí không thuận lợi(5). Thậm chí, có
những vị trí không những gây thử thách về kỹ
thuật do giải phẫu phức tạp mà còn khó khăn
trong việc bảo tồn chức năng.
Cắt hình chêm là kiểu phổ biến cho GIST dạ
dày và với sự hỗ trợ của trang thiết bị như
stapler, dao siêu âm... giúp cho phẫu thuật trở
nên dễ dàng hơn. Tuy nhiên, kỹ thuật này không
thể sử dụng lý tưởng cho mọi vị trí u. Mục tiêu
của nghiên cứu này là giới thiệu nhiều phương
pháp tiếp cận khác nhau nhằm tăng khả năng áp
dụng phẫu thuật nội soi vào phẫu thuật cắt GIST
dạ dày.
Phương pháp nghiên cứu
Đây là nghiên cứu mô tả hàng loạt ca được
mổ cắt u GIST dạ dày qua nội soi ổ bụngtrong
thời gian từ 1/2010 đến tháng 7/2018 tại bệnh
viện Nhân Dân Gia Định.
Đối tượng
Tất cả các trường hợp được chẩn đoán u
dưới niêm mạc dạ dày gây biến chứng chèn ép
hay xuất huyết tiêu hoá.
Các trường hợp không biến chứng nhưng u
lớn hơn 2cm.
Các trường hợp u nhỏ nhưng bệnh nhân lo
lắng muốn can thiệp.
Tiêu chuẩn loại trừ
Các trường hợp GIST đã có dấu hiệu xâm
lấn, vỡ, di căn phúc mạc hay di căn xa.
Các trường hợp chống chỉ định bơm hơi ổ
bụng.
Kỹ thuật
Tất cả các trường hợp đều được chỉ định mổ
nội soi, tuỳ vị trí và kích thước u mà chúng tôi
lựa chọn cách thức khác nhau để cắt bỏ u. Các kỹ
thuật đã được giới thiệu trong y văn bao gồm:
cắt dạ dày (cắt bán phần, cắt toàn phần), cắt hình
chêm, cắt xuyên dạ dày, cắt sau khi phẫu tích
thanh cơ, nội soi lòng dạ dày cắt dưới niêm mạc,
phối hợp cắt qua nội soi dạ dày và nội soi bụng.
Hình 1: Tư thế bệnh nhân và vị trí phẫu thuật viên
(S: phẫu thuật viên chính; A: người phụ; C: người cầm
camera; vị trí trocar 12 thay đổi tuỳ theo vị trí đặt stapler)
Các phương pháp mổ được áp dụng
Sử dụng 3 - 5 trocar như hình 1.
Cắt hình chêm: Khoét dạ dày quanh u đảm
bảo diện cắt, khâu lại dạ dày qua nội soi hoặc sử
dụng stapler. Trong trường hợp u nhỏ hoặc nhô
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 141
chủ yếu ra bên ngoài thì sử dụng stapler cắt luôn.
Cắt xuyên dạ dày: Mở mặt trước dạ dày để
cắt u nằm ở mặt sau dạ dày. Áp dụng khi u mặt
sau dạ dày và trồi chủ yếu vào trong lòng dạ dày.
Cắt đoạn hang vị dạ dày và nối lại bằng
khâu tay kiểu Billroth I.
Số liệu được thu thập theo biểu mẫu chung
bao gồm các triệu chứng lâm sàng, hình ảnh nội
soi, X quang dạ dày, CT Scan bụng, thương tổn
tìm thấy trong mổ, các xử trí, các tai biến và biến
chứngxảy ra trong và sau mổ. Hướng dẫn bệnh
nhân điều trị tiếp theo sau khi đã có kết quả cuối
cùng của hóa mô miễn dịch.
KẾT QUẢ
Chúng tôi tổng kết được 24 bệnh nhân được
mổ nội soi cắt dạ dày không điển hình do GIST
dạ dày.Đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân và đặc
điểm khối u được tóm tắt ở bảng 1. U ở vị trí
thuận lợi như phình vị, bờ cong lớn, mặt trước
thân hang vị gặp 15 trường hợp; trong khi đó u ở
vị trí không thuận lợi như tâm vị, mặt sau dạ
dày là 9 trường hợp, đặc biệt có 2 trường hợp u
nằm mặt sau tâm vị.
Bảng 1: Đặc điểm nhóm nghiên cứu
Đặc điểm N = 24
Tuổi trung bình 61,2 ± 10,6 (45-83)
Giới: Nam
Nữ
5
19
BMI 22,7 ± 2,9 (19-28)
ASA: I, II
III, IV
21
3
Dấu hiệu lâm sàng:
Xuất huyết tiêu hoá
Đau bụng
Không triệu chứng
6
10
8
Vị trí u:
Đáy vị và bờ cong lớn
Tâm vị
Mặt trước thân vị
Mặt sau thân vị
Hang vị
7
4
5
5
3
Hướng phát triển của u:
Trồi vào lòng dạ dày
Trong niêm mạc
Trồi ra ngoài
12
2
10
Kích thước u: Dưới 5cm
5-10cm
Trên 10cm
8
11
5
Nữ chiếm đa số, ít bệnh nội khoa đi kèm.
Bệnh thường được phát hiện khi có triệu chứng
như khó chịu vùng thượng vị hoặc thậm chí vào
viện vì xuất huyết tiêu hoá. Có 8 trường hợp
phát hiện tình cờ, trong đó 1 trường hợp nhập
việncấp cứu vì viêm đường mật, viêm tuỵ cấp
do sỏi túi mật, một trường hợp khác nhập viện
vì chẩn đoán nhầm là u sau phúc mạc nghi từ
thượng thận.
Bảng 2: Đặc điểm phẫu thuật và kết quả
Đặc điểm Giá trị
Thời gian mổ 139 ± 47 (60-235)
Máu mất Không đáng kể
Phương pháp:
Cắt vát bằng stapler
Cắt hình chêm bằng stapler
Cắt xuyên dạ dày
Khoét u và khâu tay
Chuyển mở cắt toàn bộ dạ dày
6
4
2
11
1
Biến chứng, tử vong Không
Nằm viện sau mổ 6 ± 1,6 (2-10)
Mổ nội soi thành công 23/24 trường hợp
(95,8%), một trường hợp chuyển mổ mở vì u lớn
dính diện rộng vào sau phúc mạc và tuỵ. Tất cả
các trường hợp không bị vỡ u trong khi mổ và
đều có diện cắt âm tính khi kiểm tra giải phẫu
bệnh lý sau mổ. Có 10 trường hợp u lớn trên
dưới 10cm, thường dính với cấu trúc xung
quanh khi có hướng trồi ra bên ngoài hoặc loét
niêm mạc khi lồi vào trong lòng dạ dày. Các u
nhỏ hơn thường ít dính, tuy nhiên, có 2 trường
hợp u nhỏ hơn 2cm khiến chúng tôi gặp khó
khăn trong việc xác định u, trong đó có 1 trường
hợp cần phối hợp nội soi trong mổ.
Thời gian đầu thực hiện, phương pháp mổ
thường được áp dụng là khoét dạ dày quanh u
và khâu lại bằng tay, về sau stapler được sử
dụng nhiều hơn. Việc sử dụng stapler giúp cải
thiện khá nhiều thời gian mổ. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, thời gian mổ trung bình là 139
phút (60 đến 235 phút).Thời gian nằm viện sau
mổ trung bình là 6 ngày (2 đến 10 ngày). Không
có tai biến và biến chứng sau mổ. Thời gian đầu
chúng tôi thường theo dõi sau mổ hơn 5 ngày
mới cho xuất viện, bắt đầu từ năm 2018, chúng
tôi áp dụng quy trình phục hồi sớm sau mổ nên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 142
bệnh nhân được ăn uống và vận động sớm, thời
gian nằm viện được rút ngắn còn 2 - 4 ngày.
BÀN LUẬN
Tất cả các khối u mô đệm dạ dày có kích
thước từ 2cm trở lên đều nên được phẫu thuật
cắt bỏ, phẫu thuật cũng nên chỉ định với u nhỏ
hơn mà có triệu chứng (chảy máu) hay tăng kích
thước khi theo dõi(10).
Nguyên tắc phẫu thuật cho GIST dạ dày là
cắt bỏ khu trú khối u đảm bảo bờ cắt an toàn
(âm tính về mặt vi thể) và bảo vệ tính toàn vẹn
vỏ bao (không vỡ trong khi mổ). Phẫu thuật nội
soi khi được áp dụng cần tuân thủ nguyên tắc
này. Phẫu thuật nội soi tỏ ra vượt trội so với mổ
mở về mọi thông số trong mổ, kết cục sớm sau
mổ và không ảnh hưởng tới kết cục lâu dài về
mặt ung thư(2,7). Phẫu thuật nội soi đã được
NCCN khuyến cáo mở rộng dần chỉ định từ
dưới 5cm (năm 2004) tăng lên trên 5cm (năm
2010)(3,4). Nhiều báo cáo cho thấy phẫu thuật nội
soi an toàn đối với u lớn hơn 5cm(11,13). Trong
nghiên cứu của chúng tôi có 2/3 trường hợp u
lớn hơn 5cm, hầu hết được phẫu thuật nội soi
thành công, chỉ có 1 trường hợp u lớn, dính
nhiều ra sau phúc mạc, tuỵ và mạch máu nên
phải chuyển mổ mở vì lo ngại làm vỡ u khi phẫu
tích, trường hợp này phải cắt toàn bộ dạ dày vì
toàn bộ bờ cong nhỏ dạ dày ôm trọn khối u. Với
u to và tăng sinh mạch máu nhiều, nhất là kiểu
phát triển ra ngoài, thao tác qua nội soi có nguy
cơ vỡ u. Để hạn chế nguy cơ này, chúng tôi áp
dụng kỹ thuật “no-touch technique” bằng cách
dùng chỉ khâu vào phần dạ dày bình thường
quanh hoặc dùng dây cột quanh chân u để cầm
nắm, tránh tác động trực tiếp lên khối u(12,21).
Ngoài ra với những trường hợp u dính xung
quanh nhiều, đôi khi chúng tôi cắt rời u khỏi dạ
dày trước, động tác này làm phẫu trường rộng
rãi hơn đồng thời cũng cắt nguồn máu vào khối
u. Các yếu tố này giúp việc phẫu tích khối u khỏi
vùng dính dễ hơn và hạn chế nguy cơ chảy máu.
Ngoài kích thước thì vị trí khối u là yếu tố
quan trọng quyết định sự thành công của phẫu
thuật nội soi. Nhiều kỹ thuật khác nhau được áp
dụng tuỳ theo vị trí, kích thước và hình dạng của
khối u(12,14,19). Việc u phát triển ưu thế vào trong
lòng dạ dày hay trồi ra ngoài cũng là đặc điểm
quan trọng quyết định kỹ thuật mổ. U ở phình
vị, bờ cong lớn hay mặt trước dạ dày là những vị
trí thuận lợi. Khi u ở những vị trí này, nhất là khi
u có hướng phát triển ra ngoài, chúng tôi thường
dùng stapler cắt vát dạ dày kèm u. Ưu điểm của
phương pháp này là cắt dạ dày hoàn toàn kín,
hạn chế nhiễm bẩn vào trong xoang bụng. Tuy
nhiên, cần chú ý đảm bảo diện cắt an toàn, đặc
biệt khi khối u có xu hướng phát triển vào lòng
dạ dày thì chúng tôi thường cắt u mở để đảm
bảo diện cắt, sau đó đóng dạ dày bằng khâu tay
hoặc dùng stapler. Cách làm này không thể thực
hiện ở vùng có mô lành hạn chế, một số trường
hợp u ở bờ cong nhỏ, chúng tôi thường sử dụng
2 stapler để cắt hình chêm.
Vị trí khó tiếp cận và có khó khăn cho kỹ
thuật là u nằm ở vị trí gần chổ nối dạ dày thực
quản (tâm vị) hay ở gần môn vị, đặc hiệt là khi u
ở mặt sau(8,9,19) Khi u nằm ở mặt sau và lồi vào
lòng ở vùng thân vị thì chúng ta có thể mở mặt
trước dạ dày để cắt u mặt sau dạ dày(1). Chúng
tôi có 2 trường hợp thực hiện kỹ thuật này và
nhận thấy đây là một cách tiếp cận khá dễ dàng,
nhất là có sự hỗ trợ của stapler. Một việc cần lưu
ý khi áp dụng cách tiếp cận này là chúng ta phải
kiểm soát tốt mặt sau dạ dày trước khi cắt. Một
số tác giả áp dụng kỹ thuật này để cắt u ở mặt
sau tâm vị(17,18,20), tuy nhiên, theo chúng tôi việc
cắt u ở những vùng ít mô như vậy cần hết sức
cẩn thận, tránh hẹp hay bỏ sót u. Chúng tôi có 4
trường hợp u vùng tâm vị (2 ở mặt sau), tất cả
đều được cắt và khâu tạo hình lại bằng tay. Đối
với u ở gần môn vị cũng đối diện nguy cơ này
nhưng ở mức độ dễ hơn, chúng ta có thể chọn
phương án cắt bán phần dưới dạ dày hoặc khoét
u và tạo hình. Chúng tôi có 1 trường hợp u lớn ở
hang vị, sau khi cắt thì phần dạ dày phía trên chỉ
còn dính với tá tràng một phần mô phía bờ cong
lớn, sau khi tái tạo thì hình dạng gần như nối dạ
dày kiểu Billroth I.
Ở những vùng thiếu mô hoặc u quá lớn nếu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 143
cắt quá nhiều thành dạ dày có thể làm biến dạng
dạ dày, do đó một số tác giả đưa ra giải pháp cắt
thanh cơ trước khi cắt niêm hay còn gọi là “lift-
and-cut method” (6,16). Kỹ thuật này làm hạn chế
việc mất mô dạ dày mà vẫn đảm bảo bờ cắt an
toàn. Dù chưa thực hiện kỹ thuật này, tuy nhiên
khi hồi cứu lại chúng tôi thấy phương pháp này
có thể có ích trong trường hợp mà chúng tôi đã
cắt toàn bộ dạ dày. Khi phẫu tích bệnh phẩm,
chúng tôi thấy dù gần như toàn bộ bờ cong nhỏ
ôm lấy khối u nhưng giới hạn của u với các lớp
của thành dạ dày vẫn còn và phía bờ cong lớn
hoàn toàn bình thường, nếu tách dần thì có thể
bảo tồn và tránh phải cắt hết dạ dày.
KẾT LUẬN
Dù số liệu của chúng tôi chưa nhiều, nhưng
với sự đa dạng về kích thước cũng như vị trí
khối u và tỉ lệ phẫu thuật nội soi thành công cao.
Chúng tôi cho rằng, phẫu thuật nội soi cắt u mô
đệm đường tiêu hoá của dạ dày là chỉ định an
toàn cho cả những trường hợp u lớn hơn 5cm và
ở những vị trí khác nhau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abdalla S, Baton O, Rouquie D, Boulanger T, Chapuis O (2013),
"Laparoscopic transgastric partial gastrectomy for a posterior
fundic gastrointestinal stromal tumor". Journal of visceral surgery,
150 (6), pp. 407-41 3.
2. Chi JL, Xu M, Zhang MR, Li Y, Zhou ZG (2017), "Laparoscopic
Versus Open Resection for Gastric Gastrointestinal Stromal
Tumors (GISTs): A Size–Location-Matched Case–Control
Study". World journal of surgery, 41 (9), pp. 2345-2352.
3. Dementri GD (2004), "NCCN task force report: Optimal
management of patients with gastrointestinal stromal tumor
(GIST)-Expansion and update of NCCN clinical practice
guideline". J Natl Comprehensive Canter Network, 2(1), pp. S1-S26.
4. Demetri George D, Von Mehren Margaret, Antonescu Cristina
R, DeMatteo Ronald P, Ganjoo Kristen N et al (2010), "NCCN
Task Force report: update on the management of patients with
gastrointestinal stromal tumors". Journal of the National
Comprehensive Cancer Network, 8 (Suppl 2), pp. S-1-S-41.
5. El-Menyar A, Mekkodathil A, Al-Thani H (2017), "Diagnosis
and management of gastrointestinal stromal tumors: An up-to-
date literature review". Journal of cancer research and therapeutics,
13(6), pp. 889.
6. Fujishima H, Etoh T, Hiratsuka T, Akagi T, Tajima M et al
(2017), "Serosal and muscular layers incision technique in
laparoscopic surgery for gastric gastrointestinal stromal
tumors". Asian journal of endoscopic surgery, 10 (1), pp. 92-95.
7. Goh BKP, Goh YC, Eng AKH, Chan W-H, Chow PKH et al
(2015), "Outcome after laparoscopic versus open wedge
resection for suspected gastric gastrointestinal stromal tumors:
A matched-pair case–control study". European Journal of Surgical
Oncology (EJSO), 41 (7), pp. 905-910.
8. Hwang SH, Park DJ, Kim YH, Lee KH, Lee HS et al (2009),
"Laparoscopic surgery for submucosal tumors located at the
esophagogastric junction and the prepylorus". Surgical
endoscopy, 23 (9), pp. 1980.
9. Ismael H, Ragoza Y, Caccitolo J, Cox S (2016), "Optimal
management of GIST tumors located near the gastroesophageal
junction: Case report and review of the literature". International
journal of surgery case reports, 25, pp. 91-96.
10. Keung EZ, Raut CP (2017), "Management of gastrointestinal
stromal tumors". Surgical Clinics, 97 (2), pp. 437-452.
11. Khoo CY, Goh BKP, Eng AKH, Chan WH, Teo MCC et al
(2017), "Laparoscopic wedge resection for suspected large (≥ 5
cm) gastric gastrointestinal stromal tumors". Surgical endoscopy,
31 (5), pp. 2271-2279.
12. Lee CM, Park S (2017), "Laparoscopic techniques and strategies
for gastrointestinal GISTs". Journal of visualized surgery, pp: 3-62.
13. Lian X, Feng F, Guo M, Cai L, Liu Z et al (2017), "Meta-analysis
comparing laparoscopic versus open resection for gastric
gastrointestinal stromal tumors larger than 5 cm". BMC cancer,
17 (1), pp. 760.
14. Liao GQ, Chen T, Qi XL, Hu Yan F, Liu H et al (2017),
"Laparoscopic management of gastric gastrointestinal stromal
tumors: A retrospective 10-year single-center experience". World
journal of gastroenterology, 23 (19), pp. 3522.
15. Miettinen Markku, Lasota Jerzy (2006). Gastrointestinal stromal
tumors: pathology and prognosis at different sites. Seminars
diagnostic pathology. 23(2): 70-83.
16. Okumura S, Kanaya S, Hosogi H, Ito T, Miura S et al (2017),
"Our experience with laparoscopic partial gastrectomy by the
‘lift-and-cut method’for gastric gastrointestinal stromal tumor
with maximal preservation of the remnant stomach". Surgical
endoscopy, 31 (8), pp. 3398-3404.
17. Priego P, Cuadrado M, García-Moreno F, Carda P, Galindo J
(2018), "Laparoscopic transgastric resection of gastric
submucosal tumor located near the esophagogastric junction".
Mini-invasive Surg; pp: 2: 6.
18. Siow SL, Mahendran HA, Wong CM (2017), "Laparoscopic
transgastric resection for intraluminal gastric gastrointestinal
stromal tumors located at the posterior wall and near the
gastroesophageal junction". Asian journal of surgery, 40 (5), pp.
407-414.
19. Xiong W, Zhu J, Zheng Y, Luo L, He Y et al (2018),
"Laparoscopic resection for gastrointestinal stromal tumors in
esophagogastric junction (EGJ): how to protect the EGJ". Surgical
endoscopy, 32 (2), pp. 983-989
20. Xu X, Chen K, Zhou W, Zhang R, Wang J et al. (2013),
"Laparoscopic transgastric resection of gastric submucosal
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 144
tumors located near the esophagogastric junction". Journal of
Gastrointestinal Surgery, 17 (9), pp. 1570-1575.
21. Yahchouchy CE, Etienne JC, Fagniez PL, Adam R, Fingerhut A
(2002), "A new “no-touch” technique for the laparoscopic
treatment of gastric stromal tumors". Surgical Endoscopy And
Other Interventional Techniques, 16 (6), pp. 962-964.
22. Ye X, Kang WM, Yu JC, Ma ZQ, Xue ZG (2017), "Comparison of
short-and long-term outcomes of laparoscopic vs open resection
for gastric gastrointestinal stromal tumors". World journal of
gastroenterology, 23 (25), pp. 4595.
Ngày nhận bài báo: 15/07/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 07/08/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/11/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_chi_dinh_mo_noi_soi_cat_u_mo_dem_duong_tieu_hoa_o.pdf