Tài liệu Nghiên cứu ảnh hưởng của các dạng phân hữu cơ đến cây lạc trên đất xám bạc màu tại tỉnh Thừa Thiên-Huế: Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai
1067
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC DẠNG PHÂN HỮU CƠ
ĐẾN CÂY LẠC TRÊN ĐẤT XÁM BẠC MÀU TẠI TỈNH THỪA THIÊN-HUẾ
Trần Thị Ánh Tuyết1, Hoàng Thị Thái Hòa1, Thái Thị Huyền1, Trần Thanh Đức2,
1 Khoa Nông học, Đại học Nông Lâm Huế
2Phòng Đào tạo Đại học, Đại học Nông Lâm Huế
TÓM TẮT
Thí nghiệm gồm có 8 công thức được bố trí theo kiểu khối đầy đủ ngẫu nhiên (RCBD) với 3 lần
nhắc lại, thực hiện trong vụ đông xuân 2014 với mục đích xác định ảnh hưởng của các dạng phân
hữu cơ đến sinh trưởng, phát triển và năng suất lạc trên đất xám bạc màu tại tỉnh Thừa Thiên - Huế,
làm cơ sở đề xuất được dạng phân hữu cơ phù hợp để đạt năng suất lạc và hiệu quả kinh tế cao,
đồng thời cải thiện tính chất hóa học đất. Kết quả cho thấy các dạng phân hữu cơ có ảnh hưởng đến
các chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển và năng suất lạc. Bón phân hữu cơ góp phần tăng năng suất từ 2
đến 4 tạ/ha so với đối chứng, trong đó dạng phân hữu cơ (25% bèo t...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 222 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu ảnh hưởng của các dạng phân hữu cơ đến cây lạc trên đất xám bạc màu tại tỉnh Thừa Thiên-Huế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai
1067
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC DẠNG PHÂN HỮU CƠ
ĐẾN CÂY LẠC TRÊN ĐẤT XÁM BẠC MÀU TẠI TỈNH THỪA THIÊN-HUẾ
Trần Thị Ánh Tuyết1, Hoàng Thị Thái Hòa1, Thái Thị Huyền1, Trần Thanh Đức2,
1 Khoa Nông học, Đại học Nông Lâm Huế
2Phòng Đào tạo Đại học, Đại học Nông Lâm Huế
TÓM TẮT
Thí nghiệm gồm có 8 công thức được bố trí theo kiểu khối đầy đủ ngẫu nhiên (RCBD) với 3 lần
nhắc lại, thực hiện trong vụ đông xuân 2014 với mục đích xác định ảnh hưởng của các dạng phân
hữu cơ đến sinh trưởng, phát triển và năng suất lạc trên đất xám bạc màu tại tỉnh Thừa Thiên - Huế,
làm cơ sở đề xuất được dạng phân hữu cơ phù hợp để đạt năng suất lạc và hiệu quả kinh tế cao,
đồng thời cải thiện tính chất hóa học đất. Kết quả cho thấy các dạng phân hữu cơ có ảnh hưởng đến
các chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển và năng suất lạc. Bón phân hữu cơ góp phần tăng năng suất từ 2
đến 4 tạ/ha so với đối chứng, trong đó dạng phân hữu cơ (25% bèo tây + 25% rơm rạ + 50% phân lợn +
chế phẩm Trichoderma) cho năng suất lạc cao nhất (19,2 tạ/ha), hiệu quả kinh tế đạt cao nhất ở dạng phân
hữu cơ (75% bèo tây + 25% phân lợn + chế phẩm Trichoderma), tăng 13.500.000 đ/ha so với đối chứng.
Tất cả các công thức có bón phân hữu cơ đều cải thiện tính chất đất tốt hơn so với công thức đối chứng.
Từ khóa: Dạng phân hữu cơ, đất xám bạc màu, lạc.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cây lạc (Arachis hypogaea L.) có vị trí
quan trọng trong cơ cấu nông nghiệp của tỉnh
Thừa Thiên - Huế. Theo số liệu thống kê năm
2015, tổng diện tích gieo trồng lạc của toàn
tỉnh là 3.300 ha, năng suất đạt chỉ khoảng 19,3
tạ/ha, thấp hơn so với các vùng khác. Đặc biệt
trong cùng tỉnh Thừa Thiên - Huế năng suất lạc
ở các vùng trồng lạc trên đất nghèo dinh dưỡng
như đất xám bạc màu, đất cát lại còn thấp hơn
so với các vùng khác khoảng 10 - 15% [4].
Nguyên nhân có thể là do đất trồng lạc nghèo
dinh dưỡng và chưa áp dụng các biện pháp kỹ
thuật hợp lý, trong đó việc sử dụng phân bón
không cân đối [3].
Hiện nay, người dân sử dụng quá nhiều
phân hóa học trên những vùng đất thâm canh
nên không những làm mất cân bằng sinh thái,
sâu bệnh phát sinh nhiều mà còn làm suy thoái
dần độ màu mỡ của đất, làm cho đất bị thoái
hóa nên cây trồng khó hút được dinh dưỡng.
Do đó, sử dụng phụ phẩm nông nghiệp
như rơm rạ, bèo tây kết hợp với phân lợn và
nấm Trichorderma để chế biến phân hữu cơ là
một hướng đi mới có ý nghĩa quan trọng trong
sản xuất nông nghiệp. Xuất phát từ nhu cầu
thực tiễn đó, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên
cứu ảnh hưởng của dạng phân hữu cơ đến cây
lạc trên đất xám bạc màu tỉnh Thừa Thiên -
Huế” với các mục đích sau: (1) xác định được
ảnh hưởng của các dạng phân hữu cơ đến sinh
trưởng, phát triển và năng suất lạc; (2) xác định
được ảnh hưởng của dạng phân hữu cơ đến
hiệu quả kinh tế và một số tính chất hóa học
của đất xám bạc màu tại tỉnh Thừa Thừa - Huế;
(3) đề xuất được dạng phân hữu cơ phù hợp với
cây lạc cho năng suất, hiệu quả kinh tế cao và
cải thiện tính chất hóa học đất.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
- Giống lạc L14 và đất xám bạc màu tại
Viện Nghiên cứu phát triển Tứ Hạ, Hương Trà,
tỉnh Thừa Thiên - Huế.
- Các loại phân bón vô cơ: urê (46% N),
lân super (16% P2O5), KCl (60% K2O) và vôi
bột.
- Các dạng phân hữu cơ từ rơm rạ, bèo
tây, phân lợn, chế phẩm Trichoderma.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Công thức và phương pháp bố trí thí
nghiệm
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
1068
Bảng 1. Các công thức thí nghiệm
TT Công thức Dạng phân hữu cơ
1 I (Đ/c) 40 kg N + 60 kg P2O5 + 60 kg K2O + 400 kg vôi/ha
2 II 8 tấn dạng phân hữu cơ I (100% phân lợn ) + Nền
3 III 8 tấn dạng phân hữu cơ II (100% phân lợn + CP) + Nền
4 VI 8 tấn dạng phân hữu cơ III (50% rơm rạ + 50% phân lợn + CP) + Nền
5 V 8 tấn dạng phân hữu cơ IV (50% bèo tây + 50% phân lợn +CP) + Nền
6 VI 8 tấn dạng phân hữu cơ V (75% rơm rạ + 25% phân lợn + CP) + Nền
7 VII 8 tấn dạng phân hữu cơ VI (75% bèo tây + 25% phân lợn + CP) + Nền
8 VIII 8 tấn dạng phân hữu cơ VII (25% bèo tây + 25% rơm rạ + 50% phân lợn + CP) + Nền
Ghi chú: - Nền = 40 kg N + 60 kg P2O5 + 60 kg K2O + 400 kg vôi/ha
Từ công thức III - VIII: Khi ủ có bổ sung thêm chế phẩm Trichordema (CP), 2% lân và 1% vôi.
Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí theo phương
pháp khối hoàn toàn ngẫu nhiên (RCBD) với 8
công thức, 3 lần nhắc lại. Diện tích mỗi ô thí
nghiệm là 20 m2 . Tổng diện tích thí nghiệm:
600 m2 (trong đó diện tích thí nghiệm 480 m2,
diện tích bảo vệ 120 m2).
2.2.2. Chỉ tiêu và phương pháp theo dõi
- Theo dõi các chỉ tiêu sinh trưởng và
phát triển của cây lạc.
- Các yếu tố cấu thành năng suất và năng
suất lạc.
- Phân tích các chỉ tiêu về đất: pHKCl
bằng pH met.
+ N tổng số: phương pháp Kjeldahl.
+ P2O5 tổng số: phương pháp so màu.
+ K2O tổng số: phương pháp quang kế
ngọn lửa.
- Hiệu quả kinh tế: Tổng thu, tổng chi, lãi
ròng.
2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Xử lý số liệu với các chỉ tiêu như trung
bình, ANOVA, LSD (P< 0,05) bằng phần mềm
Statistix 10.0. Tính toán số liệu và vẽ đồ thị,
biểu đồ bằng phần mềm Excel.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO
LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của các dạng phân hữu cơ
đến số cành và chiều dài cành cấp 1 của lạc
Cành cấp 1 có ảnh hưởng lớn tới năng
suất, vì hoa ở cành này có tỷ lệ hoa hữu hiệu
cao sẽ cho nhiều quả và quả chắc nên làm tăng
khối lượng quả.
Bảng 2. Ảnh hưởng của các dạng phân hữu cơ đến số cành và chiều dài cành cấp 1 của cây lạc
Công thức Số cành cấp 1 (cành) Chiều dài cành cấp 1 (cm)
I (Đ/c) 6,2b 30,6bcd
II 6,5a 30,0cd
III 6,4ab 31,0bcd
IV 6,2b 32,8a
V 6,2b 31,8ab
VI 6,4ab 29,6d
VII 6,6a 31,5ab
VIII 6,4ab 29,6d
LSD.05 0,27 1,59
Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột có chữ cái giống nhau thì không khác nhau ở xác suất 99,95% theo
Dulcan;
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai
1069
Qua theo dõi kết quả ở bảng 2, chúng tôi
nhận thấy số cành cấp 1 giữa các công thức dao
động 6,2 – 6,6 cành/cây. Trong đó cao nhất ở
công thức VII (75% bèo tây + 25 phân lợn +
chế phẩm) đạt 6,6 cành/cây. Tiếp đến công
thức II (100% phân lợn) đạt 6,5 cành/cây, trừ
công thức IV (50% rơm rạ + 50% phân lợn +
chế phẩm), các công thức còn lại đều cao hơn
đối chứng. Xét về mặt thống kê, chỉ ở công
thức VII sai khác có ý nghĩa với công thức đối
chứng, ở các công thức còn lại sai khác không
có ý nghĩa.
Chiều dài cành cấp 1 đầu tiên dao động
29,6 – 32,8 cm, trong đó ở công thức IV với tỷ
lệ ủ là 50% rơm rạ + 50% phân lợn + chế
phẩm) đạt cao nhất 32,8 cm. Chiều dài cành
cấp 1 đầu tiên ở tất cả các công thức đều cao
hơn công thức I (công thức đối chứng 30,6
cm); ngoại trừ công thức II (30,0 cm) và công
thức VIII (29,6 cm) thấp hơn đối chứng. Giữa
các công thức có sự sai khác có ý nghĩa về mặt
thống kê.
3.2. Ảnh hưởng của các dạng phân hữu cơ
đến khối lượng và số lượng nốt sần lạc
Bảng 3. Ảnh hưởng của phân bón hữu cơ đến số lượng và khối lượng nốt sần của lạc
Công thức
Bắt đầu ra hoa Kết thúc ra hoa Thu hoạch
Số lượng nốt
sần (nốt)
Khối lượng
nốt sần (g)
Số lượng
nốt sần (nốt)
Khối lượng
nốt sần (g)
Số lượng nốt
sần (nốt)
Khối lượng
nốt sần (g)
I(Đ/c) 211,6d 0,19c 439,3bc 0,28 a 405,0b 0,37 b
II 243,0d 0,23bc 397,5d 0,33 a 323,5c 0,31 b
III 270,0cd 0,32ab 449,9bc 0,39 a 377,1bc 0,40 b
IV 319,8bc 0,33ab 492,2ab 0,52 a 329,1c 0,32 b
V 340,4ab 0,35ab 505,4a 0,50 a 382,0bc 0,36 b
VI 394,1a 0,35ab 503,4a 0,43 a 422,2b 0,39b
VII 390,9a 0,30b 483,3ab 0,47 a 426,4b 0,46ab
VIII 375,8ab 0,39a 483,3ab 0,52 a 515,6a 0,52a
LSD.05 65,90 0,08 48,46 0,34 66,01 0,11
Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột có chữ cái giống nhau thì không khác nhau ở xác suất 99,95% theo
Dulcan;
Qua bảng 3 chúng tôi có nhận xét sau
đây:
- Thời kỳ bắt đầu ra hoa: Nốt sần bắt
đầu hình thành tương đối nhiều và bắt đầu hoạt
động mạnh. Đây là lúc nốt sần thực hiện chức
năng quan trọng là đồng hóa lượng đạm lớn để
cung cấp cho cây. Số lượng nốt sần trên cây
dao động trong khoảng 211,6 – 394,1 nốt sần.
Giữa các công thức có sự sai khác có ý nghĩa.
Ở giai đoạn này, khối lượng nốt sần có sự sai
khác rất có ý nghĩa về mặt thống kê, dao động
trong khoảng 0,194 – 0,384 gam.
- Thời kỳ kết thúc ra hoa: Đây là giai
đoạn mà nốt sần hoạt động mạnh nhất, do đó số
lượng và khối lượng nốt sần tăng lên nhiều so
với giai đoạn bắt đầu ra hoa, trong đó ở công
thức V (50% bèo tây + 50% phân lợn + chế
phẩm) là cao nhất với số lượng nốt sần là 505,4
và khối lượng nốt sần là 0,50 gam; thấp nhất ở
công thức II với số lượng 397,5 nốt và khối
lượng đạt 0,33 gam và thấp hơn về số lượng so
với công thức đối chứng (439,3 nốt sần), nhưng
khối lượng lại cao hơn nhiều (công thức đối
chứng có khối lượng nốt sần 0,28 gam).
- Thời kỳ thu hoạch: Đây là thời kỳ mà
cây đã tạo quả, do đó số lượng và khối lượng
nốt sần giảm cả về số lượng và khối lượng so
với giai đoạn ra hoa đâm tia. Trong đó ở công
thức VIII (25% bèo tây + 25% rơm rạ + 50%
phân lợn + chế phẩm) số lượng nốt sần 515,6
và khối lượng 0,52 gam đạt cao nhất; còn thấp
nhất ở công thức IV với tỷ lệ ủ 50% rơm rạ +
50% phân lợn + chế phẩm, số lượng nốt sần chỉ
có 329,1 nốt và khối lượng 0,32 gam. Tuy
nhiên, khối lượng nốt sần giữa các công thức có
sự sai khác không có ý nghĩa về mặt thống kê.
3.3. Ảnh hưởng của các dạng phân hữu cơ đến
khả năng tích lũy chất khô của lạc
Việc bón phân hữu cơ làm từ phụ phẩm
nông nghiệp có ảnh hưởng đến khả năng tích
lũy chất khô và được thể hiện qua bảng 3.3.
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai
1070
Bảng 4. Ảnh hưởng của phân hữu cơ đến khả năng tích lũy chất khô của lạc (Đơn vị: g/cây)
Công thức Thời kỳ 3 - 4 lá Kết thúc ra hoa Thu hoạch
I (Đ/c) 3,47c 9,96e 27,7f
II 3,40c 9,87e 29,4e
III 3,70c 12,6b 32,5bcd
IV 4,83ab 13,8a 34,1a
V 5,17a 12,7b 32,9abc
VI 4,37ab 12,4bc 33,0ab
VII 4,17bc 12,0cd 31,5d
VIII 4,13bc 11,9d 31,6cd
LSD0,05 0,98 0,40 1,80
Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột có chữ cái giống nhau thì không khác nhau ở xác suất 99,95% theo
Dulcan;
- Thời kỳ 3 - 4 lá: Hàm lượng tích lũy
chất khô ở các công thức có sự sai khác có ý
nghĩa về mặt thống kê, dao động trong khoảng
3,40 – 5,17 gam/cây. Công thức V (50% bèo
tây + 50% phân lợn + chế phẩm) có hàm lượng
cao nhất. Tất cả các công thức đều cao hơn đối
chứng, ngoại trừ công thức II (100% phân lợn).
- Thời kỳ kết thúc ra hoa: Lượng chất
khô tích lũy của cây ở thời kỳ này tăng lên rất
cao, giữa các công thức dao động trong khoảng
9,96- 13,8 g/cây. Lượng chất khô/cây ở các
công thức có sự sai khác có ý nghĩa về mặt
thống kê. Cũng như thời kỳ 3 – 4 lá, ở thời kỳ
này hàm lượng chất khô ở công thức II (100%
phân lợn) vẫn thấp hơn công thức I (công thức
đối chứng).
- Thời kỳ thu hoạch: Ở thời kỳ này vật
chất khô/cây đã có sự phân hóa rõ rệt giữa các
công thức. Xét về mặt thống kê thì có sự sai
khác có ý nghĩa về vật chất khô/cây giữa các
công thức và được chia làm 3 nhóm: Nhóm thứ
1 đạt cao nhất, gồm các công thức IV (50%
rơm rạ + 50% phân lợn + chế phẩm) và công
thức VI (75% rơm rạ + 25% phân lợn + chế
phẩm) đạt lần lượt là 33,0 g/cây và 34,1 g/cây;
nhóm thứ 2 gồm các công thức III (100% phân
lợn + chế phẩm), công thức V (50% bèo tây +
50% phân lợn + chế phẩm) và công thức VIII
(25% bèo tây + 25% rơm rạ + 50% phân lợn +
chế phẩm) với 31,6 g/cây, 32,5 g/cây và 32,9
g/cây; nhóm thứ 3 gồm công thức II (100%
phân lợn) có khoảng 29,4 g/cây, công thức VII
(75% bèo tây + 25% phân lợn + chế phẩm) có
31,5 g/cây và thấp nhất ở công thức đối chứng
(27,7 g/cây).
3.4. Ảnh hưởng của các dạng phân hữu cơ
đến sự ra hoa của cây lạc
Kết quả theo dõi về sự ra hoa của cây lạc
được trình bày ở bảng 4.
Bảng 5. Ảnh hưởng của phân hữu cơ đến sự ra hoa của lạc
Chỉ tiêu
Công thức
Tổng thời gian ra hoa
(ngày)
Tổng số hoa/cây
(hoa)
Tỷ lệ hoa hữu hiệu
(%)
I ( Đ/c) 22 58,1 13,3
II 21 69,1 13,6
III 21 59,0 15,2
IV 21 75,5 13,5
V 21 74,6 13,8
VI 21 68,6 14,0
VII 21 75,1 14,6
VIII 21 65,8 14,2
1070
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai
1071
Qua bảng 5 chúng tôi có một số nhận xét
sau đây:
- Tổng thời gian ra hoa: Bón phân hữu cơ
không ảnh hưởng đến thời gian ra hoa của cây
lạc. Hầu như, ở tất cả các công thức cây ra hoa
tập trung, dao động trong khoảng 21 – 22 ngày.
Nhưng chỉ tiêu số hoa/cây và tỷ lệ hoa hữu
hiệu có sự chênh lệnh giữa các công thức.
- Tổng số hoa/cây: Tổng số hoa trên cây
là chỉ tiêu quyết định đến tổng số quả cuối
cùng. Nếu được cung cấp dinh dưỡng kịp thời
lạc sẽ ra hoa sớm, tạo tiền đề cho việc nâng cao
tổng số hoa và tăng tỉ lệ hoa hữu hiệu. Qua
theo dõi chúng tôi nhận thấy tất cả các công
thức có bón phân hữu cơ có tổng số hoa/cây
cao hơn đối chứng rõ rệt, dao động trong
khoảng 58,1 – 75,5 hoa; công thức có số hoa
cao nhất là công thức III, đạt 75,5 hoa, thấp
nhất ở công thức đối chứng với 58,1 hoa.
- Tỷ lệ hoa hữu hiệu: Qua thí nghiệm,
chúng tôi nhận thấy rằng, tỷ lệ hoa hữu hiệu ở
các công thức tương đối thấp, chỉ dao động
trong khoảng 13,29 – 15,24% mặc dù số hoa
trên cây nhiều. Sở dĩ, tỷ lệ hoa hữu hiệu thấp là
do trong thời kỳ ra hoa cây lạc gặp thời tiết
nắng hạn kéo dài, đất không đủ độ ẩm, nhiệt độ
không khí cao. Tuy nhiên, ở những công thức
có bón phân hữu cơ làm từ phụ phẩm nông
nghiệp tỷ lệ hoa hữu hiệu lại cao hơn công thức
đối chứng. Điều này cho thấy, phân hữu cơ có
vai trò tốt, giúp cây phát triển tốt và chống chịu
với điều kiện ngoại cảnh không thuận lợi, mặt
khác còn làm tăng độ xốp, tăng khả năng giữ
nước, giữ phân của đất, tạo môi trường thuận
lợi cho sự đâm tia của lạc.
3.5. Ảnh hưởng của các dạng phân hữu cơ
đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng
suất lạc
- Số quả chắc/cây: Qua bảng 6 chúng tôi
thấy số quả chắc/cây giữa các công thức có sự
sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê và dao
động 8,99 – 10,30 quả chắc/cây, cụ thể ở công
thức VII (75% bèo tây + 25% phân lợn + chế
phẩm) đạt cao nhất và cao hơn công thức đối
chứng 1,96 quả.
- Khối lượng 100 quả: Kết quả theo dõi
cho thấy, khối lượng 100 quả dao động trong
khoảng 134,60 – 149,50 gam, có sự sai khác có
ý nghĩa về mặt thống kê .
- Năng suất lý thuyết (NSLT): Năng suất
lý thuyết của các công thức dao động trong
khoảng 19,5 – 23,8 tạ/ha. Xét về mặt thống kê,
giữa các công thức có sự sai khác có ý nghĩa,
trong đó, cao nhất ở công thức V; bón phân
hữu cơ với tỷ lệ ủ 50% bèo tây + 50% phân lợn
+ chế phẩm cho năng suất lạc 23,8 tạ/ha và
thấp nhất ở công thức đối chứng.
- Năng suất thực thu (NSTT): Tất cả các
công thức có bón phân hữu cơ sản xuất từ phụ
phẩm nông nghiệp có năng suất thực thu cao
hơn đối chứng và cao nhất ở công thức V (50%
bèo tây + 50% phân lợn + chế phẩm) với 19,8
tạ/ha. Trong khi đó, công thức đối chứng
không bón phân hữu cơ chỉ đạt 15,7 tạ/ha.
Bảng 6. Ảnh hưởng của phân hữu cơ đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất lạc
Công thức Tổng số quả/cây (quả)
Số quả
chắc/cây (quả)
P100 quả
(g)
NSLT
(tạ/ha)
NSTT
(tạ/ha)
I (Đ/c) 13,26ab 9,02b 139,58cd 19,5d 15,7c
II 14,44a 9,42b 148,65ab 21,5bc 18,2ab
III 11,97b 8,99b 134,60d 22,8ab 18,9 ab
IV 14,68a 10,17ab 139,61bcd 21,2bc 17,7b
V 14,82a 10,30ab 135,40d 23,8a 19,8a
VI 13,46ab 9,61ab 149,45a 21,8bc 18,9ab
VII 15,30a 10,98a 147,92ab 23,3a 18,5ab
VIII 13,25ab 9,34b 144,25a 22,9ab 19,2ab
LSD.05 2,41 1,47 9,30 1,50 1,98
Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột có chữ cái giống nhau thì không khác nhau ở xác suất 99,95% theo
Dulcan;
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
1072
3.6. Ảnh hưởng của các dạng phân hữu cơ đến hiệu quả kinh tế
Bảng 7. Hiệu quả kinh tế của việc sử dụng các dạng phân hữu cơ bón cho cây lạc
Công thức
Chi phí tăng
thêm so đ/c
(1.000 đồng)
Năng suất tăng
so với đ/c
(tạ/ha)
Tổng thu tăng
so với đ/c
(1.000 đồng)
Lãi ròng tăng
so với đ/c
(1.000 đồng)
VCR
I (Đ/c) - - - - -
II 1.200 4,5 6.750 5.550 4,63
III 1.200 5,2 7.800 6.600 5,50
IV 1.200 6,0 9.000 7.800 6,50
V 1.200 6,1 9.150 7.950 6,63
VI 1.200 7,2 10.800 9.600 8,00
VII 1.200 9,8 14.700 13.500 11,25
VIII 1.200 6,5 9.350 8.150 6,79
Nhìn chung, từ chi phí và lãi ròng tăng
thêm các công thức đều có VCR >3, nằm trong
khoảng 4,63 – 11,25. Kết quả này cho thấy việc
bón phân hữu cơ được sản xuất từ phụ phẩm
nông nghiệp có thể là một trong những lựa chọn
hữu ích đối với người nông dân trong thời điểm
nguồn phân hữu cơ hạn hẹp; nếu thiếu phân
chuồng thì có thể sử dụng thêm rơm rạ và bèo
tây ủ với chế phẩm Trichoderma vừa đem lại
hiệu quả kinh tế cao, vừa giúp giải quyết vấn đề
ô nhiễm môi trường. Đặc biệt, công thức VII với
tỷ lệ ủ 75% bèo tây + 25% phân lợn + chế phẩm
mang lại hiệu quả cao nhất. Thành phần phân
hữu cơ chủ yếu từ bèo tây, một nguồn vật liệu
vô cùng phong phú, dễ làm.
3.7. Ảnh hưởng của các dạng phân hữu cơ
đến một số tính chất hóa học đất
Kết quả phân tích đất trước và sau thí
nghiệm được thể hiện ở bảng 8.
Trong quá trình tiến hành thí nghiệm,
chúng tôi lấy đất để phân tích trước thí nghiệm
và kết quả như sau: đất nghèo mùn (1,30%),
nghèo lân tổng số và lân dễ tiêu (0,05% và 4,55
mg/100g đất), nghèo đạm và kali tổng số
(0,08% và 0,50%).
Trị số pHKCl của đất sau thí nghiệm ở
mức chua vừa ở tất cả các công thức, biến động
trong khoảng 4,52 – 5,52, tất cả các công thức
đều có độ pH cao hơn trước thí nghiệm, trừ
công thức đối chứng (không bón phân hữu cơ).
Hàm lượng mùn ở các công thức có bón
phân hữu cơ đều cao hơn trước thí nghiệm.
Điều này chứng tỏ rằng, các loại phân chứa vi
sinh vật đã ảnh hưởng tích cực đến sự phân giải
xenlulo để tạo mùn.
Bảng 8. Kết quả phân tích đất trước và sau thí nghiệm
pHKCl Mùn (%)
Đạm tổng số
(%)
Lân tổng số
(%)
Kali tổng số
(%)
Lân dễ tiêu
(mg/100g đất)
TTN 4,73 1,30 0,080 0,050 0,050 4,55
I 4,52 1,29 0,080 0,050 0,050 4,38
II 5,31 2,07 0,120 0,060 0,052 7,50
III 5,52 2,20 0,130 0,090 0,055 7,50
IV 5,27 2,38 0,110 0,070 0,053 8,40
V 5,16 1,91 0,090 0,080 0,054 8,06
VI 5,10 2,07 0,100 0,090 0,054 6,25
VII 5,43 1,81 0,110 0,090 0,055 5,63
VIII 5,01 2,46 0,110 0,060 0,053 7,50
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai
1073
Hàm lượng đạm tổng số (N%): Ở các
công thức có bón phân hữu cơ thì lượng đạm
tổng số dao động trong khoảng 0,09 – 0,12%.
Hàm lượng lân tổng số (P2O5) ở các công
thức sau và trước thí nghiệm đều ở mức nghèo
đến trung bình 0,05 – 0,09%. Trên nền đất có
bón phân hữu cơ hàm lượng lân tổng số có cải
thiện hơn so với không bón phân hữu cơ.
Hàm lượng kali tổng số (K2O): Việc bón
phân hữu cơ chưa cải thiện được nhiều hàm
lượng kali tổng số trong đất, hàm lượng kali
trước và sau thí nghiệm chỉ dao động trong
khoảng 0,050 – 0,055%.
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
- Bón các dạng phân hữu cơ được sản
xuất từ phụ phẩm nông nghiệp đã tăng các chỉ
tiêu sinh trưởng và phát triển của cây lạc, đồng
thời tăng các yếu tố cấu thành năng suất, năng
suất lạc và hiệu quả kinh tế có ý nghĩa so với
đối chứng. Các công thức có bón phân hữu cơ
sản xuất từ phụ phẩm nông nghiệp cho lãi ròng
tăng so với đối chứng 5,5 – 13,5 triệu đồng/ha.
- Các công thức có bón phân hữu cơ có
ảnh hưởng nhiều đến các tính chất đất như:
tăng hàm lượng mùn, pH, đạm, lân, kali tổng số.
Vì vậy, cần phải duy trì việc bón phân hữu cơ để
cải thiện tính chất đất.
4.2. Đề nghị
- Cần có thêm nghiên cứu việc sử dụng
các vật liệu như rơm rạ và bèo tây kết hợp với
phân lợn và chế phẩm Tricoderma để ủ phân
để có thể thu được kết quả chính xác hơn về
hàm lượng các nguyên tố dinh dưỡng.
- Cần phải thực hiện thêm 1 – 2 vụ để
xác định được chính xác hiệu quả của phân hữu
cơ làm từ phụ phẩm nông nghiệp đến các chỉ
tiêu sinh trưởng, các yếu tố cấu thành năng
suất, năng suất lạc, hiệu quả kinh tế. Đặc biệt là
ảnh hưởng đến các tính chất lý hóa học đất
trồng lạc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Hoa H. T. T., Thuc D. D., Pham Q. H., Dufey
J. E., 2009. Balance of macronutrients (N–
P–K) in farming systems of Thua Thien -
Hue province at single-field plot and whole-
farm levels. In: Minh T. V., ed. Proceedings
of the Improving food crop productivity in
the coastal sandy area of the Thua Thien -
Hue province, Central Vietnam. Hue
University Publishing House.
[2]. Phạm Tiến Hoàng, 2003. Phân hữu cơ trong
hệ thống quản lý dinh dưỡng tổng hợp cho
cây trồng. Tạp chí Khoa học Đất, số 18
(2003), 49 -54.
[3].
vuc/201404/nhieu-dien-tich-lac-o-thua-
thien-hue-bi-sau-benh-pha-hoai.
ABSTRACT
Different types of organic fertilizers affecting to peanut productivity in grey degraded soil of
Thua Thien - Hue
This study consisted of eight treatments arranged in RCBD with three replications in 2014 winter
– spring. The study aims at determining influence of the diffenrent types of organic fertilizers on peanut
growth, development and yield under cultivation on grey degraded soil of Thua Thien – Hue. The
results showed that applications of the organic fertilisers significantly improved growth, development
and yielding of peanut (Arachis hypogaea). As a result, application of organic fertilisers increased
peanut yield from 0.2 to 0.4 t/ha as compared to control. Organic fertilizer types of 25% water hyacinth
+ 25% rice straw + 50% pig manure + Trichoderma obtained the highest yield of 1.92 t/ha. However,
the type of 75% water hyacinth + 25% pig manure + Trichoderma obtaine the highest economic value
inceasing VND 13.500.000 / ha as compared to control. All treatments supplied organic fertilisers
impoved soil fertility better than control.
Keywords: grey degraded soil, organic fertilizer, peanut.
Người phản biện: TS. Bùi Huy Hiền
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_viet_60_183_2130147.pdf